CHẤT LƢỢNG SỐNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƢ ĐẠI TRỰC TRÀNG SAU PHẪU THUẬT: MỘT NGHIÊN CỨU CẮT NGANG
TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Nguyễn Hoàng Thiên Thư1, Tô Gia Kiên2, Huỳnh Ngọc Vân Anh3, Dương Bá Lập4
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ung thư đại trực tràng là nguyên nhân gây tử vong thứ hai trong số các ung thư, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất và tinh thần. Đo lường chất lượng sống của bệnh nhân ung thư giúp chăm sóc và quản lý bệnh nhân hiệu quả và giảm thiểu tác động bất lợi trong điều trị. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định điểm số chất lượng sống trung bình của bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Bình Dân và các yếu tố liên quan.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên bệnh nhân ung thư đại trực tràng điều trị nội trú và người bệnh tái khám ngoại trú tại khoa Ung Bướu, phòng khám khoa Ung Bướu và khoa Tổng Quát I bệnh viện Bình Dân. Đặc điểm về nhân khẩu học, kinh tế - xã hội, thông tin điều trị, chất lượng sống được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp, dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng thu thập bằng hồ sơ bệnh án. Chất lượng sống đo bằng EORTC QLQ – C30. Điểm chất lượng sống giữa các đặc điểm của mẫu nghiên cứu được so sánh bằng kiểm định T, ANOVA và Kruskal – wallis. Hồi quy tuyến tính đa biến dùng để xác định mối liên quan giữa các yếu tố với điểm chất lượng sống. Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.
Kết quả: Trong số 172 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, 63,4 % nam giới và 51,7% trên 60 tuổi. Người bệnh hầu hết có học vấn dưới tiểu học, nghề nghiệp nghỉ hưu/ nội trợ/ thất nghiệp và kinh tế phụ thuộc. Phần lớn mẫu nghiên cứu là ung thư đại tràng, giai đoạn 3 trở xuống, có tình trạng hoạt động tốt (ECOG ≤2). Phương pháp mổ nội soi được sử dụng nhiều và người bệnh không đặt hậu môn nhân tạo. Điểm chất lượng sống trung bình là 77,0 14,2. Bệnh nhân nữ giới, học vấn trên tiểu học, có giai đoạn muộn, nông dân, không có khả năng chi trả, hoạt động kém, có hậu môn nhân tạo hoặc có CEA cao thì điểm chất lượng sống giảm.
Kết luận: Các chính sách hỗ trợ bệnh nhân ung thư nên tập trung vào bệnh nhân nữ, nông dân, người không có khả năng chi trả, người có hoạt động suy giảm, người có hậu môn nhân tạo và chỉ số CEA cao.
Từ khóa: chất lượng sống, ung thư đại trực tràng
ABSTRACT
QUALITY OF LIFE OF COLORECTAL CANCER PATIENTS AFTER SURGERY:
A CROSS-SECTIONAL STUDY AT BINH DAN HOSPITAL
Nguyen Hoang Thien Thu, To Gia Kien, Huynh Ngoc Van Anh, Duong Ba Lap
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No. 2 - 2022: 317 - 325 Objectives: Colorectal cancer is the second leading cause of death among cancers that seriously affects physical and mental health. Measuring the quality of life of cancer patients is an important part to manage patients effectively and minimize adverse effects of treatment. This study determines the mean score of quality of
1Y học Dự phòng Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. HCM
2Bộ môn Tổ chức Quản lý Y tế - Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. HCM
3Bộ môn Thống kê Y học và Tin học - Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. HCM
4Khoa Ngoại Tổng Quát, Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Tô Gia Kiên ĐT: 0907 857 370 Email: [email protected]
life of colorectal cancer patients after surgery at Binh Dan hospital and associated factors.
Methods: A cross-sectional study was conducted on colorectal cancer in- and outpatients treated at the Oncology Department, Oncology Clinic and General Department I, Binh Dan Hospital. Data on demographic characteristics, socio – economic status, treatment, quality of life were collected through face-to-face interviews;
clinical and subclinical data were collected from medical records. EORTC QLQ – C30 was used to measure quality of life. Performance status was assessed using Eastern Cooperative Oncology Group (ECOG) score. T – test, ANOVA and Kruskal – Wallis test were used to compare the mean score of quality of life across patients characteristics. Multiple linear regression was applied to assess association between associated factors with quality of life. P value <0.05 was considered as a statistical significance.
Results: The total sample size was 172 eligible participants, of which 63.4% was men and 51.7% were over 60 years old. Most participants were less than primary school, retired/ housewife/ unemployed, and economically dependent. Most patients had colon cancer, stage 3 and earlier, good performance status (ECOG ≤2). Most patients underwent laparoscopic surgery and had no ostomy. The mean score of EORTC QLQ – C30 was 77.0 ± 14.2. Patients who are women, at later stage of cancer, unable to pay for the treatment, have higher education than primary school, worse clinical condition, higher ECOG score, ostomy, and higher CEA level are more likely to have lower quality of life score.
