4. CDC (2015), "About Antimicrobial Resistance".
5. Dellit T.H., Owens R.C., McGowan J.E., Jr. et al (2007), "Infectious Diseases Society of America and the Society for Healthcare Epidemiology of America guidelines for developing an institutional program to enhance antimicrobial stewardship", Clin Infect Dis, 44(2), pp. 159-177.
6. Eckart J., Hogan M., Mao Y. et al (2017),
"Antimicrobial stewardship programs: Effects on clinical and economic outcomes and future directions", 24, p. 309.
7. Nguyen.T.V.Thi (2017), "Nghiên cứu tình hình sử dụng kháng sinh tại bệnh viện nhân dân Gia Định năm 2016 – 2017 và thực hiện các giải pháp can thiệp", Luận văn tốt nghiệp Dược sĩ chuyên khoa II, Đại học Y Dược TP.HCM, Việt Nam.
8. Trần Quang Bính (2015), "Chiến lược sử dụng kháng sinh và chương trình quản lý kháng sinh trong bệnh viện".
9. Vettese N., Hendershot J., Irvine M. et al (2013), "Outcomes associated with a thrice- weekly antimicrobial stewardship programme in a 253-bed community hospital", J Clin Pharm Ther, 38(5), pp. 401-404.
ĐẶC ĐIỂM BỆNH HỌC UNG THƯ BÀNG QUANG TIẾN TRIỂN TẠI CHỖ
Nguyễn Viết Hiếu1, Đỗ Ngọc Thể1, Trần Đức1, Trần Thanh Tùng2, Lê Văn Quyết3
TÓM TẮT14
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm bệnh học của bệnh nhân ung thư bàng quang tiến triển tại chỗ.
Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu, mô tả cắt ngang các bệnh nhân ung thư bàng quang tiến triển tại chỗ, được điều trị bằng phẫu thuật cắt
1Trung Tâm Tiết niệu-Nam khoa, Bệnh viện TƯQĐ 108
2Bộ môn Ngoại và Phẫu thuật thực hành, Đại học Y Dược Hải Phòng
3Trung tâm Chẩn đoán Hình ảnh, Bệnh viện TƯQĐ 108
Liên hệ tác giả: Nguyễn Viết Hiếu Email: [email protected] Ngày nhận bài: 27/7/2021
Ngày phản biện: 30/7/2021 Ngày duyệt bài: 25/9/2021
toàn bộ bàng quang tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 8/2017 – 4/2021.
Kết quả: 85 bệnh nhân với tỉ lệ nam/nữ là 13,17/1, tuổi trung bình là 66,68 ± 9,96 (30-87), vào viện vì lí do tiểu máu 89,4%, 37/85 bệnh nhân (43,5%) không có tiền sử điều trị bằng phẫu thuật, 81,3% chưa tráng bàng quang trước mổ, 89% chưa điều trị hóa chất toàn thân; soi bàng quang cho kết quả 60% u đa ổ; 76,9% u dạng chồi, 16,9% u dạng nhú. Có 77/85 bệnh nhân ung thư biểu mô chuyển tiếp đường niệu, trong đó độ ác tính cao là 75/77 bệnh nhân. Căn cứ vào mô bệnh học sau mổ, tỷ lệ chẩn đoán đúng giai đoạn T của CT Scan là 54,1%, chẩn đoán dưới mức 21,2% và chẩn đoán quá mức là 24,7%; tương tự, tỷ lệ chẩn đoán giai đoạn N của CT Scan lần lượt là 52,9% chẩn đoán đúng, 18,8% chẩn đoán dưới mức và 8,2% chẩn đoán quá mức; ngoài ra 20%
sai do trước mổ không xác định được giai đoạn N.
Kết luận: Nghiên cứu đã mô tả được một số đặc điểm bệnh học trước mổ của bệnh nhân ung thư bàng quang tiến triển tại chỗ, đặc biệt là CT- Scan có vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra chỉ định điều trị, cũng như tiên lượng bệnh.
Từ khoá: Cắt toàn bộ bàng quang, Ung thư bàng quang tiến triển tại chỗ.
