Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 3
ĐẠI ĐOÀN KÉT TOÀN DÂN TỘC - NGUỒN sức MẠNH NỘI SINH TRONG sự NGHIỆP ĐÓI MỚI HIỆN NAY
TS. TRẦN THỊ KIM NINH *)
Ngày nhận bài: 13/8/2022 Ngày thẩm định: 17/8/2022 Ngày duyệt đăng: 20/8/2022
Tóm tắt: Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh, đại đoàn kết dân tộc khi được phát huy sẽ tạo nên sức mạnh, trở thành động lực chủ yếu, ‘‘thành trì ” vững chắc đế bảo vệ độc lập dân tộc. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong quả trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ chiến lược đại đoàn kết toàn dân đê phát huy sức mạnh nội lực đất nước. Bài viết tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản về tập họp, đoàn kết toàn dân tộc đế phát huy sức mạnh nội lực trong sự nghiệp đối mới đất nước hiện nay.
Từ khóa: dại đoàn kết toàn dân tộc; đối mới; sức mạnh nội sinh
T
ruyền thống đoàn kết là một trong những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, được hình thành cùngvới sự hình thành quốc gia - dân tộc, trong điều kiện nhân dân ta phải thường xuyên đấu tranh
vói thiên tai và chống giặc ngoại xâm. Đe sinh tồn, cha ông ta đã đoàn kết để chống lại thiên tai, trồng lúa nước. Để trường tồn, ngay từ rất sớm, cha ông ta đã phải đoàn kết để chống ngoại xâm, bảo vệ thành trì độc lập dân tộc. Truyền thống đoàn kết cùng với chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, ý chí tự lực, tự cường,... là những yếu tố tạo nên sức mạnh vô địch trong trường kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta đã chứng minh: đại đoàn kết dân tộc không chỉ là giá tộ truyền thống tổt đẹp, mà còn được nâng lên là tư duy chính trị, kế sách giữ nước. Ớ mồi thời kỳ, giá trị truyền thống đó lại mang nội dung mới, được vun đắp thêm phong phú, bền vững. Trong
<*) Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
toàn bộ quá trình lãnh đạo, “Đảng ta luôn luôn xác định “đoàn kết” là giá trị cốt lõi và “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam”0’.
Thực tiễn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã chứng minh khả năng và trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam khi giác ngộ, tập hợp quàn chúng nhân dân, tạo nên sức mạnh nội sinh, động lực cách mạng giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân một lần nữa được khẳng định khi đất nước đứng trước khó khăn trong những năm 80 của thế kỷ XX. Một trong những thành công của sự nghiệp đối mới là Đảng đã hướng tim động lực từ quần chúng nhân dân, khơi dậy sức mạnh và khơi nguồn sáng tạo của toàn dân trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đất nước bước vào giai đoạn cách mạng mới, với những yêu cầu và nhiệm vụ mới, đòi hỏi Đảng phải có giải pháp hữu Khoa học chính trị - số 06/2022
• Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 4
hiệu để không ngừng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, để phát huy sức mạnh cùa khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
1. Xây dựng đồng thuận xã hội
Trong cuộc đấu tranh chổng ngoại xâm, giải phóng dân tộc, “không có gì quý hon độc lập tự do” là giá trị cao nhất, là mục tiêu chung tạo nên cơ sở khách quan cho khối đại đoàn kết toàn dân, mồi khi Tổ quốc bị xâm lãng, sức mạnh nội sinh ấy đã như chất keo, gắn kết toàn dân Việt Nam với ý chí sắt đá: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(2).
Sau khi giành được độc lập dân tộc, sức mạnh của ý chí chiến đấu chống ngoại xâm được chuyên thành sức mạnh của ý chí xây dựng xã hội mới, cuộc sống mới thì vấn đề đại đoàn kết dân tộc lại phải xác định rõ mục tiêu mới, nội dung mới làm “mầu số chung” để quy tụ sức mạnh toàn dân tộc.
Nen kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay làm cho xã hội phát triển ngày càng đa dạng. Việc xây dựng đồng thuận xã hội dựa trên mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là yêu cầu khách quan của sự phát tri en xã hội. vấn đề đặt ra là phải làm sao khai thác, phát huy sức mạnh của nhân dân gắn liền với bồi dưỡng sức dân, chăm lo lợi ích các giai cấp, tầng lóp trong xã hội.