Conclusion: Supportive policies should focus on women patients, farmers, those are unable to afford the treatment, those with physical impairment, and those have ostomy, or high CEA level.
Keywords: the quality of life, colorectal cancer
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đại trực tràng là một trong năm loại ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất trên thế giới, chiếm 10% và là bệnh lý ung thư gây tử vong đứng hàng thứ hai, với 0,94 triệu ca tử vong chỉ sau ung thư phổi(1,2). Với gần 1,7 triệu năm mất đi vì bệnh tật (DALYs), ung thư đại trực tràng là một trong ba nguyên nhân hàng đầu gây ra gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam(3).
Bệnh nhân ung thư đại trực tràng phải trải qua quá trình điều trị kéo dài và các nguy cơ hậu phẫu nên chất lượng sống là vấn đề đáng được quan tâm. Bên cạnh mục tiêu điều trị là bệnh nhân phải phục hồi, các nghiên cứu trên thế giới cho thấy so với dân số chung thì người bệnh ung thư đại trực tràng hậu phẫu bị ảnh hưởng nhiều trong cảm xúc, đồng thời các triệu chứng bệnh, khó khăn tài chính cũng làm giảm chất lượng sống, chủ yếu ở bệnh nhân trẻ tuổi(4). Những năm gần đây tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu trên đối tượng bệnh nhân ung thư đại trực tràng(5,6). Điểm số chất lượng sống của bệnh nhân ung thư đại trực tràng nằm ở mức trung bình, bệnh nhân đa phần bị ảnh hưởng ở cảm xúc, hạn
chế thể chất và lo lắng quá mức về tài chính trong quá trình điều trị(5,6).
Bệnh viện Bình Dân là một trong những bệnh viện chuyên khoa hàng đầu của khu vực phía Nam về tiếp nhận, khám và điều trị cho bệnh nhân ung thư đại trực tràng. Đã có nghiên cứu trên cùng đối tượng thực hiện vào năm 2014 tại bệnh viện Bình Dân(6), tuy nhiên nghiên cứu chỉ thu thập bệnh nhân tại phòng khám, nghiên cứu cũng chưa khai thác các đặc điểm về kinh tế - xã hội như tình trạng kinh tế, khả năng chi trả, bảo hiểm y tế và thông tin điều trị của người bệnh, đồng thời đặc điểm lâm sàng như vị trí khối u, đặt hậu môn nhân tạo, thời gian bệnh, bệnh kèm và cận lâm sàng vẫn chưa có số liệu cụ thể. Vì vậy, nghiên cứu mong muốn đóng góp thêm dữ liệu về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, giúp đánh giá được hiệu quả quá trình chăm sóc điều trị trên quan điểm của người bệnh. Đồng thời, những năm gần đây, việc điều trị ung thư đã được cải tiến, ổn định sức khỏe người bệnh sau phẫu thuật. Do đó, nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu đánh giá chất lượng sống của bệnh nhân sau phẫu thuật ung
thư đại trực tràng và các yếu tố liên quan.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuNghiên cứu được thực hiện tại khoa Ung Bướu, phòng khám khoa Ung Bướu và khoa Tổng Quát I bệnh viện Bình Dân, sử dụng kỹ thuật lấy mẫu toàn bộ bệnh nhân ung thư đại trực tràng sau phẫu thuật từ đủ 18 tuổi trở lên đang điều trị nội trú hoặc tái khám ngoại trú từ tháng 03 - 05/2021.
Tiêu chí loại ra
Gồm người bệnh không đủ sức khỏe để hoàn thành phỏng vấn, người bệnh không có khả năng hiểu và hoàn thành bộ câu hỏi tiếng Việt, người bệnh hoàn thành ít hơn 80% bộ câu hỏi hay trả lời không đầy đủ 30 câu của thang đo EORTC QLQ – C30.
Đối với bệnh nhân ngoại trú, nghiên cứu viên tiếp cận tại phòng khám, hỏi tên năm sinh chính xác từ bệnh nhân và kiểm tra sổ khám bệnh trước khi phỏng vấn; đối với bệnh nhân nội trú, dựa trên danh sách bệnh nhân và ngày điều trị do bệnh viện cung cấp, tìm bệnh nhân tại khoa, phòng và tiếp cận bệnh nhân. Sau khi giải thích về mục tiêu nghiên cứu và bảo mật thông tin, bệnh nhân hiểu rõ, đồng ý thì sẽ được ký văn bản đồng ý tham gia và tiến hành phỏng vấn.
Địa điểm nghiên cứu
Bệnh viện Bình Dân là một trong những bệnh viện chuyên khoa hạng I và là tuyến trung ương trong lĩnh vực phẫu thuật tổng quát của thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam. Với 790 giường bệnh, số ca phẫu thuật hằng năm của Bệnh viện Bình Dân lên đến hơn 10.000 ca phẫu thuật tổng quát và gần 400.000 lượt khám ngoại trú(7). Bên cạnh đó, bệnh viện Bình Dân còn là bệnh viện đầu tiên đưa công nghệ robot trong phẫu thuật nội soi, kết hợp với mổ hở kinh điển trong điều trị bệnh lý lành tính và ác tính đường tiêu hóa, bao gồm ung thư đại trực tràng(7).
Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Công cụ và kỹ thuật thu thập dữ liệu
Nghiên cứu viên phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân để thu thập các thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, kinh tế - xã hội, thông tin điều trị, chất lượng sống. Các thông tin về nhân khẩu học gồm: Nhóm tuổi (<60, ≥60), Giới tính (nam, nữ), Trình độ học vấn (≤ tiểu học, ≥trung học cơ sở), Nơi ở (thành phố/thị xã/thị trấn, nông thôn). Các thông tin về đặc điểm kinh tế - xã hội gồm: Nghề nghiệp (nghỉ hưu/nội trợ/thất nghiệp, nông dân, công nhân viên chức, khác), Tình trạng kinh tế (tự chủ, phụ thuộc vào gia đình/ xã hội), Tình trạng hôn nhân (độc thân, có vợ/ chồng), Sống chung (có, không). Các thông tin về quá trình điều trị gồm: Sự hỗ trợ điều trị (có, không), Khả năng chi trả (có, không), Bảo hiểm y tế (có, không), Biết thông tin về điều trị (có, không), Tình trạng hoạt động theo ECOG 0 – 4 (hoàn toàn khỏe mạnh/ đi lại được/ có thể làm việc nhẹ, có thể tự chăm sóc bản thân). Chất lượng sống được đánh giá bằng 30 câu của bộ EORTC QLQ – C30.
Dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng thu thập từ bệnh án. Dữ liệu lâm sàng: Hình thức điều trị (nội trú, ngoại trú), Vị trí ung thư (ung thư đại tràng, ung thư trực tràng), Giai đoạn ung thư (giai đoạn 1, 2, 3, 4), Thời gian bệnh (≤6 tháng, >6 tháng), Chỉ số BMI (gầy, bình thường, thừa cân, béo phì), Phương pháp phẫu thuật (mổ nội soi, mổ hở), Đặt hậu môn nhân tạo (có, không), Bệnh kèm (có, không). Dữ liệu cận lâm sàng gồm tỷ số bạch cầu neutro/
lympho (NLR) (<2,5, ≥2,5) và chỉ số kháng nguyên ung thư CEA (Carcinoma Embryonic Antigen) (<5 ng/ml, 5-30 ng/ml, >30 ng/ml).
Tình trạng hoạt động được đánh giá bằng thang đo của Nhóm hợp tác ung thư phía Đông (Eastern Cooperative Oncology Group (ECOG))(8), thang đo gồm 5 điểm 0 – 4, 0 là hoàn toàn khỏe mạnh; 1 là đi lại được, có thể làm việc
nhẹ; 2 là có thể tự chăm sóc nhưng không làm việc được, nằm giường <50% thời gian thức; 3 là nằm giường >50% thời gian thức; 4 là liệt giường hoàn toàn.
Bộ công cụ
Bộ công cụ The European Organisation for Research and Treatment of Cancer Quality of Life Questionnaire (EORTC QLQ – 30) đã được khẳng định độ tin cậy, tính giá trị phù hợp cho bệnh nhân ung thư và nhạy hơn trong việc phát hiện sự suy giảm chất lượng sống giai đoạn đầu sau phẫu thuật(9). Gồm 30 câu đo lường các khía cạnh khác nhau của chất lượng sống liên quan đến sức khỏe: chức năng, triệu chứng, tài chính, sức khỏe tổng quát. Thang đo có điểm giá trị từ 0 – 100. Điểm số được quy đổi như sau(10): Điểm thô RawScore (RS) = (Q1+Q2+Q3+…+Qn)/n.
Điểm chuẩn hóa gồm: Điểm lĩnh vực chức năng
= (1 - (RS-1)/3) ×100. Điểm lĩnh vực triệu chứng = (1 - (RS-1)/ 3) ×100. Điểm lĩnh vực tài chính = (1 - (RS-1)/ 3) ×100. Điểm lĩnh vực sức khỏe tổng quát = ((RS-1)/ 6) ×100. Điểm chất lượng sống chung sẽ là trung bình cộng của 4 lĩnh vực. Điểm số cao nghĩa là chất lượng sống tốt.