SUMMARY
CHARACTERISTICS OF LOCALLY ADVANCED BLADDER CANCER Objective: To summarize the characteristics of locally advanced bladder cancer patients.
Patients and methods: Retrospective, cross- sectional description of patients with locally advanced bladder cancer undergoing radical cystectomy at 108 Military Hospital from 8/2017- 4/2021.
Results: 85 patients with male/female ratio was 13.17/1, average age was 66.68 ± 9.96 (30- 87), hospitalized for hematuria 89.4%, 37/85 patients (43.5%) had no history of surgical treatment, 81.3% did not have preoperative chemically coated bladder, 89% had not received chemotherapy, cystoscopy showed 60%
multifocal tumors; 76.9% budding tumors, 16.9% papillary tumors. There were 77/85 patients with Transitional Cell Carcinoma (TCC), of which grade 3 was 75/77 patients.
According to postoperative pathology, the correct diagnosis of T stage of CT Scan was 54.1% correct diagnosis, 21.2% under-diagnosis and 24.7% over-diagnosis. Similarly, the correct diagnosis of stage N of CT Scan was 52.9%, 18.8% under-diagnosis and 8.2% over-diagnosis, and 20% misdiagnosis result from couldn’t indeterminable the N stage reoperation.
Conclusion: Studying the characteristics of locally advanced bladder cancer patients contributes significantly to making treatment indications, as well as prognosis for patients to
get effective treatment strategies and bring best results.
Keyword: Locally advanced bladder cancer;
Radical cystectomy.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các bệnh lí ung thư đường niệu, ung thư bàng quang (UTBQ) thường gặp đứng hàng thứ 2 sau ung thư tuyến tiền liệt, trong đó tỉ lệ gặp ở nam giới cao hơn nữ giới [1]. Các nghiên cứu đều cho thấy tỉ lệ mắc bệnh ở nam giới cao gấp 3-4 lần so với nữ giới do các yếu tố như tiếp xúc với các tác nhân gây ung thư như hút thuốc lá, lao động trong môi trường độc hại,… Tuy nhiên, phụ nữ lại thường phát hiện bệnh muộn hơn và có tiên lượng nặng nề hơn so với nam giới.
UTBQ có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng phần lớn các trường hợp (70%) xảy ra ở người trên 60 tuổi [2]. Loại UTBQ phổ biến nhất là ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (TCC- Transitional Cell Carcinoma), chiếm tới hơn 90% các trường hợp UTBQ tại Hoa Kỳ. Ung thư biểu mô vảy (SCC- Squamous cell carcinoma) và ung thư biểu mô tuyến (Adenocarcinoma), mặc dù ít phổ biến hơn (tương ứng là 5% và 2%) nhưng thường có độ ác tính cao hơn và tỉ lệ tử vong lớn hơn [3].
Hướng dẫn của các Hội Niệu khoa trên thế giới đều thống nhất phân chia UTBQ thành 2 loại là UTBQ không xâm lấn cơ (NIMBC -Noninvasive muscle bladder cancer) và UTBQ xâm lấn cơ (IMBC - Invasive muscle bladder cancer) dựa vào độ xâm lấn của khối u qua các lớp của thành bàng quang (giai đoạn T), trong đó, phần lớn bệnh nhân mới được chẩn đoán ở nhóm NMIBC (70% đến 85%). Việc phân loại này rất quan trọng vì với NIMBC, bệnh nhân chỉ cần phẫu thuật nội soi qua niệu đạo để cắt u,
kết hợp với các liệu trình tráng bàng quang, hóa chất, điều trị miễn dịch nội khoa nếu cần thiết, còn với IMBC, cần can thiệp phẫu thuật cắt bàng quang triệt căn, chuyển lưu nước tiểu và hóa, xạ trị. Ngoài ra, phân loại UTBQ theo T,N,M cũng giúp tiên lượng và đưa ra phương án điều trị phù hợp cả trước, trong và sau phẫu thuật [3], [4].
