• Tidak ada hasil yang ditemukan

đánh giá tiềm năng bổ cập nguồn tài nguyên nước

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "đánh giá tiềm năng bổ cập nguồn tài nguyên nước"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG BỔ CẬP NGUỒN TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỈNH TRÀ VINH

ĐÀO HỒNG HẢI*,**, PETER PAUL B.SILVA***, NGUYỄN VIỆT KỲ*,**, TIBOR STIGTER***

Evaluation of potential recharge of groundwater resources in Tra Vinh province

Abstract: This study uses two methods to calculate the potential recharge for groundwater resources in Tra Vinh province: (1) Groundwater fluctuation method; and (2) Soil water balance modeling method. The results show an estimated annual potential rechange of groundwater from 8% to 12% of the total annual precipitation for method 1, and 20% to 30% for method 2. This means that in some cases Area annual recharge can reach 20-30% of annual precipitation depending on soil type and land use. In the case of alluvial areas, where there is a mixture of sand, silt and clay, the annual potential recharge is approximately 8-12% of the total annual precipitation.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ *

Lượng bổ cập là một trong những thông số quan trọng để tính toán cân bằng nước phục vụ công tác tính trữ lượng tiềm năng khai thác của một tầng chứa nước, trên cơ sở đó tính toán dự báo được khả năng khai thác an toàn và bền vững của tầng chứa nước đó.

Tỉnh Trà Vinh là một trong các tỉnh thành khu vực đồng bằng sông Cửu Long có lượng bổ cập cho nước dưới đất rất ít vì nó được bao phủ bởi lớp bùn sét phía trên, và nước mưa chỉ có thể thấm xuống các tầng chứa nước bên dưới thông qua các giồng cát. Bên cạnh đó trong khu vực hiện chưa có nghiên cứu nào về tính toán đánh giá lượng bổ cập cho tài nguyên nước dưới đất, vì vậy khi tính

* Trường Đại học Bách Khoa TP.HCM

** Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

*** IHE Delft Institute for Water Education, Delft, The Netherlands

Tác giả liên hệ: ĐT:0902040478 Email: [email protected]

toán trữ lượng tiềm năng, hoặc khi sử dụng giá trị lượng bổ cập để chạy mô hình nước dưới đất cũng lấy các giá trị không chắc chắn, điều đó nói lên được sự cần thiết nghiên cứu định lượng lượng bổ cập của khu vực tỉnh Trà Vinh nói riêng và của đồng bằng sông Cửu Long nói chung.

2. ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU Tỉnh Trà Vinh nằm ở phía đông nam đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam và nằm giữa các tọa độ từ vĩ độ 9 ° 31'38,2 "đến 10°

04'45,1" và kinh độ 105 ° 56'57,1 "đến 106°

35'. Vùng này nằm về phía Tây Nam của Thành phố Hồ Chí Minh và nằm trên vùng đồng bằng ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long. Đường bờ biển kéo dài tới 65 km kéo dài từ huyện Duyên Hải đến huyện Châu Thành (Hình 1). Đây là tỉnh ven biển là một phần của vùng đất thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long có độ cao từ +2 mét đến +0.4 mét.

Có thể dễ dàng phân biệt khu vực này bởi số lượng lớn các giồng cát và mạng lưới sông rạch chằng chịt.

(2)

Hình 1: Bản đồ tỉnh Trà Vinh

Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có kiểu khí hậu nhiệt đới và có lượng mưa từ 1.400 mm đến 2.200 mm. Tổng lượng mưa ở tỉnh Trà Vinh xấp xỉ 1.500 mm (Bui et al.

2017). Lượng mưa trên địa bàn tỉnh có sự thay đổi lớn dần từ hướng Đông Bắc sang Tây Nam, sự phân bố của nó thay đổi theo không gian, lượng mưa cao nhất là ở Càng Long và TP. Trà Vinh ở phía Bắc và thấp nhất ở Cầu Ngang và Duyên Hải ở phía Nam.

Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5/tháng 6 đến tháng 11/tháng 12 với lượng mưa nhiều vào khoảng từ tháng 8 đến tháng 10. Thời gian mưa ở các huyện khác nhau vì thời gian mưa ngắn xảy ra gần đường bờ biển. Huyện Càng Long có số ngày mưa nhiều nhất với 118, tiếp theo là TP. Trà Vinh, H. Cầu Ngang và Duyên Hải với 98, 79 và 77, tương ứng. Nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh nhận được nhiều bức xạ hơn và thường có nhiệt độ ổn định. Biên độ nhiệt độ trong vùng dao động từ 18,5 °C đến 35,8 °C. Nhiệt độ tối đa và tối thiểu lần lượt xảy ra giữa tháng 4 và tháng 5, và tháng 12 và tháng 1. Nhiệt độ trung bình toàn tỉnh là 26,6 °C.

Hình 2: Các vị trí khảo sát hiện trường và phân loại đất tỉnh Trà Vinh

Tỉnh này rất thích hợp cho việc trồng các loại cây trồng trong năm vì nó có số giờ nắng trung bình là 7,7 mỗi ngày.

Tại khu vực Trà Vinh, lượng bốc hơi thực tế hàng năm dao động từ 809 mm đến 841 mm (Bui et al. 2017) cho toàn bộ Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó riêng ở TP. Trà Vinh lượng bốc hơi thực tế có thể lên tới 130 - 150 mm mỗi tháng. Ở quy mô không gian, tốc độ bốc hơi cao xảy ra ở các giồng cát phía Nam và vùng gần bờ biển. Khi lượng nước bốc hơi cao hơn lượng mưa, muối có xu hướng tăng lên do tác động của mao dẫn và tập trung ở lớp bề mặt, hậu quả làm đất trở nên kém màu mỡ và khó canh tác.

Đồng bằng sông Cửu Long có tổng diện tích đất là 3.973.400 ha, trong đó tỉnh Trà Vinh là 222.515 ha. Hoạt động kinh tế chính ở đồng bằng là nông nghiệp, do đó, một phần lớn diện tích đất đã được sử dụng để trồng lương thực.

Sản xuất lương thực bao gồm các loại cây trồng từ nông sản và chủ yếu là tôm cá từ nuôi trồng thủy sản. Tỉnh Trà Vinh sử dụng 80% diện tích đất cho nông nghiệp và chỉ 0,2% tổng diện tích được đô thị hóa.

3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THỦY VĂN Trong khu vực có tất cả 6 tầng chứa nước

(3)

chính gồm có: tầng chứa nước (TCN) Holocene (qh), Pleistocene trên (qp3), Pleistocene giữa

trên (qp2-3), pleistocene dưới (qp1), pliocene trên (n22

), và pliocene giữa (n21

).

Bảng 1: Đặc điểm tầng chứa nước (Nguồn: Bùi và cộng sự 2017; gwse.iheg.org.cn)

Tầng chứa nước

Bề dày (m)

Độ sâu (m)

Thành phần hạt Kiểu TCN

Trữ lượng tiềm năng Chất lượng nước

(qh) 15,5 16,9 Mịn Không

áp

Nghèo Chất lượng

thấp (qp3) 29,1 47,9 Sét bột, Sét, Cát,

Sạn sỏi

Áp lực thấp

Từ nghèo đến trung bình, Phù hợp cho khai thác hộ

gia đình

Đa phần là nước mặn

(qp2-3) 41,5 86,8 Sét bột, Sét, Cát, Sạn sỏi

Áp lực thấp

Tiềm năng cao, thích hợp cho khai thác qui mô nhỏ

Chất lượng tốt

(qp1) 38,1 146,5 Sét bột, Sét, Cát, Sạn sỏi, Cuội

Áp lực trung

bình

Từ trung bình đến cao Chất lượng tốt

(n22) 51,3 206,5 Hỗn hợp Cát, Sét, Cát lẫn sét - bụi

Áp lực cao

Tiềm năng giàu nước Chất lượng tốt

(n21) 53,8 274,8 Hỗn hợp Cát, Sét, Cát lẫn sét - bụi

Áp lực cao

Từ nghèo đến giàu nước Chất lượng tốt

4. PHƯƠNG PHÁP

Nghiên cứu sử dụng các phương pháp khảo sát thực địa thí nghiệm hiện trường và trong phòng nhằm mục đích: (1) xác định các khu vực có tiềm năng bổ cập tốt nhất trong khu vực; (2) phỏng vấn người dân về các hoạt động canh tác trong năm (về loại cây trồng, tần suất, và điều kiện tưới tiêu); (3) Lấy mẫu đất hiện trường; (4) Thực hiện thí nghiệm khả năng thấm của lớp đất mặt tại vị trí lấy mẫu.