Phân tích thống kê
Các biến Nhóm tuổi (<60, ≥60), Giới tính (nam, nữ), Trình độ học vấn (≤ tiểu học, ≥ trung học cơ sở), Nơi ở (thành phố/thị xã/thị trấn, nông thôn), Nghề nghiệp (nghỉ hưu/ nội trợ/ thất nghiệp, nông dân, công nhân viên chức, khác), Tình trạng kinh tế (tự chủ, phụ thuộc vào gia đình/ xã hội), Tình trạng hôn nhân (độc thân, có vợ/ chồng), Sống chung (có, không), Sự hỗ trợ điều trị (có, không), Khả năng chi trả (có, không), Bảo hiểm y tế (có, không), Biết thông tin về điều trị (có, không), Tình trạng hoạt động theo ECOG 0 – 4 (hoàn toàn khỏe mạnh/ đi lại được, có thể làm việc nhẹ; có thể tự chăm sóc bản thân), Hình thức điều trị (nội trú, ngoại trú), Vị trí ung thư (ung thư đại tràng, ung thư trực tràng), Giai đoạn ung thư (1, 2, 3, 4), Thời gian mắc bệnh (≤6 tháng, >6 tháng), chỉ số BMI (gầy, bình thường, thừa cân, béo phì), Phương pháp phẫu thuật
(mổ nội soi, mổ hở), Đặt hậu môn nhân tạo (có, không), Bệnh kèm (có, không), Tỷ số bạch cầu neutro/ lympho (NLR) (<2,5, ≥2,5) và Chỉ số kháng nguyên ung thư CEA (Carcinoma Embryonic Antigen) (<5 ng/ml, 5-30 ng/ml và
>30 ng/ml) được mô tả theo tần số và tỷ lệ phần trăm.
Xử lý số liệu
Điểm số trung bình chất lượng sống lĩnh vực chức năng, triệu chứng, sức khỏe tổng quát, chất lượng sống chung được mô tả theo trung bình và độ lệch chuẩn. Điểm chất lượng sống lĩnh vực triệu chứng được mô tả theo trung vị và khoảng tứ phân vị.
Phân tích đơn biến
Kiểm định T hai mẫu độc lập dùng để so sánh điểm chất lượng sống trung bình giữa nhóm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nơi ở, tình trạng kinh tế, tình trạng hôn nhân, sống chung, sự hỗ trợ điều trị, khả năng chi trả, bảo hiểm y tế, biết thông tin về điều trị, tình trạng hoạt động theo ECOG 0 – 4, hình thức điều trị, vị trí, giai đoạn ung thư, thời gian mắc bệnh, phương pháp phẫu thuật, đặt hậu môn nhân tạo, bệnh kèm, NLR. Kiểm định Anova để so sánh điểm trung bình chất lượng sống chung giữa nhóm chỉ số kháng nguyên ung thư CEA và nhóm BMI.
Kiểm định Kruskal Wallis được dùng để so sánh điểm chất lượng sống chung giữa nhóm nghề nghiệp và các giai đoạn bệnh. Các kiểm định được xem là có ý nghĩa khi giá trị p <0,05.
Phân tích đa biến
Các biến số giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, sống chung, sự hỗ trợ điều trị, khả năng chi trả, hình thức điều trị, vị trí ung thư, giai đoạn ung thư, bệnh kèm, đặt hậu môn nhân tạo, tình trạng hoạt động theo ECOG 0 – 4 và chỉ số kháng nguyên ung thư CEA được đưa vào mô hình hồi quy tuyến tính đa biến số để phân tích mối liên quan với chất lượng sống chung.
Các biến số này được đưa vào mô hình vì có giá trị p <0,2(11) sau khi xét đơn biến từ các kiểm định T, Anova và kiểm định Kruskal
Wallis. Kiểm định được xem là có ý nghĩa khi giá trị p <0,05.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, số: 997/HĐĐĐ - ĐHYD ngày 11/01/2021.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu viên tiếp cận 200 bệnh nhân ung thư đại trực tràng sau phẫu thuật, sau khi giải thích rõ mục tiêu của nghiên cứu có 20 người từ chối tham gia. Tám người không hoàn thành bộ câu hỏi. Có 172 người được phân tích đưa vào kết quả, báo cáo chi tiết được trình bày dưới đây.
Bảng 1. Đặc điểm dân số của mẫu nghiên cứu (n=172)
Đặc điểm Tần số
Tỷ lệ
(%) Đặc điểm Tần số
Tỷ lệ (%) Nhóm tuổi Sống chung với người thân
<60 tuổi 83 48,3 Có 155 90,1
60 tuổi 89 51,7 Không 17 9,9 Giới tính Người hỗ trợ điều trị
Nam 109 63,4 Có 167 97,1
Nữ 63 36,6 Không 5 2,9
Trình độ học vấn Khả năng chi trả
≤ Tiểu học 116 67,4 Có 131 76,2
≥Trung học cơ
sở 56 32,6 Không 41 23,8
Nơi ở Sử dụng bảo hiểm y tế Thành phố, thị
xã, thị trấn 119 69,2 Có 172 100,0
Nông thôn 53 30,8 Không 0 0,0
Tình trạng kinh tế Nghề nghiệp Phụ thuộc 98 57,0 Hưu/ nội trợ/
thất nghiệp 90 52,3 Tự chủ 74 43,0 Nông dân 46 26,7 Tình trạng hôn nhân Công nhân viên
chức 20 11,6 Có vợ/chồng 98 57,0 Khác 16 9,4
Độc thân 74 43,0 Biết thông tin về điều trị Có 129 75,0 Không 43 25,0
Bảng 1 cho thấy tỷ lệ người ≥60 tuổi và < 60 tuổi tương đương, nam cao hơn nữ. Chủ yếu sống ở thành phố, thị xã, thị trấn. Khoảng 2/3 bệnh nhân có học vấn dưới tiểu học. Nghỉ hưu/
nội trợ/ thất nghiệp chiếm hơn 50% phần lớn có
kinh tế phụ thuộc. Hơn một nửa đối tượng đã có vợ/ chồng và 90,1% hiện có sống chung với người thân. Tỷ lệ bệnh nhân được cung cấp thông tin trong quá trình điều trị là 75%. Bệnh nhân được hỗ trợ, chăm sóc chiếm 97,1%. Tất cả bệnh nhân đều có tham gia bảo hiểm y tế và 76%
có khả năng chi trả.