Tuy vậy trên thực tế lâm sàng, việc phân chia giai đoạn T không hoàn toàn chính xác do những hạn chế đến từ khả năng thu thập mẫu bệnh phẩm của cắt đốt nội soi (cắt không đến lớp cơ, khối u to chảy máu nên không cắt hết được…), bên cạnh đó là vai trò của chẩn đoán hình ảnh, đặc điểm đại thể của khối u qua nội soi, độ mô học… đóng góp những thông tin quan trọng trong việc đưa ra chỉ định điều trị. Khái niệm UTBQ tiến triển trong bài này bao gồm các trường hợp UTBQ có chỉ định cắt toàn bộ bàng quang.
Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mô tả một số đặc điểm bệnh học của bệnh nhân, với mong muốn đóng góp thêm các thông tin vào đánh giá tiền phẫu của các trường hợp UTBQ tiến triển.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân được chẩn đoán UTBQ tiến triển, được điều trị bằng phẫu thuật cắt toàn bộ bàng quang tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 8/2017 đến tháng 4/2021.
Chỉ định cắt toàn bộ bàng quang [5]:
- UTBQ khu trú (T2N0M0) hoặc UTBQ xâm lấn cục bộ (T3a-T4a,N0-Nx,M0)
- UTBQ khu trú nguyên phát không xâm lấn cơ nguy cơ cao hoặc UTBQ khu trú không xâm lấn cơ tái phát.
- UTBQ độ ác tính cao không xâm lấn cơ (Ta,T1) hoặc ung thư biểu mô in-situ (CIS)
tái phát sau điều trị nội khoa bằng Bacillus Calmette-Guérin (BCG) hoặc bệnh nhân có u nhú không kiểm soát được bằng nội soi cắt u qua niệu đạo và điều trị nội khoa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả cắt ngang.
2.2.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu chính:
- Đặc điểm BN: tuổi, giới, thời gian mắc bệnh, lí do vào viện, tiền sử phẫu thuật và điều trị hỗ trợ chống tái phát.
- Đặc điểm u: vị trí, số lượng, hình thái u.
- Chẩn đoán giai đoạn trước mổ, sau mổ.
- Tỉ lệ đánh giá đúng giai đoạn của T,N trên CT Scan căn cứ theo giải phẫu bệnh (GPB) sau mổ.
2.2.3. Xử lý số liệu: Phân tích, xử lý số liệu bằng chương trình SPSS 25.0. Sử dụng các thuật toán thống kê thích hợp; các biến định tính được mô tả dưới dạng tỷ lệ %; các biến định lượng được mô tả dưới dạng giá trị trung bình.
2.2.4. Đạo đức nghiên cứu: nghiên cứu tuân thủ Tuyên ngôn Helsinki 1964 và được sự cho phép của Hội đồng đạo đức Bệnh viện TƯQĐ 108.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua hồi cứu 85 bệnh nhân, chúng tôi thu được một số kết quả về đặc điểm bệnh học của bệnh nhân ung thư bàng quang tiến triển như sau:
3.1. Đặc điểm bệnh nhân
Độ tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 66,68 ± 9,96 (30-87), hầu hết bệnh nhân ở nhóm tuổi từ 61-70 tuổi (41,2%). Về giới, có 79/85 bệnh nhân nam, chiếm tỉ lệ 92,9% và 6/85 bệnh nhân nữ chiếm tỉ lệ 7,1%, trong đó, tỉ lệ nam/nữ là 13,17/1.