Phương pháp thí nghiệm hiện trường xác định khả năng thấm của đất sau khi đất đạt đến trạng thái bão hòa. Để thực hiện phương pháp này, cần hai vòng có đường kính 30cm và 60cm với chiều cao 20-25 cm. Vòng trong phải được cài đặt trước, sau đó là vòng ngoài. Mục đích chính của vòng ngoài là đảm bảo dòng chảy bên trong vòng trong là phương thẳng đứng, tốc độ thấm sau đó có thể được ghi lại theo từng bước thời gian mong muốn và được tính theo công thức:

(4.1)

Trong đó:

v – Vận tốc dòng chảy hoặc tốc độ thẩm thấu tính bằng cm / phút; ∆V - Thể tích nước thêm vào tính bằng cm3; A - Diện tích vòng trong tính bằng cm2; ∆t - Bước thời gian tính bằng phút

Thí nghiệm trong phòng: Nhằm xác định các thông số của đất như: độ ẩm, thành phần hạt, dung trọng, khối lượng riêng, độ chặt, độ xốp, độ bão hòa, điểm héo, hệ số thấm.

Kết quả khảo sát và thí nghiệm sẽ được tổng hợp, phân tích và sử dụng tính toán lượng bổ cập của nước dưới đất qua 2 phương pháp:

- Phương pháp dao động mực nước ngầm để tính lượng bổ cập cho hệ thống nước ngầm, được tính theo công thức sau (Nonner và Stigter 2017):

(4.2) Trong đó:

Qprec: Tốc độ bổ cập (L/T); B: Diện tích bề mặt (m2); Sy: Hệ số nhả nước (-); ∆∅mod: Thay đổi cột nước; ∆t: Thay đổi thời gian

(4)

- Phương pháp mô hình bổ cập Spreadsheet (gọi là phương pháp mô hình cân bằng nước trong đất).

Đây là một phương pháp cân bằng nước trong đất tính toán sự thấm nước theo chiều dọc cũng như sự gia tăng mao dẫn trong vùng không bão hòa do quá trình mưa và quá trình thoát hơi nước (Nonner và Stigter 2016). Mô hình này sẽ được sử dụng để định lượng lượng bổ cập sử dụng dữ liệu đơn giản như lượng mưa, khả năng thoát hơi nước, mực nước ngầm, các đặc tính của đất và cây trồng như khả năng giữ ẩm, độ sâu rễ trung bình, độ sâu tới hạn và ngưỡng chảy tràn.

5. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Nhóm nghiên cứu tiến hành đi thực địa và đã chọn ra được năm vị trí khả thi và tiến hành thử nghiệm thấm bằng phướng pháp Double Ring, kiểm tra và lấy mẫu. Do trong khu vực hầu như được bao phủ bởi lớp đất sét nên cơ sở lựa chọn vị trí thí nghiệm dựa vào các điều kiện sau đây: (1) loại đất cát hoặc ít nhất là loại đất có chứa cát, (2) không có lịch sử trồng lúa như cây trồng chính và (3) nếu có vấn đề với độ mặn. Đất ở những vị trí này cũng được lấy mẫu và đưa về phòng thí nghiệm để xác định các thông số của đất như hệ số thấm, độ ẩm, độ hút ẩm, độ bão hòa, độ xốp, thành phần hạt.

Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn diện tích đất của tỉnh Trà Vinh được sử dụng cho nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản với sản phẩm chính là lúa và tôm. Sự thay đổi về mô hình cây trồng đã được quan sát thấy trong các chuyến thực địa thì hầu hết nông dân chọn trồng lúa

trong mùa mưa và chuyển sang trồng các loại cây khác sử dụng ít nước hơn trong mùa khô.