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư đại trực tràng (n=172)
Đặc điểm Tần số
Tỷ lệ
(%) Đặc điểm Tần số
Tỷ lệ (%) Điều trị Thể trạng theo BMI Nội trú 46 26,7 Gầy (<18,5) 30 17,4 Ngoại trú 126 73,3 Bình thường
(18,5 - <23) 91 52,9 Vị trí ung thư Thừa cân (23 -
<25) 25 14,5 Ung thư đại tràng 100 58,1 Béo phì (25) 26 15,2 Ung thư trực tràng 72 41,9 Tỷ số neutro/lympho (NLR)
Giai đoạn ung thư <2,5 107 62,2 Giai đoạn 1 - 2 59 34,3 ≥ 2,5 65 37,8
Giai đoạn 3 65 37,8 Thời gian mắc bệnh Giai đoạn 4 48 27,9 <6 tháng 62 36,0 Phương pháp phẫu thuật ≥ 6 tháng 110 64,0
Mổ nội soi 98 57,0 Bệnh lý kèm theo
Mổ hở 74 43,0 Có 51 29,6
Tình trạng hoạt động Không 121 70,4 Hoàn toàn khỏe
mạnh/ đi lại được, có thể làm việc nhẹ
(ECOG ≤ 1)
148 86,0 Chỉ số kháng nguyên ung thư CEA Có thể tự chăm sóc
(ECOG = 2) 24 14,0 <5 ng/ml 87 50,6 Đặt hậu môn nhân tạo 5 - 30 ng/ml 44 25,6 Có 36 20,9 >30 ng/ml 41 23,8 Không 136 79,1
Tỷ lệ bệnh nhân ngoại trú chiếm 73,3%. Bệnh nhân ung thư đại tràng, giai đoạn 3 trở lên chiếm hơn 50%. Thời gian bệnh trên 6 tháng chiếm 64%. Có 29,6% bệnh nhân có ít nhất một bệnh kèm. Tỷ lệ bệnh nhân mổ nội soi là 57%, đa số không đặt hậu môn nhân tạo (79%). Hơn một nửa đối tượng có BMI bình thường. Trên 85% có tình trạng hoạt động hoàn toàn khỏe mạnh/ đi lại được, làm được việc nhẹ tương ứng ECOG
≤1. Có 62,2% bệnh nhân có tỷ số neutro/lympho (NLR) dưới 2,5. Tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số kháng nguyên ung thư CEA vào khoảng dưới 5 ng/ml
là 51% (Bảng 2).
Bảng 3. Điểm số chất lượng sống (n=172)
Lĩnh vực TB ĐLC NN LN
Chức năng 86,6 14,4 24,4 100 Triệu chứng 85,9 12,5 36,1 100 Tài chính 66,7 (66,7 - 100)* 0 100 Sức khỏe tổng quát 67,7 12,4 33,3 83,3 CLCS chung 77,0 14,2 28,3 95,8 TB: Trung bình; ĐLC: độ lệch chuẩn
Trung vị (khoảng tứ phân vị)
NN: giá trị nhỏ nhất LN: giá trị lớn nhất Điểm trung bình chất lượng sống chung là 77,0 14,2 điểm. Điểm trung bình lĩnh vực chức năng và triệu chứng là 86,6 14,4 và 85,9 12,5 điểm. Lĩnh vực tài chính có điểm trung vị là 66,7 điểm. Điểm sức khỏe tổng quát ở mức trung bình là 67,7 12,4 điểm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nữ giới có điểm chất lượng sống trung bình thấp hơn 5,0 điểm so với nam (KTC 95%: 0,4 – 9,5, p=0,032). Người có học vấn dưới tiểu học có điểm chất lượng sống
cao hơn 5,6 điểm (KTC 95%: 0,9 – 10,3, p=0,020).