Biểu đồ 1: Thời gian mắc bệnh
Biểu đồ 2: Triệu chứng/lý do vào viện
Bảng 1: Số lần mổ nội soi
Số lần mổ Số lượng Tỉ lệ %
Chưa mổ nội soi 37 43,5
1 lần 32 37,6
Từ 2 đên 4 lần 13 15,3
Từ 5 lần trở lên 3 3,5
Tổng 85 100
Biểu đồ 3: Số liệu trình tráng bàng quang (Doxorubicin, BCG)
Biểu đồ 4: Số liệu trình truyền hoá chất toàn thân
Biểu đồ 5: Loại tế bào ung thư trên giải phẫu bệnh
Bảng 2: Độ ác tính (tính trên các trường hợp ung thư biểu mô chuyển tiếp đường niệu)
Độ ác tính (TCC) Số lượng Tỉ lệ %
Grade 1 2 2,6
Grade 2 0 0
Grade 3 75 97,4
Tổng 77 100
Bảng 3: Số lượng u qua soi bàng quang (n=85)
Số lượng u trong bàng quang Số lượng Tỉ lệ %
Không thấy u 2 2,4
Có 1 u 30 35,2
Từ 2 u trở lên 51 60
U khó quan sát (kích thước lớn, chảy máu,…) 2 2,4
Tổng 85 100
Bảng 4: Hình thái u qua soi bàng quang (n=65)
Hình thái u Số lượng Tỉ lệ %
Không thấy u 2 3,1
Dạng nhú 11 16,9
Dạng chồi 50 76,9
U khó quan sát (kích thước lớn, chảy
máu,…) 2 3,1
Tổng 65 100
(Phân chia hình ảnh đại thể của u theo Hà Mạnh Cường (2021) [6])
Bảng 5: Chẩn đoán giai đoạn T trước mổ (theo GPB lần trước / Soi / CT) và sau mổ (theo GPB)
Giai đoạn T Trước mổ Sau mổ
Số bệnh nhân (tỷ lệ %)
T1 20 (23,5%) 29 (34,1%)
T2 49 (57,7%) 38 (44,7%)
T3 8 (9,4%) 11 (12,9%)
T4a 8 (9,4%) 6 (7,1%)
T4b 0 (0%) 1 (1,2%)
Tổng 85 (100%) 85 (100%)
Bảng 6: Chẩn đoán giai đoạn T trước mổ (theo GPB lần trước / Soi / CT) và sau mổ (theo GPB)
Giai đoạn N Trước mổ Sau mổ
Số bệnh nhân (tỷ lệ %)
N0 53 (62,4%) 62 (72,9%)
N1 10 (11,7%) 12 (14,1%)
N2 5 (5,9%) 11 (12,9%)
Nx 17 (20%) 0 (0%)
Tổng 85 (100%) 85 (100%)
Bảng 7: Tỷ lệ đánh giá đúng giai đoạn T của CT-Scan căn cứ theo GPB
Chẩn đoán Số lượng Tỉ lệ %
Đúng 46 54,1
Dưới mức 18 21,2
Quá mức 21 24,7
Tổng 85 100
Bảng 8: Tỷ lệ đánh giá đúng hạch di căn của CT-Scan căn cứ theo GPB
Chẩn đoán Số lượng Tỉ lệ %
Đúng 45 52,9
Dưới mức 16 18,8
Quá mức 7 8,2
Sai (Trước mổ Nx) 17 20
Tổng 85 100
IV. BÀN LUẬN
Theo nghiên cứu của Kirkali (2005) [7], nguy cơ phát triển UTBQ ở tuổi 75 là từ 2- 4% đối với nam giới và 0,5-1% đối với nữ, tuổi trung bình khi được chẩn đoán là 65-70 tuổi. Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 66,68 ± 9,96 tuổi (từ 30 đến 87 tuổi), nhóm tuổi gặp nhiều nhất: 61-70 tuổi. Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu tại BV Quân y 175 của Nguyễn Việt Cường (2015) [1] (57,63 ± 13,25 tuổi), nghiên cứu của Ngô Xuân Thái (2019) [8] tại BV Chợ Rẫy (57,4 9,6 tuổi), hay nghiên cứu của Vũ Lê Chuyên tại BV
Bình Dân (2010) [9] (51,2 ± 6,2 tuổi). Mặc dù các bệnh nhân lớn tuổi, đặc biệt là những bệnh nhân thể trạng yếu, mắc các bệnh lí nội khoa kết hợp không được khuyến khích cắt bàng quang triệt căn do tính chất phẫu thuật nặng nề, thời gian mổ lâu, nhiều tai biến, biến chứng, thời gian hồi phục dài nhưng chúng tôi thực hiện đánh giá bệnh nhân kỹ lưỡng trước mổ, tiên lượng các yếu tố khó khăn và cố gắng thực hiện phẫu thuật khi bệnh nhân có chỉ định để kéo dài thời gian sống cũng như tăng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau phẫu thuật.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 92,9%
bệnh nhân nam và 9,1% bệnh nhân nữ, tỉ lệ
nam/nữ là 13,17/1. Tỉ lệ mắc UTBQ theo các nghiên cứu trên thế giới của nam cao hơn gấp 3 đến 4 lần so với nữ, nguyên nhân có thể do thói quen hút thuốc và đặc thù nghề nghiệp trong môi trường độc hại [2], [7]. Tuy nhiên, nữ giới lại thường phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn hơn, tiên lượng nặng nề hơn và có tỉ lệ sống sót thấp hơn. Nguyên nhân do các bệnh nhân nam thường đi khám nếu thấy triệu chứng tiểu máu sơm hơn so với nữ, bên cạnh đó triệu chứng tiểu máu cuối bãi ở nữ hay bị chẩn đoán nhầm thành viêm bàng quang xuất huyết, ngoài ra, nữ giới có thể từ chối phẫu thuật cắt bàng quang triệt căn do ảnh hưởng đến chức năng sinh hoạt tình dục, thể trạng không đủ tốt để chịu đựng cuộc mổ lớn hoặc không còn chỉ định phẫu thuật do đã ở giai đoạn muộn của bệnh [7], [10].
