ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ THEO DÕI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG SAU PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ LÚN ĐỐT SỐNG TRÊN NỀN
LOÃNG XƯƠNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP BƠM XI MĂNG SINH HỌC KHÔNG BÓNG TẠI CẦN THƠ NĂM 2021-2022
Hà Thoại Kỳ1, Phạm Văn Năng1, Nguyễn Duy Linh1, Nguyễn Hữu Tài1, Trịnh Đình Thảo1, Lê Thị Thảo Vy1, Chương Chấn Phước2, Trần Văn Minh2, Nguyễn Quang Hưng3, Nguyễn Trung Tính3
TÓM TẮT18
Đặt vấn đề: Việc đánh giá theo dõi bệnh nhân lún đốt sống do loãng xương sau bơm xi măng sinh học là vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật và theo dõi chất lượng cuộc sống sau phẫu thuật bơm xi măng sinh học không bóng tại Cần Thơ từ 2021-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 41 bệnh nhân được chẩn đoán và phẫu thuật tại Cần Thơ và đánh giá kết quả giảm đau, cải thiện chất lượng cuộc sống sau phẫu thuật. Kết quả: Có 41 bệnh nhân với 63 đốt sống được bơm xi măng với lượng xi măng trung bình mỗi đốt là 4,56 ± 1,36 ml. Kết quả sau mổ 24 giờ (thang điểm VAS) là 4,02 ± 1,11 điểm. Tỉ lệ biến chứng bơm xi măng tràn ra ngoài chiếm tỉ lệ 12,7%, không có biểu hiện trên lâm sàng. Kết quả thang điểm Roland-Morris trung bình sau mổ 24 giờ giảm 10,44 điểm. Kết luận: Phương pháp phẫu thuật bơm xi măng sinh học không bóng là phương pháp hiệu quả ít biến chứng.
1Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
2Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ
3Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần Thơ Chịu trách nhiệm chính: Hà Thoại Kỳ Email: [email protected] Ngày nhận bài: 10.10.2022
Ngày phản biện khoa học: 19.10.2022 Ngày duyệt bài: 31.10.2022
Từ khóa: loãng xương, thang điểm Roland- Morris, bơm xi măng sinh học không bóng.
SUMMARY
RESULT THE SHORT-TERM OUTCOMES OF CEMENT
VERTEBROPLASTY IN OSTEOPOROTIC COMPRESSION FRACTURE IN CAN THO IN 2021 -2022
Background: The evaluation and follow-up of patients’ osteoporotic compressive fractures is a matter of concern. Objectives: To describe the results of vertebroplasty and monitoring of the quality of life after an osteoporotic compressive fracture in Can Tho from 2021 to 2022.
Materials and methods: Descriptive study of 41 patients with compressive fracture of osteoporosis vertebral spine who underwent surgery by vertebroplasty cement at Can Tho and evaluating the results of the quality of life of patients after surgery. Results: There were 41 patients with 63 vertebroplasties with an average amount of cement per vertebra of 4.56 ± 1.36 ml.
Results 24 hours after surgery (VAS scale) 4.02
± 1.11 points. The rate of complications of cement injection spilled out accounted for 12.7%, there were no cases with clinical symptoms. The average Roland-Morris score after 24 hours of surgery decreased by 10.44 points. Conclusion:
The surgical method of vertebroplasty is an
effective method of pain relief, improving the quality of life for patients.
Keywords: osteoporosis, Roland-Morris scale, vertebroplasty cement.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiều bệnh nhân mắc bệnh lún đốt sống do loãng xương có thể bị ảnh hưởng đáng kể và giảm chất lượng cuộc sống sau cơn đau dữ dội, bất động kéo dài, chứng gù lưng, giảm chức năng phổi, trầm cảm và mất khả năng sinh hoạt độc lập. Tỉ lệ lún đốt sống phụ nữ gia tăng sau 50 tuổi và sau 80 tuổi ở nam giới, trong đó tỉ lệ điều trị lún đốt sống phụ nữ trên 65 tuổi là 20% và nam giới là 12,5% [8]. Tạo hình đốt sống qua da (THĐSQD) với hiệu quả giảm đau nhanh và ít biến chứng đang là phương pháp đang được lựa chọn để điều trị cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương. Tại Việt Nam từ năm 2002 tác giả Phạm Minh Thông đã THĐSQD bằng bơm xi măng điều trị cho bệnh nhân với kết quả tốt 66,7% [4]. Chỉ bằng một cuộc mổ nhỏ, gây tê tại chỗ rồi đưa kim vào đốt sống lún rồi bơm vào đó một lượng xi măng, sau mổ chỉ vài giờ sau là hiện tượng đau đớn đã giảm đi rất nhiều hoặc hết hẳn. Do đó, nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật và theo dõi chất lượng cuộc sống sau phẫu thuật bơm xi măng sinh học không bóng tại Cần Thơ từ 2021-2022.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân lún đốt sống trên nền bệnh loãng xương được phẫu thuật bơm xi măng sinh học không bóng tại Cần Thơ từ tháng 3 năm 2021 đến tháng 6 năm 2022.