5.1. Công tác thí nghiệm và lấy mẫu hiện trường

Các vị trí thí nghiệm hiện trường được phân bố theo không gian từ Tây Bắc đến Đông Nam để có phạm vi khảo nghiệm rộng khắp khu vực nghiên cứu, do hạn chế về thời gian và kinh phí, nên trong nghiên cứu này chỉ chọn năm 5 vị trí để thực hiện nằm ở bốn huyện gồm; (1) Long Hữu - Duyên Hải, (2) TT Châu Thành – Châu Thành, (3) Giồng Nhỏ - Cầu Kè, và (4,5) An Trường, Huyền Hội - Càng Long.

Thí nghiệm thấm hiện trường – Phương pháp Doulble Ring:

Mục đích xác định khả năng thấm của đất sau khi đất đạt đến trạng thái bão hòa (ổn định), kết quả tính toán cho trong bảng 2.

Hình 3: Thiết bị đo thấm Double Ring

Bảng 2: Kết quả đo thấm theo phương pháp Double Ring

Vị trí 1 2 3 4 5

Loại đất Cát mịn Bùn cát Cát mịn Cát mịn Bùn cát

Tốc độ thấm (mm/giờ) 144 12 150 30 3,3

Trạng thái Khô Ướt Khô Ẩm Ướt

Thời gian TN (phút) 50 35 66 64 64

Tưới? Có Có Không Có Có

Kết quả cho thấy khả năng thấm dọc cao ở ba vị trí, trong đó vị trí 1 và 3 cho thấy khả năng thấm cao nhất. Các giá trị thu được trong thí

nghiệm hiện trường cho tất cả các vị trí khá cao riêng vị trí 5 hơi thấp so với các vị trí còn lại.

Giá trị cao này có thể là do sự hiện diện của chất

(5)

hữu cơ trong đất hoặc có thể do độ rỗng thứ cấp của đất, chất hữu cơ hoạt động giống như một lớp lọc làm tăng khả năng hấp thụ của đất, sự hiện diện của các lỗ rỗng thứ cấp như khoảng trống do giun đất tạo ra cũng có thể làm tăng khả năng hấp thụ của đất vì nước thấm vào sẽ phải lấp đầy các túi khí trước khi thấm sâu hơn.

Một trong những hạn chế của phương pháp này là giả định rằng dòng chảy hoàn toàn là thẳng đứng. Riêng vị trí 2 và 5 có một dấu hiệu cho thấy hàm lượng phù sa/đất sét cao hơn. Mặc dù

mô tả nó là “bùn cát”. Dựa trên các kết quả này cho thấy 3/5 vị trí (1, 3 và 4) là các vùng bổ cập tiềm năng của khu vực.

5.2. Kết quả thí nghiệm trong phòng Đất ở mỗi vị trí được lấy mẫu và đưa về phòng thí nghiệm Địa kỹ thuật – Khoa Kỹ thuật Địa chất và Dầu khí – Trường ĐH Bách Khoa – ĐHQG TP.HCM Để thí nghiệm 5 thông số gồm: độ thấm, dung trọng tự nhiên, độ rỗng, thành phần hạt và độ ẩm đã được xác định và được trình bày trong bảng 4 dưới đây.

Bảng 3: Kết quả thí nghiệm trong phòng Mẫu đất Các chỉ tiêu

1 2 3 4 5

Thành phần hạt Bùn cát hạt mịn

Bùn cát hạt mịn

Cát mịn Cát mịn Bùn cát hạt mịn

Độ ẩm (%) 11 23 10 23 21

Độ bão hòa (%) 28 30 29 29 25

Độ rỗng 32 35 31 33 35

Hệ số thấm (mm/giờ) 89 9 63 67 3

Vật tốc thấm (mm/giờ) 144 12 150 30 3,3

Hệ số nhả nước 0,12 0.12 0,12 0,12 0,12

Điểm héo 0,09 - 0,13 0,13 -

Mực nước ngầm

Hình 4 và hình 5 biểu diễn dao động mực nước theo mùa của TCN qh và qp3

Hình 4: Mực nước ngầm trong tầng chứa nước Holocen (qh)