Đại đoàn kết dân tộc đã khơi dậy, nuôi dưỡng và phát huy tính tích cực của mồi người dân Việt Nam, nhất là hướng tính tích cực của mỗi người lao động vào lợi ích chung của cộng đồng, tạo sự đồng tâm, tạo ra sức mạnh nội sinh to lớn của dân tộc. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát phát triên đât nước là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng;
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đãng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết họp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vừng môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta ưở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chù nghĩa”(3).
Mục tiêu này đã phản ánh nguyện vọng, lợi ích chính đáng của đại đa số quần chúng nhân dân, là “mầu số chung” để đoàn kết toàn dân.
Để đạt được mục tiêu trên, đồng thuận xã hội là tiền đề dẫn đến hành động chung trong các tầng lóp nhân dân. Đồng thuận chưa phải là nhất trí hoàn toàn, nghĩa là vẫn còn sự khác nhau. Vì vậy, cần thừa nhận và tôn trọng những cái khác biệt, miễn là không trái với lợi ích chung của toàn dân tộc. Hiện nay, đế tạo ra sự đồng thuận xã hội, cần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tồng Bí thư Nguyền Phú Trọng đã khẳng định: “chưa bao giờ công tác phòng, chống tham nhũng lại được chi đạo mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả như thời gian vừa qua; để lại dấu ấn nổi bật, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước”(4).
Bên cạnh đó, Mặt trận Tô quôc và các đoàn thể nhân dân cần “tăng cường giám sát để tạo sự đồng thuận, nhất trí cao, ổn định xã hội, phát triển toàn diện và bền vững đất nước”(5).
2. Vì dân, an dân
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước, chủ trương, đường lối của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân, để khơi dậy, phát huy, tạo năng lực làm chủ, hường quyền làm chủ, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm của nhân dân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã tổng kết bốn bài học kinh nghiệm, trong đó, bài học đầu tiên là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động’*6’ - cơ sở để khơi nguồn động lực từ Khoa học chính trị - số 06/2022
• Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhân dân. Từ Đại hội lần thứ IX của Đảng đến
nay, đại đoàn kết dân tộc luôn là “thành tố” của chủ đề đại hội, với hàm nghĩa đây là một trong những động lực to lớn để phát triển đất nước.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh hơn vị trí, vai trò chủ thể của nhân dân, là người vừa có quyền, vừa có trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Nhân dân là trung tâm, là chú thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ To quoc,,(7).
Điêm mới trong Văn kiện Đại hội lân thứ XIII của Đảng là vấn đề đại đoàn kết dân tộc được nhấn mạnh ở chủ đề Đại hội, mục tiêu tổng quát của Đại hội, là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm (nhiệm vụ trọng tâm thứ năm).
Chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”(8) được nhấn mạnh trong chủ đề Đại hội, thể hiện rõ việc xác định các động lực chính thúc đẩy phát triển đất nước, trong đó có động lực phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đây chính là một trong những khâu đột phá để tạo sức mạnh nội sinh vượt qua nguy cơ. Lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta đã chứng minh, triều đại nào biết dựa vào dân, thì sẽ tập hợp được sức mạnh trong nhân dân để kiên cường vượt qua khó khăn và chiến thắng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhắc nhở “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết!”<9).
Phương hướng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được xác định trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân”(10). Đe đạt được mục tiêu xây dựng đất nước trong những năm tiếp theo, Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định biên độ rộng hơn khi nêu động lực phát triển, nhấn mạnh đến việc khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc... Vì vậy, phát huy nội lực, phát huy tài dân, sức dân, của dân là một trong những động lực quan trọng để phát triền
5
đất nước. “Tài” là trí tuệ, tri thức, “của” là tài sản, tiền bạc, “sức” là công sức, sức mạnh. Nội lực trong dân chính là toàn bộ trí tuệ, tâm huyết, ý chí, quyết tâm của mồi ngưòi dân Việt Nam cùng xóa bở nghèo nàn, lạc hậu.