- Tiêu chẩn chọn mẫu: Bệnh nhân được chỉ định đo loãng xương trung tâm bằng
phương pháp DEXA có xác định loãng xương [1]. Bệnh nhân bị lún đốt sống ngực, thắt lưng và có biểu hiện đau tại vị trí đốt sống bị lún, có phù tủy xương trên phim MRI.
- Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân: Bệnh nhân có biểu hiện chèn ép thần kinh tại đốt sống bị lún, có biểu hiện tổn thương thành sau trên phim X quang. Bệnh nhân bị những bệnh lý nặng nguy kịch đến tính mạng, nhiễm trùng vùng mổ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu
- Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Cỡ mẫu: 41 bệnh nhân.
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện, có chủ đích các trường hợp đủ tiêu chuẩn nghiên cứu. Phân tích số liệu trên phần mềm SPSS.
- Nội dung nghiên cứu: Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (thông tin bệnh nhân, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước và sau phẫu thuật), đánh giá kết quả sau điều trị qua thang điểm VAS và thang điểm Roland - Morris.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành trên 41 bệnh nhân với 63 đốt sống chẩn đoán lún đốt sống do loãng xương được điều trị bằng phương pháp bơm xi măng sinh học không bóng đạt được một số kết quả
Tỉ lệ bệnh nhân nữ gấp 2,5 lần bệnh nhân nam (29/12), với tuổi trung bình là 72,24 ± 8,76 tuổi. Lượng xi măng được bơm trung bình mỗi đốt sống là 4,56 ± 1,36 ml. Điểm VAS trung bình của bệnh nhân trước điều trị là 6,98 ± 0,94, thấp nhất là 5 điểm, cao nhất là 9 điểm. Điểm Roland - Morris trước điều trị trung bình là 20,15 ± 1,59 thấp nhất là 17 điểm, cao nhất là 23 điểm.
Bảng 1. Phân bố tỉ lệ ngấm xi măng trong thân đốt sống.
Tỉ lệ ngấm Tần số (n) Tỉ lệ (%)
Dưới 1/3 7 11,11
Từ 1/3 đến 2/3 31 49,21
Trên 2/3 25 39,68
Tổng 63 100
Nhận xét: Nghiên cứu trên 41 bệnh nhân với 63 đốt sống được bơm xi măng có 31/63 đốt sống có tỉ lệ ngấm xi măng từ 1/3 đến 2/3 thân đốt sống chiếm 49,21%. Còn lại ngấm trên 2/3 thân đốt có 31 đốt sống chiếm 39,68%, dưới 1/3 thân đốt có 25 đốt sống chiếm 11,11%.
Bảng 2. Đường chọc trocar khi điều trị.
Đường chọc trocar Số lượng đốt sống Tỉ lệ %
Qua cuống sống bên phải 2/63 3,2
Qua cuống sống bên trái 4/63 6,3
Qua cuống sống hai bên 57/63 90,5
Qua thân đốt sống 0/63 0
Tổng số 63 100
Nhận xét: Có 57 đốt sống chiếm tỉ lệ 90,5% được sử dụng 2 đường vào qua 2 trocar 2 bên, 4 đốt sống chỉ vào bên trái chiếm tỉ lệ 6,3%, có 2 đốt sống chỉ vào bên trái chiếm tỉ lệ 3,2%.