Lí do vào viện của các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là đái máu, chiếm 89%, các triệu chứng khác như tiểu buốt, tiểu rắt 5% và tình cờ phát hiện bệnh là 6%. Điều này cũng tương tự như các nghiên cứu khác trên thế giới như Babjuk và cộng sự (2019) [11] (đái máu chiếm 80% bệnh nhân nam và 70% bệnh nhân nữ vào viện), Kristen Burn (tiểu máu ở 80% bệnh nhân UTBQ). Đái máu có thể ở dạng vi thể (có thể nhìn thấy máu dưới kính hiển vi) hoặc đại thể (có thể nhìn thấy máu trong nước tiểu).
Mức độ tiểu máu không tương quan với mức độ nghiêm trọng của bệnh; tiểu máu cũng gặp ở trong nhiều bệnh lí Tiết niệu khác, tuy nhiên tất cả bệnh nhân đái máu cần đi khám để loại trừ UTBQ.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có 37/85 bệnh nhân (43,5%) chưa can thiệp phẫu thuật, 48 bệnh nhân (56,5%) đã can thiệp phẫu thuật ít nhất 1 lần, trong đó có 3 bệnh nhân đã phẫu thuật nội soi cắt u từ
5 lần trở lên. Qua đây có thể thấy được mức độ tái phát rất cao của u. Việc chỉ định cắt bàng quang tận căn có thể giúp bệnh nhân giảm được tỉ lệ phải quay trở lại viện để điều trị do u tái phát hoặc do các triệu chứng của u mang lại, từ đó tăng được chất lượng cuộc sống cũng như giảm tỉ lệ tử vong của các bệnh nhân. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 19% bệnh nhân được điều trị tráng bàng quang bằng Doxorubicin hoặc BCG trước mổ; 11% bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất trước mổ. Nguyên nhân có thể do bệnh nhân phát hiện bệnh đã ở giai đoạn ung thư tiến triển, đã xâm lấn vào lớp cơ nên tỉ lệ điều trị bằng hóa chất và tráng bàng quang thấp. Nếu UTBQ được tầm soát tốt hơn, người bệnh được chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm hơn thì tỉ lệ trên sẽ cao hơn.
Soi bàng quang là một phương pháp ít xâm lấn, dễ thực hiện và chẩn đoán được tương đối chính xác u bàng quang. Soi bàng quang có thể đánh giá được số lượng, kích thước, hình thái, vị trí của u. Đặc biệt u bàng quang phẳng trong niêm mạc cũng có thể được chẩn đoán bằng soi bàng quang với ánh sáng huỳnh quang, điều mà siêu âm hay các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác không thể giúp phát hiện được u. Vì vậy, các bệnh nhân có biểu hiện tiểu máu hoặc nghi ngờ u bàng quang trên các phương pháp chẩn đoán hình ảnh thì nên được chỉ định soi bàng quang để loại trừ nguyên nhân do u bàng quang. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 51 BN (60%) có từ 2 u trở lên, 30 BN (35,2%) chỉ có 1 u, 2 BN (2,4%) không thấy u trong bàng quang và 2 BN (2,4%) u khó quan sát do chảy máu hoặc kích thước quá lớn.