Hình 5: Mực nước ngầm trong tầng chứa nước Pleistocen trên (qp3)

- Lượng bổ cập tiềm năng theo phương pháp dao động mực nước ngầm

Tính theo công thức 4.2 (Nonner và Stigter 2017): Kết quả tính toán lượng bổ cập tại khu vực vị trí số 1, Lượng bổ cập thay đổi từ 8% đến 12% tổng lượng mưa hàng năm (Hình 6).

Hình 6: Lượng bổ cập tính toán cho vị trí 1 - Tính toán lượng bổ cập theo phương pháp mô hình bảng tính

Kết quả từ những dự báo về các biến khí hậu như lượng mưa và nhiệt độ được sử dụng làm đầu vào chính trong mô hình này, sự thoát hơi nước được tính toán bằng phương trình Thornwaite (de

(6)

Laat và Savinije, 2016) vì chỉ có nhiệt độ và giờ nắng là dữ liệu có sẵn, độ ẩm, giá trị điểm héo (mô tả trong bảng 3). Vùng rễ và độ sâu tới hạn của từng loại cây trồng được xác định bằng cách sử dụng các tiêu chuẩn của FAO.

Tính toán lượng bổ cập cho 3 vị trí được xem là những khu vực có đặc điểm của đất cũng như các thông số đầu vào là khu vực có tiềm năng bổ cập cao đó là vị trí 1,3, và 4 như trong bảng 5. Nhìn chung, các tham số đều có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả mô hình tùy thuộc vào độ mạnh của từng tham số.

Nhìn chung, các tham số đều có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả mô hình tùy thuộc vào độ mạnh của từng tham số.

Ngoài ra còn kiểm tra giá trị lượng bổ cập thay đổi như thế nào khi có sự thay đổi về lượng mưa và nhiệt độ. Để đánh giá chính xác lượng bổ cập tại mỗi vị trí, các thông số và đầu vào phải ở cùng một vị trí. Điều này có nghĩa là các yếu tố đầu vào ban đầu như lượng mưa và nhiệt độ cũng như mực nước ngầm phải được thu thập cùng một điểm.

Kết quả tính toán cho thấy lượng nước bổ cập hàng năm khoảng 20 - 30% lượng mưa cả năm.

Sử dụng phương pháp dao động mực nước, kết quả cho thấy lượng nước được bổ sung hàng năm ước tính từ 8% đến 12% tổng lượng mưa hàng năm. Trong khi kết quả của mô hình bảng tính lại cho thấy rằng lượng bổ cập bằng 20%

đến 30% lượng mưa hàng năm. Ta thấy kết quả của mô hình bảng tính cao hơn so với phương pháp dao động mực nước có thể là do sự khác biệt về thông số đầu vào hai phương pháp. Cụ thể mô hình bảng tính có tính đến các quá trình vật lý trong vùng chưa bão hòa trong khi phương pháp dao động mực nước ngầm chỉ xem xét các đặc trưng của tầng chứa nước. Hơn nữa, sự khác biệt giữa các kết quả cũng có thể chỉ ra đặc điểm khác nhau về sự phân bố không gian của các khu vực bổ cập. Điều này có nghĩa là, ở một số khu vực, lượng mưa bổ cập cho nước dưới đất hàng năm có thể đạt tới 20-30% lượng mưa hàng năm tùy thuộc vào loại đất và việc sử dụng đất. Dựa trên các kết quả này, có thể nói rằng lượng nước bổ cập cho nước dưới đất hàng năm có thể lên đến 20-30% lượng mưa ở các

giồng cát không trồng lúa. Trong trường hợp các khu vực phù sa, nơi có hỗn hợp cát, phù sa và đất sét, lượng bổ sung hàng năm xấp xỉ 8- 12% tổng lượng mưa hàng năm.