Bảng 3. Các biến chứng khi bơm xi măng
Biến chứng Số đốt sống Tỉ lệ %
Tràn vào bờ trước 5/63 7,9
Tràn vào bờ sau 1/63 1,6
Tràn vào đĩa đệm 1/63 1,6
Tràn vào lỗ liên hợp 0/63 0
Tổng 7/63 11,1
Nhận xét: Trong 41 đối tượng nghiên cứu của chúng tôi với 63 đốt sống được bơm xi măng, biến chứng gặp trong quá trình bơm xi măng là tràn vào bờ trước chiếm 7,9%, tràn vào bờ sau chiếm 1,6%, tràn vào đĩa đệm chiếm 1,6%, tổng biến chứng gặp tràn xi măng chiếm 11,1%, không có trường hợp nào tràn vào lỗ liên hợp. Không có trường hợp nào biểu hiện lâm sàng cần điều trị.
Biểu đồ 1. Thay đổi điểm VAS trước và sau điều trị
Nhận xét: Trung bình điểm VAS giảm mạnh trong vòng 1 ngày đầu, trong nghiên cứu của chúng tôi là giảm từ 6,98 trước can thiệp xuống 4,02 sau can thiệp 1 ngày. Từ sau 1 ngày trung bình điểm VAS giảm đáng kể, tương ứng là 2,54; 1,49 và 0,68 sau 1 tuần, sau 1 tháng và sau 3 tháng.
Biểu đồ 2. Thay đổi điểm Roland - Morris trước và sau điều trị
Nhận xét: Trung bình điểm Roland - Morris giảm mạnh trong vòng 1 ngày đầu, trong nghiên cứu của chúng tôi là giảm từ 20,15 trước can thiệp xuống 9,71 sau can thiệp 1 ngày. Từ sau 1 ngày trung bình điểm Roland – Morris giảm đáng kể, tương ứng là 5,54; 3,24 và 1,59 sau 1 tuần, sau 1 tháng và sau 3 tháng.
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, lượng xi măng trung bình được bơm vào thân đốt sống là khoảng 4,56 ± 1,36 ml. Vũ Đức Đạt và cs năm 2019, lượng xi măng trung bình tác giả sử dụng để tạo hình là 3,6 ± 1,1 ml (1,5 – 7ml) [2]. Lý giải cho sự khác nhau này là do trong nghiên cứu của Vũ Đức Đạt, các
đốt sống được tạo hình chủ yếu là các đốt sống ngực cao, vì vậy kích thước thân đốt sống trung bình nhỏ hơn so với nghiên cứu của chúng tôi với phần lớn là các đốt sống ngực thấp và đốt sống thắt lưng. Do đó lượng xi măng trung bình của 2 nghiên cứu là khác nhau. Theo Khúc Văn Trung và cs (2019), lượng xi măng trung bình là 5,7 ml/đốt sống [5], cao hơn với nghiên cứu của nhóm chúng tôi. Điều này được lý giải do nhóm nghiên cứu chúng tôi chọn những trường hợp gãy lún mức độ nặng hơn, nên bơm lượng xi măng ít hơn tránh tràn ra ngoài gây chèn ép.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ ngấm xi măng và vị trí chọc kim trocar cũng tương đồng với nghiên cứu của Khúc Văn Trung và cs (2019) với tỉ lệ ngấm xi măng gặp nhiều từ 1/3 đến 2/3 và đa số được chọc kim qua cuống sống 2 bên [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có những trường hợp lún đốt sống nặng hơn so với nghiên cứu của tác giả Khúc Văn Trung (2019) và một vài trường hợp bệnh nhân cần bơm nhiều đốt sống cùng lúc, chúng tôi chọn bơm qua cuống một bên để cải thiện thời gian và tiết kiệm chi phí cho bệnh nhân.
Biến chứng tràn xi măng trong nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng với một
số các tác giả trong nước: Đỗ Mạnh Hùng năm 2017, tỉ lệ biến chứng xi măng tràn vào bờ trước 8,5%; tràn vào đĩa đệm chiếm 3,7%
[3]. Vũ Đức Đạt năm 2019 tỉ lệ biến chứng xi măng tràn vào bờ trước 9,6%; tràn vào đĩa đệm chiếm 6,8%; tràn vào bờ sau chiếm 4,1% [2]. Khi xi măng tràn vào đĩa đệm liên đốt sống, chúng tôi dừng bơm xi măng để tránh tràn thêm. Trong quá trình theo dõi, các biến chứng này đều không gây ra triệu chứng trên lâm sàng.