So với nhóm công nhân viên chức, nhóm nghề nông dân có điểm chất lượng sống thấp hơn 8,4 điểm (KTC 95%: 0,6 – 16,2, p=0,035). Những người không có khả năng chi trả điều trị có điểm chất lượng sống trung bình thấp hơn 6,9 điểm (KTC 95%: 1,6 – 12,1, p=0,011). So với giai đoạn 1 – 2, nhóm bệnh nhân ở giai đoạn 3 và 4 có điểm trung bình chất lượng sống thấp hơn lần lượt là 4,6 điểm (KTC 95%: 0,5 – 8,8, p=0,029) và 6,4 điểm (KTC 95%: 1,5 – 11,4, p=0,011). Bệnh nhân không đặt hậu môn nhân tạo có điểm chất lượng sống cao hơn 7,1 điểm (KTC 95%: 2,6 – 11,6, p=0,002). Những người có thể tự chăm sóc (ECOG=2) có điểm chất lượng sống trung bình thấp hơn 13,5 điểm so với nhóm hoàn toàn khỏe mạnh/ đi lại được, làm được việc nhẹ (ECOG ≤1) (KTC 95%: 7,3 – 19,6, p <0,001). Nhóm bệnh nhân có chỉ số CEA >30 ng/ml có điểm trung bình chất lượng sống thấp hơn 4,7 điểm so với nhóm có CEA <5 ng/ml (KTC 95%: 0,1 – 9,3, p=0,044).
Bảng 5. Các yếu tố liên quan đến điểm chất lượng sống chung (n=172)
Đặc điểm Hệ sốthô KTC 95%thô Giá trị pthô Hệ sốhc KTC 95%hc Giá trị phc
Giới tính (nhóm nền: nữ) -4,3 -8,7; 0,02 0,051 -5,0 -9,5; -0,4 0,032 Trình độ học vấn (nhóm nền: ≥trung học cơ sở) -4,2 -8,7; 0,2 0,065 -5,6 -10,3; -0,9 0,020
Nghề nghiệp
Công nhân viên chức Nhóm nền
Hưu/ nội trợ/ thất nghiệp -3,2 -10,0; 3,5 0,338 -3,4 -10,6; 3,7 0,344
Nông dân -2,4 -9,7; 4,9 0,524 -8,4 -16,2; -0,6 0,035
Khác -14,0 -23,1; -4,8 0,003 -8,3 -17,0; 0,3 0,059
Khả năng chi trả (nhóm nền: không) -6,3 -11,1; -1,3 0,013 -6,9 -12,1; -1,6 0,011 Giai đoạn ung thư
Giai đoạn 1 – 2 Nhóm nền
Giai đoạn 3 -4,4 -8,6; -0,3 0,037 -4,6 -8,8; -0,5 0,029
Giai đoạn 4 -11,8 -17,3; -6,2 <0,001 -6,4 -11,4; -1,5 0,011 Đặt hậu môn nhân tạo (nhóm nền: không) 5,2 -0,03; 10,3 0,051 7,1 2,6; 11,6 0,002
Tình trạng hoạt động
Hoàn toàn khỏe mạnh/ đi lại được, có thể làm
việc nhẹ (ECOG ≤ 1) Nhóm nền
Có thể tự chăm sóc (ECOG = 2) -20,6 -27,8; -13,5 <0,001 -13,5 -19,6; -7,3 <0,001 Chỉ số ung thư CEA
<5 ng/ml Nhóm nền
5-30 ng/ml -3,7 -8,7; 1,3 0,147 -1,8 -6,2; 2,6 0,417
>30 ng/ml -9,2 -14,3; -4,1 <0,001 -4,7 -9,3; -0,1 0,044 Hệ số thô: phân tích đơn biến đánh giá mối liên quan giữa các đặc tính và chất lượng sống
Hệ số hiệu chỉnh: Hồi quy tuyến tính đa biến
BÀN LUẬN
Mục tiêu nghiên cứu là xác định điểm chất lượng sống trung bình của bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng tại bệnh viện Bình Dân và các yếu tố liên quan. Kết quả cho thấy điểm chất lượng sống trung bình là 77,0 14,2.
Chất lượng kém hơn ở nữ giới, học vấn trên tiểu học, nông dân, không có khả năng chi trả, tình trạng hoạt động kém, có hậu môn nhân tạo và giai đoạn bệnh nặng với chỉ số CEA cao.
Điểm số chất lượng sống trung bình ở lĩnh vực sức khỏe tổng quát, lĩnh vực chức năng của nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu đánh giá chất lượng sống trên 309 bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại Đức(4). Có thể do sự chênh lệch nhóm tuổi của hai nghiên cứu, tại Đức thu thập chủ yếu người bệnh trên 60 tuổi (74,5%), có bệnh kèm theo khá cao (68,3%) nên người bệnh chịu nhiều ảnh hưởng về thể chất hơn so với nghiên cứu này. Nghiên cứu tại bệnh viện Bình Dân tìm được mối liên quan giữa chất lượng sống và khả năng chi trả, điều này tương đồng với nghiên cứu tại Đức cũng cho thấy khó khăn tài chính là yếu tố cản trở chất lượng sống của bệnh nhân(4).