Trên lâm sàng, người ta thường phân loại UTBQ thành 2 loại: Ung thư bàng quang chưa xâm lấn lớp cơ (NIMBC) và UTBQ đã
xâm lấn lớp cơ (IMBC) do liên quan đến việc đưa ra phương hướng điều trị và tiên lượng bệnh. Việc phân loại này dựa trên phân loại giai đoạn bệnh theo T(khối u chính), N(di căn hạch) và M(di căn xa).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chẩn đoán giai đoạn T1, T2, T3, T4a và T4b trước mổ của bệnh nhân lần lượt là 23,5%, 57,7%, 9,4%, 9,4% và 0% và sau mổ lần lượt là 34,1%, 38%, 12,9%, 7,1% và 1,2%. Tỉ lệ chẩn đoán đúng giai đoạn T của CT scan căn cứ theo GPB sau mổ là 54,1%, chẩn đoán dưới mức là 21,2% và quá mức là 24,7%.
Chẩn đoán giai đoạn N0, N1, N2, Nx trước mổ của bệnh nhân lần lượt là 62,4%, 11,7%, 5,9%, 20% và sau mổ lần lượt là 72,9%, 14,1%, 12,9%, và 0%. Tỉ lệ chẩn đoán đúng giai đoạn N của CT scan căn cứ theo GPB sau mổ là 52,9%, chẩn đoán dưới mức là 18,8%, và quá mức là 8,2%. Theo các nghiên cứu trên thế giới, tỉ lệ chẩn đoán đúng của CT tùy theo giai đoạn của khối u, dao động từ 40-98%, còn độ chính xác khi đánh giá di căn hạch của MRI và CT dao động từ 70- 98%, với tỉ lệ âm tính giả là 20-40% [7]. Qua đây có thể thấy nghiên cứu của chúng tôi cũng cho tỉ lệ đánh giá đúng của CT trước mổ so với GPB sau mổ thấp hơn 1 chút so với các nghiên cứu trên thế giới, nguyên nhân có thể do yếu tố trang bị vật tư của các nước phát triển hiện đại hơn, cũng như trình độ khoa học kĩ thuật của chúng tôi vẫn còn hạn chế hơn.
Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (TCC) gặp ở hầu hết các trường hợp UTBQ, ngoài ra có thể gặp ung thư biểu mô vảy (SCC), ung thư biểu mô tuyến (Adenocarcinoma),… Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả giải phẫu bệnh của các bệnh nhân sau mổ cho thấy có 91% TCC, 7% SCC, 1% Sarcoma và 1%
Adenocarcinoma. Một yếu tố quan trọng khác để phân loại, cũng như tiên lượng bệnh UTBQ là độ ác tính của tế bào, chia thành độ ác tính cao (Grade 3 - G3), độ ác tính trung bình (Grade 2 - G2) và độ ác tính thấp (Grade 1 - G1). Các nghiên cứu đều cho thấy tỉ lệ tái phát của u tỉ lệ thuận với độ ác tính của tế bào. Theo Vũ Văn Lại (2007) [12], bệnh nhân nhóm G3 có nguy cơ tái phát cao gấp 1,8 lần nhóm G2. Nghiên cứu của Sylvester (2006) [13] cho thấy, nguy cơ ở bệnh nhân nhóm G3 cao gấp 1,17 lần nhóm G1, G2. Theo Pillai R (2011) [14], nguy cơ ở bệnh nhân nhóm G3 cao gấp 5,7 lần nhóm G1, G2. Theo Đào Quang Oánh (2011) [10], sau khi u tái phát, cả độ ác tính (grade) và độ tiến triển (stage) cũng đều có thể tăng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, do các bệnh nhân đến viện đều ở giai đoạn tiến triển và 56,5%
bệnh nhân có u tái phát, tỉ lệ bệnh nhân ung thư tế bào chuyển tiếp có độ ác tính G3 là 97,4%, 2,6 bệnh nhân ở G và không có bệnh nhân nào G2.