Tạo hình đốt sống qua da là phương pháp hiệu quả để giảm đau trong lún đốt sống do loãng xương, sau 3 tháng điều trị VAS giảm từ 6,98 xuống 0,68; thang điểm Roland – Morris giảm từ 20,15 xuống 1,59. Kết quả đạt được khá tốt so với những nghiên cứu trước đây, có thể do kĩ thuật và cải tiến trong việc điều trị. Matthew J.M và cộng sự đã xem xét một cách hệ thống 74 báo cáo khoa học về kết quả điều trị tạo hình đốt sống từ 1980-2008 và rút ra rằng bơm xi măng đốt sống qua da giúp giảm đau và phục hồi khả năng vận động nhanh chóng so với điều trị nội khoa đơn thuần chỉ trong 1 tháng sau bơm [7]. Như vậy hiệu quả giảm đau của phương pháp phẫu thuật bơm xi măng hiệu quả hơn điều trị nội khoa.
Bảng 4. Thang điểm Roland – Morris trong các nghiên cứu
Tác giả
n
Thang điểm Roland – Morris Trước
can thiệp
1 tuần
1 tháng
3 tháng
6 tháng
Klazen và cs (2010) [6] 101 18,6 11,8 9,8
Khúc Văn Trung (2018) [5] 62 19,9 9,2 8,0 6,4 -
Chúng tôi 41 20,15 5,54 3,24 1,59 -
Bảng 5. Thang điểm VAS trong các nghiên cứu
Tác giả n
VAS Trước
can thiệp 1
ngày 1 tuần 1 tháng 3 tháng 6 tháng Klazen và cs, 2010 [6] 101 7,8 3,7 3,5 2,5 2,4 2,3
Khúc Văn Trung và
cs, 2018 [5] 62 7,9 4.1 3,6 3,1 2,0 -
Chúng tôi 41 6,98 4,02 2,54 1,49 0,68
V. KẾT LUẬN
Phương pháp bơm xi măng sinh học điều trị hiệu quả cho những trường hợp bệnh nhân bị lún đốt sống do loãng xương. Mặc dù có tỉ lệ rò xi măng ra ngoài cao nhưng ít có biểu hiện lâm sang nên tương đối an toàn để thực hiện cho bệnh nhân. Cần xem xét chỉ định phù hợp để hạn chế những biến chứng cho bệnh nhân và đạt hiệu quả cao sau điều trị.
Kết quả điều trị của phương pháp bơm xi măng sinh học không bóng: Điểm trung bình thang điểm đau VAS và đánh giá chất lượng cuộc sống theo thang điểm Macnab của bệnh nhân sau bơm xi măng sinh học giảm theo thời gian bơm xi măng sinh học. Kết quả điều trị khi bệnh nhân theo cải thiện sau xuất viện 1 ngày, sau 01 tháng, sau 03 tháng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2016), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh cơ xương khớp. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 170-172.
2. Vũ Đức Đạt, Nguyễn Đình Hoà, Đinh Ngọc Sơn (2019), Kết quả tạo hình thân đốt sống ngực bằng bơm xi măng sinh học cho các bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương, Luận văn Thạc sĩ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
3. Đỗ Mạnh Hùng (2017), Nghiên cứu ứng dụng tạo hình thân đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống
do loãng xương, Luận văn Tiến sĩ, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
4. Phạm Minh Thông, Phạm Mạnh Cường (2008), Đánh giá hiệu quả của phương pháp tạo hình đốt sống qua da trong điều trị xẹp đốt sống bệnh lý, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học Bệnh viện Bạch Mai, 1, tr.62-68.
5. Khúc Văn Trung, Nguyễn Vũ Hoàng (2018), Kết quả điều trị xẹp thân đốt sống trên bệnh nhân loãng xương bằng phương pháp bơm cement sinh học qua da tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Y khoa, Trường Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
6. Klazen Caroline AH, Paul NM Lohle, Jolanda de Vries, et al (2010),
"Vertebroplasty versus conservative treatment in acute osteoporotic vertebral compression fractures (Vertos II): an open- label randomised trial", The Lancet, 376 (9746), p.1085-1092.
7. McGirt MJ, Parker SL, Wolinsky JP, Witham TF, Bydon A, Gokaslan ZL (2009), Vertebroplasty and kyphoplasty for the treatment of vertebral compression fractures: an evidenced-based review of the literature, Spine J, 9(6), p.501-508.
8. Tsai, KS et al (1996), Prevalence of Vertebral Fractures in Chinese Men and Women in Urban Taiwanese Communities, Calcif Tissue, 59(4), p.249 - 253.