Có mối liên quan giữa chỉ số CEA và chất lượng sống. CEA được chỉ định chủ yếu để theo dõi điều trị, khối u có CEA cao thường tiên lượng xấu, bệnh chưa ổn định. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan của những chỉ số sinh học với chất lượng sống ở người bệnh mạn tính. Nghiên cứu tại Úc, bệnh nhân có các dấu hiệu viêm như protein phản ứng C, NLR tăng cao sẽ kéo theo gánh nặng triệu chứng và phản ánh điểm chất lượng sống kém(12). Tương tự, nghiên cứu đăng vào năm 2017 theo dõi 512 bệnh nhân ung thư đại tràng trong 12 đợt hóa trị liệu, cho thấy có mối liên quan giữa việc giảm nồng độ interleukin – 6 và protein phản ứng C với sự cải thiện trong chất lượng sống tổng quát, thể chất và một số triệu chứng ngay từ liệu trình hóa trị lần thứ tư(13).
Nghiên cứu tại Iran năm 2019 trên bệnh
nhân ung thư đại trực tràng có điểm số về chất lượng sống trung bình, thang đo chức năng và triệu chứng lần lượt là 49,91, 51,53 và 41,01, thấp hơn nghiên cứu tại bệnh viện Bình Dân(14). Điều này có thể lý giải do nghiên cứu tại Iran chỉ lấy bệnh nhân được chuyển tuyến trên nên đối tượng ở giai đoạn nặng, quy trình điều trị phức tạp. Đồng thời, nghiên cứu này cho thấy phụ nữ mắc ung thư đại trực tràng có mức độ trở ngại và ảnh hưởng cuộc sống nhiều hơn so với nam giới, kết quả này tương đồng với nghiên cứu tại Iran(14).
Nghiên cứu này tìm thấy mối liên quan giữa đặt hậu môn nhân tạo và chất lượng sống.
Nghiên cứu đoàn hệ tại Đức trên 268 bệnh nhân ung thư đại trực tràng sau phẫu thuật cho kết quả tương đồng, điểm chất lượng sống kém hơn ở những bệnh nhân ung thư trực tràng vị trí thấp và có hậu môn nhân tạo vĩnh viễn(15). Có thể lí giải do ung thư biểu mô ở xa liên quan đến nhiều biến chứng hậu phẫu, đồng thời túi hậu môn nhân tạo gây cản trở trong sinh hoạt kèm theo các vấn đề rò dịch, hở miệng nối và tính thẩm mỹ ảnh hưởng nhiều đến người bệnh, dẫn tới chất lượng sống kém(15).
Năm 2014 đã có nghiên cứu trên cùng đối tượng tại bệnh viện Bình Dân(6), các đặc điểm dân số của hai nghiên cứu có nét tương đồng như đa số là nam giới, người bệnh sống ở thành phố/ thị xã/ thị trấn, học vấn dưới tiểu học chiếm hơn một nửa, hơn 80% người bệnh có tình trạng hoạt động hoàn toàn khỏe mạnh, đi lại được (ECOG ≤1), giai đoạn bệnh sớm. Điểm số chất lượng sống lĩnh vực sức khỏe tổng quát ở nghiên cứu này cao nghiên cứu năm 2014(6), 84,8% bệnh nhân được chỉ định mổ hở trong khi nghiên cứu này tỷ lệ mổ nội soi chiếm đa số, đồng thời ở nghiên cứu này tất cả bệnh nhân đều có bảo hiểm y tế, 76,2% có khả năng chi trả dẫn đến cải thiện trong sức khỏe thể chất và tài chính. So với nghiên cứu trước thu thập 118 bệnh nhân tại phòng khám ung thư, nghiên cứu này được thực hiện tại cả 3 khoa gồm khoa Ung Bướu, phòng
khám khoa Ung Bướu và khoa Tổng quát I nên cỡ mẫu thu thập nhiều hơn với 172 đối tượng, đồng thời nghiên cứu này còn bổ sung nhiều đặc điểm mẫu như tình trạng kinh tế, sống chung, người hỗ trợ điều trị, khả năng chi trả, bảo hiểm y tế, biết thông tin điều trị, hình thức điều trị, thể trạng theo BMI. Các đặc điểm lâm sàng liên quan đến bệnh như vị trí ung thư, hậu môn nhân tạo, thời gian bệnh, bệnh kèm, chỉ số CEA và NLR cũng được bổ sung, từ đó cho cái nhìn cụ thể hơn về người bệnh ung thư đại trực tràng sau phẫu thuật đang điều trị tại bệnh viện Bình Dân. Có mối liên quan giữa điểm chất lượng cuộc sống với tình trạng hoạt động và giai đoạn bệnh. Điều này tương đồng với nghiên cứu vào năm 2014, ở nhóm bệnh ung thư có diễn tiến chậm, giai đoạn bệnh sớm thường đi liền với khả năng hoạt động tốt, người bệnh có thể sinh hoạt, chăm sóc cho bản thân(6).