3. Nâng cao dân trí, phát triên nhân tài Nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế là phát triển nguồn lực con người. Báo cáo chinh trị tại Đại hội lần thứ XII1 cua Đảng khẳng định: “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba đột phá chiến lược của nhiệm kỳ. Đây là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời là chủ thể sáng tạo của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, nguồn sức mạnh nội sinh trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Xây dựng nguồn lực con người Việt Nam, làm cho mọi công dân được phát triển tự do, toàn diện, kết tinh được các giá trị văn hóa truyền thống quý báu, có đạo đức trong sáng, có trách nhiệm đối với bản thân, với gia đình và xã hội, có ý thức tự tôn dân tộc, được trang bị tri thức, kỹ năng sống, năng lực lao động sáng tạo, luôn có hoài bão, khát vọng phát triển trong cuộc sống là yêu cầu đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay. Vì vậy, cần nâng cao dân trí, để mồi người dân ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi đối với sự phát triển đất nước. Nâng cao dân trí với một nội hàm rộng, bao gồm hiểu biết về tư tưởng - chính trị - pháp luật nhằm giúp người dân xác định đúng lý tưởng; hướng đi phù hợp với quy luật, với xu thế phát triển chung của xã hội; hoài bão lập nghiệp, ý thức rõ ràng về quyền và nghĩa vụ công dân. Nâng cao hiểu biết về khoa học để người dân làm chú các phương tiện và quy trình kỳ thuật, sáng tạo để có những phát minh mới. Nâng cao hiểu biết về văn hóa đê hướng con người đến nhu cầu xây dựng cuộc sống theo giá trị thẩm mỹ cao đẹp.
Một xã hội tiến bộ là phải tạo ra những điều kiện và thiết chế đầy đủ đế con người trở thành chủ thế sáng tạo văn hóa, luôn chủ động vươn tới cái đẹp, cái giá trị.
Khoa học chính trị - số 06/2022
• Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ờ Việt Nam 6
Hiện nay, cùng với việc nâng cao dân trí, cần quan tâm bồi dưỡng nhân tài. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhắc nhở: “Chăm lo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, chiến dịch; thu hút, phát triển và trọng dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”(ll). Vì vậy, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ cấp chiến lược giỏi - là nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực then chốt trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ này cần có tầm tư duy chiến lược, nhìn xa, trông rộng, có khả năng tổng kết kinh nghiệm, tổ chức thực tiền để dự báo xu hướng phát triền;
biết lựa chọn giải pháp, bước đi phù hợp; năng động, sáng tạo trong tổ chức, thực hiện, kịp thời điều chỉnh và giải quyết mâu thuẫn trong quá trình triển khai thực hiện...
Cần xây dựng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao. Đây là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính đội ngũ hùng hậu này là một sự bảo đảm về cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách và khả năng dự báo xu hướng, triên vọng cũng như nguy cơ, hậu quả có thể xảy ra.
Xây dựng nguồn lực lao động được đào tạo, có tay nghề kỹ thuật, có vãn hóa, đạo đức, có năng lực, phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm công dân để không ngừng học tập, trau dồi tri thức. Bên cạnh trình độ lao động giỏi, lực lượng lao động này cần coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức, sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Đó là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cần phải được phát huy.
4. Phát huy dân chủ
Dân chủ và đoàn kết có mối quan hệ mật thiết, thúc đẩy nhau, tạo tiền đề và điều kiện để phát triển. Dân chủ nhằm tìm ra tiếng nói chung, mục tiêu chung, là điếm tương đồng nhằm đoàn kết toàn dân. Dân chủ là giải pháp tháo gỡ mọi rào cản, giải phóng tư tưởng, phát huy trí tuệ của con người, phát huy tiềm năng, tính tích cực xã hội và hành động một cách tự giác để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh. Dân chủ
phải gắn liền với đề cao trách nhiệm công dân;
kỷ luật, kỷ cương xã hội là vấn đề cốt lõi, có mối quan hệ gắn bó với nhau. Có kỷ cương mới bảo đảm được dân chủ. Có dân chủ mới bảo đảm sự đoàn kết vừng bền. Khi xã hội ngày càng phát triển, nhân dân được sổng trong một quốc gia - dân tộc độc lập, tự do, họ có quyền cải thiện đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đó, nổi lên là nhu cầu về quyền làm giàu họp pháp và chính đáng, quyền dân chủ, công bang. Khi đáp ứng được yêu cầu chính đáng đó của nhân dân, sẽ tập hợp, đoàn kết được toàn dân. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Để xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì cần phải thực hành và phát huy rộng rãi dân chú xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân. Phải thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chú trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chù ở cơ sở; làm tốt, có hiệu quả phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng””*12’.
“Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”*13’ là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng để đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới. Đó cũng là nhân tố tạo nên sức mạnh nội sinh, sức mạnh dân tộc, bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, giữ vững on định chính trị, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, đưa công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu và đạt được những thắng lợi to lớn □
(1). (4X (5), (9). (11X02) và (13) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.102,401,112,102,445,112 và 62
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.tr.534
(3X (7), (8) và (10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ XIII, tJ, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nọi, 2021, tr. 111 -112,27-28,111 -112 và 165 (6) Đáng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật Hà Nội, 1987, tr.29
Khoa học chính trị - số 06/2022