Hình 7: Tính toán lượng bổ cập theo mô hình Spreadsheet vị trí 1

6. KẾT LUẬN

Trong năm vị trí nghiên cứu, có ba vị trí 1, 3 và 4 cho thấy đây là các khu vực có đặc điểm địa chất thuận lợi là khu vực có tiềm năng bổ cập cao cho nước dưới đất. Kết quả khảo sát thực địa và thí nghiệm thấm hiện trường cho thấy tốc độ thấm cao đối với những khu vực này và điều này có thể là do sự hiện diện của chất hữu cơ và độ rỗng thứ cấp có trong đất. Các kết quả này phù hợp với kết quả thí nghiệm trong phòng mặc dù có sự khác biệt về giá trị. Hơn nữa, mực nước ngầm gần vị trí số 1 cho thấy có xu hướng thay đổi theo mùa theo mùa, tăng trong mùa mưa và giảm trong mùa khô. Sự dao động này chỉ xảy ra trong tầng chứa nước đầu tiên là TCN Holocen (qh). Trường hợp các vị trí khác, không có giếng lân cận ở vị trí 3 và 4 nên không thể phân tích mực nước ngầm. Ngoài ra, cả hai vị trí không thể được sử dụng để so sánh giá trị lượng bổ cập vì có thành phần đất và các thông số thí nghiệm cho thấy hệ số thấm và các chỉ tiêu khác không phù hợp làm khu vực có tiềm năng bổ cập cho nước dưới đất.

Quy mô không gian của các khu vực bổ cập

(7)

phụ thuộc nhiều vào sự kết hợp của loại đất và việc sử dụng đất. Một số khu vực mặc dù là loại đất cát nhưng tỷ lệ thấm rất thấp do thay đổi nhu cầu sử dụng đất như trường hợp vị trí 2. Hơn nữa, cũng có những khu vực loại đất không phải là cát 100% nhưng lại có tốc độ thấm cao như trường hợp ở vị trí 3 là do việc sử dụng đất cụ thể cây trồng chính ở đây là cây ăn quả. Xét về các đặc điểm vật lý, việc sử dụng đất có ảnh hưởng lớn nhất đến đặc điểm bổ cập của các khu vực. vì vậy dựa theo bản đồ sử dụng đất tỉnh Trà Vinh năm 2009, vị trí 3 và 4 cho thấy những khu vực có triển vọng nhất trong việc đóng vai trò là khu vực bổ cập cho nước dưới đất do sự xuất hiện của các loại cây ngoài lúa như cây ăn trái và dừa.

Kết quả từ hai phương pháp, mô hình bảng tính và phương pháp dao động mực nước đã được phân tích và được sử dụng để so sánh lượng bổ cập ở vị trí 1. Kết quả cho thấy sự khác biệt lớn giữa hai phương pháp và điều này có thể là do phân bố không gian của các khu vực. Hơn nữa, nó cũng có thể do cách tiếp cận khác nhau của hai phương pháp trong việc tính toán lượng bổ cập vì cân bằng nước trong đất tập trung vào các quá trình vật lý đòi hỏi các thông số khác nhau. Trong khi đó phương pháp dao động mực nước chỉ xem xét các đặc tính của tầng chứa nước.

Với kết quả nghiên cứu có thể khẳng định có sự bổ cập khác nhau tùy thuộc loại đất và các đặc điểm sử dụng đất. phương pháp này có thể sử dụng để đánh giá khả năng bổ cập cho các khu vực khác. Vì thời gian và chi phí khảo sát hạn chế nên nghiên cứu này chỉ chọn và thí nghiệm được cho 5 vị trí điển hình mang đặc điểm của giồng cát của tỉnh Tra Vinh, để có thể đáng giá tổng quá và chính xác lượng bổ cập cho toàn tỉnh cần thiết có 1 nghiên cứu toàn diện trên diện rộng đối với tất cả các giồng cát sẽ xác định lượng bổ cập được chính xác hơn. Khuyến nghị đưa thêm các địa điểm để khảo sát, phân tích trong thời gian tới nhằm tìm ra các khu vực tiềm năng nạp điện hơn nữa trong tỉnh và thậm chí ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Lời cảm ơn

Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia TP.HCM (VNU-HCM) theo đề tài NCKH cấp ĐHQG loại C với MSĐT: C2020- 20-23/ĐHQG.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Behulu F., Melesse A. and Fiori A.