Điểm mạnh trong nghiên cứu này là sử dụng thang đo đã được đánh giá về độ tin cậy, được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Ngoài ra, nghiên cứu tiến hành trên các khoa Ung Bướu, phòng khám khoa Ung Bướu và khoa Tổng quát I nên bao quát được bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại bệnh viện Bình Dân. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa phân tích các biến số liên quan đến điều trị cụ thể như số chu kì hóa trị, xạ trị, số lần phẫu thuật hay phác đồ khác nhau, cùng với thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả nên không khẳng định mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố và chất lượng sống.
KẾT LUẬN
Điểm chất lượng sống của bệnh nhân ung thư đại trực tràng sau phẫu thuật tại bệnh viện Bình Dân ở mức trung bình, lĩnh vực chức năng có điểm số cao nhất, điểm số thấp nhất ở lĩnh vực tài chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy người bệnh là nữ giới, học vấn trên tiểu học, nghề nông, không có khả năng chi trả, tình trạng hoạt động suy giảm, giai đoạn bệnh càng nặng, có hậu môn nhân tạo với chỉ số CEA cao làm
cần đầu tư tăng cường tiện nghi, cơ sở vật chất giúp bệnh nhân thoải mái hơn khi khám chữa bệnh, đặc biệt ở bệnh nhân hạn chế trong việc tự chăm sóc bản thân. Đồng thời, những bệnh nhân có kinh tế khó khăn cần được các ban ngành đoàn thể giúp đỡ, phối hợp với khoa phòng công tác xã hội tại bệnh viện để kịp thời liên hệ và theo dõi. Tăng cường truyền thông đến người dân để tầm soát, phát hiện và điều trị kịp thời bệnh ung thư đại trực tràng ở giai đoạn sớm.
Đây cũng là giải pháp để giảm nhẹ gánh nặng cho gia đình, xã hội đối với bệnh ung thư nói chung và ung thư đại trực tràng nói riêng(16).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, Siegel R L(2018). Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA Cancer J Clin, 68(6):394-424.
2. World Health Organization (2020). Noncommunicable diseases. URL: https://www.who.int/health- topics/noncommunicable-diseases#tab=tab_3.
3. Pham T, Bui L, Kim G, Hoang D, Tran T, Hoang M (2019).
Cancers in Vietnam-Burden and Control Efforts: A Narrative Scoping Review. Cancer Control, 26(1):1073274819863802.
4. Arndt V, Merx H, Stegmaier C, Ziegler H, Brenner H (2004).
Quality of life in Patients with colorectal cancer 1 year after dianosis compared with the general population: A Population – Based Study. Journal of Clinical Oncology, 22(23):4829-4836.
5. Minh Than Chau (2020) Quality of Life Among Colorectal Cancer Patients During Chemotherapy. Master's Theses Advanced Nurse Generalist, University of Northern Colorado.
6. Trần Thị Thuận Đức, Trương Phi Hùng (2016). Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đại trực tràng sau phẫu thuật tại Bệnh viện Bình Dân. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 20(1):169-173.
7. Bệnh viện Bình Dân. Tổng quan bệnh viện. URL:
http://bvbinhdan.com.vn/, truy cập ngày 15/07/2021.
8. Oken MM, Creech RH, Tormey DC, et al (1982). Toxicity and response criteria of the Eastern Cooperative Oncology Group.
American Journal of Clinical Oncology, 5(6):649-655.
9. Schwenk W, Neudecker J, Haase O, Raue W, Strohm T (2004).
Comparison of EORTC Quality of Life Core Questionnaire (EORTC-QLQ-C30) and Gastrointestinal Quality of Life Index (GIQLI) in patients undergoing elective colorectal cancer resection. International Journal of Colorectal Disease, 19(6):554-560.
10. Aaronson N K, Ahmedzai S, Bergman B, Bullinger M, et al (1993). The European Organisation for Research and Treatment of Cancer QLQ-C30: A quality-of-life instrument for use in international clinical trials in oncology. Journal of the National Cancer Institute, 85(5):365-376.
11. Bendel RB, Afifi AA (1977). Comparison of Stopping Rules in Forward “Stepwise” Regression. Journal of the American Statistical Association, 72(357):46-53.
12. Kao CS, Vardy J, Harvie R, et al (2013). Health-related quality of life and inflammatory markers in malignant pleural mesothelioma. Support Care Cancer, 21(3):697-705.
13. Thomsen M, Guren MG, Skovlund E, et al (2017). Health- related quality of life in patients with metastatic colorectal cancer, association with systemic inflammatory response and RAS and BRAF mutation status. Eur J Cancer, 81:26-35.
14. Laghousi D, Jafari E, Nikbakht H, et al (2019). Gender differences in health-related quality of life among patients with colorectal cancer. Journal of Gastrointestinal Oncology, 10(3):453- 461.
15. Hoerske C, Weber K, Goehl J, et al (2010). Long‐term outcomes and quality of life after rectal carcinoma surgery. BJS, 97(8):1296-1303.
16. American Society of Clinical Oncology (2021). Colorectal Cancer: Screening. URL: https://www.cancer.net/cancer- types/colorectal-cancer/screening.
Ngày nhận bài báo: 28/11/2021
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022