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu trên 85 bệnh nhân ung thư bàng quang tiến triển được điều trị bằng phẫu thuật cắt toàn bộ bàng quang cho thấy độ tuổi trung bình 66,6 tuổi, tỷ lệ nam/nữ là 13/1, tỷ lệ u phát hiện lần đầu có chỉ định cắt triệt căn là 43,5%, mô bệnh học sau mổ có 91% là ung thư tế bào chuyển tiếp (với tỷ lệ ác tính cao chiếm 97,4%), tỷ lệ chẩn đoán đúng giai đoạn T và N trước mổ của CT-Scan lần lượt là 54,1% và 52,9%.
Chúng tôi nhận thấy chẩn đoán hình ảnh đóng vai trò rất quan trọng trong việc chẩn đoán giai đoạn trước mổ, tiên lượng và giúp đưa ra hướng điều trị đúng cho bệnh nhân ung thư bàng quang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Việt Cường (2015), "Kết quả bước đầu điều trị ung thư bàng quang tiến triển bằng phương pháp cắt bàng quang tận căn, tạo hình bàng quang bằng ruột tại bệnh viện Quân y 175", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 4, tr. 186-192.
2. Anderson, B. (2018), "Bladder cancer:
overview and management. Part 2: muscle- invasive and metastatic bladder cancer", Br J Nurs. 27(18), tr. S8-S20.
3. Farling, K. B. (2017), "Bladder cancer: Risk factors, diagnosis, and management", Nurse Pract. 42(3), tr. 26-33.
4. Bhanvadia, S. K. (2018), "Bladder Cancer Survivorship", Curr Urol Rep. 19(12), tr. 111.
5. Gakis, G. và các cộng sự. (2013), "ICUD- EAU International Consultation on Bladder Cancer 2012: Radical cystectomy and bladder preservation for muscle-invasive urothelial carcinoma of the bladder", Eur Urol. 63(1), tr.
45-57.
6. Hà Mạnh Cường (2021), Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư bàng quang nông bằng phẫu thuật nội soi kết hợp bơm Doxorubicin tại bệnh viện Việt Đức, Luận án tiến sĩ y học, Trường đại học y Hà Nội.
7. Kirkali, Z. và các cộng sự. (2005), "Bladder cancer: epidemiology, staging and grading, and diagnosis", Urology. 66(6 Suppl 1), tr. 4- 34.
8. Ngô Xuân Thái (2019), "Đánh giá hiệu quả kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang tân tạo theo phương pháp Abol-Enein trong điều
trị ung thư bàng quang", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 2, tr. 53-58.
9. Vũ Lê Chuyên (2010), "Phẫu thuật nội soi ổ bụng cắt bàng quang tận gốc kèm chuyển lưu nước tiểu – kinh nghiệm qua các trường hợp tại bệnh viện Bình Dân ", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 1, tr. 527-533.
10. Đào Quang Oánh (2011), "Một vài đặc điểm của ung thư bàng quang trên phụ nữ", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 3, tr.
1-3.
11. Babjuk, M. và các cộng sự. (2019),
"European Association of Urology Guidelines on Non-muscle-invasive Bladder Cancer (TaT1 and Carcinoma In Situ) - 2019 Update", Eur Urol. 76(5), tr. 639-657.
12. Vũ Văn Lại (2007), Nghiên cứu điều trị ung thư bàng quang nông bằng phẫu thuật nội soi cắt u qua niệu đạo kết hợp với bơm BCG vào bàng quang, Luận án Tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
13. Sylvester, R. J. và các cộng sự. (2006),
"Predicting recurrence and progression in individual patients with stage Ta T1 bladder cancer using EORTC risk tables: a combined analysis of 2596 patients from seven EORTC trials", Eur Urol. 49(3), tr. 466-5; discussion 475-7.
14. Pillai, R. và các cộng sự. (2011), "Do standardised prognostic algorithms reflect local practice? Application of EORTC risk tables for non-muscle invasive (pTa/pT1) bladder cancer recurrence and progression in a local cohort", ScientificWorldJournal. 11, tr.
751-9.