Climate Change Impact Assessment on Groundwater Recharge of the Upper Tiber Basin (Central Italy), Chapter 30, DOI:

10.1007/978-3-379-18787-7_30, 2016

[2] Bui D., Nguyen N., Bui N., Le A., Le D.

Climate change and groundwater resources in Mekong Delta, Vietnam, Journal of Groundwater Science and Engineering, Volume 5, Number 1, 2017

[3] Kirkham M., Principles of Soil and Plant Water Relations, DOI: 10.1016/B978- 012409751-3/50008-6, 2014

[4] Kohne J., Junior J., Kohne S., Tiemeyer B., Lennartz B., Kruse J. Double-ring and tension infiltrometer measurements of hydraulic conductivity and mobile soil regions. e-ISSN 1983-4063 – www.agro.ufg.br/pat - Pesq.

Agropec. Trop., Goiania, v. 41, n.3, p. 336-347, jul./set. 2011.

[5] Nonner J. and Stigter T. Manual for the Recharge Computation Spreadsheet (EXCEL), 2016.

[6] Quang P. V. Soil Formation and Soil Moisture Dynamics in Agriculture Fields in the Mekong Delta, Vietnam, Conceptual and Numerical Models, ISBN 978-91-7415-244- 9, 2009.

[7] Shrestha S., Bach T. V., Pandey V. P.

Climate change impacts on groundwater resources in Mekong Delta under representative concentration pathways (RCPS) scenario.

Dx.doi.org/10.1016/j.envsci.2016.03.010, 2016.

[8] Thanh D., Tuc D., Tuan P., Hai D., Ky N., Vuong B. (2017) Mitigating groundwater salinity impacts for improved water security in coastal areas under socio-economic and climate change. DUPC2: 2016-2019.

Người phản biện: PGS, TS. ĐẬU VĂN NGỌ

Referensi

Dokumen terkait

Kết quả thí nghiệm và phương trình xác định tính chất lưu biến của dầu thô mỏ Cá Tầm ở các hàm lượng nước và nhiệt độ khác nhau, cho phép dự báo và là cơ sở để thiết kế các giải pháp kỹ

Trong bài báo này chủ yếu giới thiệu một số phương pháp tính toán dự báo độ ồn giao thông hiện đang được dùng ở trong và ngoài nước, từ đó kiến nghị nên sử dụng phương pháp theo quy

Từ kết quả phân tích tổng lượng dòng chảy lũ theo các kịch bản phát triển thủy điện ở thượng lưu và kết quả tính mực nước lớn nhất tại Tân Châu theo tương quan, số lượng lũ hàng năm

Đối với mô đun truyền tải khuếch tán và chất lượng nước Lưới tính toán trong mô đun chất lượng nước được rút gọn từ lưới tính thủy lực vì số liệu nồng độ ô nhiễm tại khu vực này được

ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC TỚI CHẾ ĐỘ THỦY VĂN NƯỚC NGẦM VÀ VẤN ĐỀ XÂM NHẬP MẶN VÀO CÁC TẦNG CHỨA NƯỚC VÙNG ĐẢO PHÚ QUÝ TỈNH BÌNH THUẬN Nguyễn Cao Đơn1

Hình 2.4: Minh họa thõng số lục cắt đối với mặt cắt có chúa ít nhất lượng cốt thép ngang tối thiểu Vp = 0 * Phương pháp đơn giản hóa cho mặt cắt dự ứng lực và không dự ứng lực pp.c:

Độ lún m của móng băng theo các phương pháp khác nhau có xét và không xét ảnh hưởng mực nước ngầm Tổng hợp các trường hợp phân tích có thể thấy rằng việc tính toán theo sơ đồ bài toán

Tài nguyên Thuộc tính giá trị của tài nguyên Tài nguyên Thuộc tính giá trị của tài nguyên Câu cá ở bờ biển là hình thức giải trí rất thú vị tâm linh Miếu Bà là địa chỉ