ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ỨNG DỤNG PHỨC HỢP TRƯỚC NGOÀI KHỚP GỐI
Nguyễn Phúc Huy1, Đỗ Phước Hùng2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tổn thương các thành phần giải phẫu của phức hợp trước ngoài thường kết với tổn thương dây chằng chéo trước. Hiểu biết về giải phẫu và cơ sinh học của phức hợp trước ngoài giúp cung cấp những kiến thức để đánh giá lâm sàng, hình ảnh học và phẫu thuật điều trị chấn thương gối có mất vững xoay trong
Mục tiêu: Xác định đặc điểm giải phẫu của các thành phần của phức hợp trước ngoài và khả năng chống xoay trong của các thành phần trong phức hợp trước ngoài
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên 30 mẫu gối (18 nam, 12 nữ) xác tươi người Việt Nam trưởng thành tại Bộ môn Giải Phẫu Học - Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Mẫu nghiên cứu gồm 30 gối trên xác tươi, 18 gối nam, 12 gối nữ,15 gối bên phải, 15 gối bên trái, tuổi nhỏ nhất trong mẫu là 56, lớn nhất là 89, tuổi trung bình mẫu nghiên cứu 72,93. Diện tích lớp nông dải chậu chày 405,46
±
5,28mm2. Vị trí bám của lớp nông dải chậu chày rộng hơn lồi củ Gerdy ra phía ngoài và trước ngoài, bao trùm lên vị trí bám của lớp sâu dải chậu chày, dây chằng trước ngoài. Sự tồn tại tương đối hằng định của hai bó sợi Kaplan: 28/30 gối. Dây chằng trước ngoài tồn tại trong tất cả 30 mẫu gối nghiên cứu. Tại mức độ gối gấp 900 chiều dài dây chằng tăng 3,24 ± 0,48 mm so với khi gối duỗi.
Các thành phần lớp nông dải chậu chày, lớp sâu dải chậu chày và dây chằng trước ngoài đều góp phần vào khả năng chống xoay trong của khớp gối, đặc biệt khi gối gấp trên 300. Trong các thành phần của phức hợp trước ngoài, dải chậu chày có khả năng chống xoay trong lớp nhất đặc biệt khi gối gấp hơn 300.Kết luận: Sự tồn tại hằng định của bó sợi Kaplan và dây chằng trước ngoài. Các thành phần trong phức hợp trước ngoài đều có khả năng chống xoay trong gối tại các mức độ gấp gối.
Từ khóa: phức hợp trước ngoài, dải chậu chày, bó sợi Kaplan gần, bó sợi Kaplan xa, dây chằng trước ngoài
ABSTRACT
STUDY ON APPLIED ANATOMY OF ANTEROLATERAL COMPLEX OF THE KNEE
Nguyen Phuc Huy, Do Phuoc Hung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 38 - 45 Background: Anterolateral rotatory instability (ALRI) may result from combined anterior cruciate ligament (ACL) and lateral extraarticular lesions, but the roles of the anterolateral structures remain controversial.
Objectives: To determine the layer-by-layer anatomic structure of the anterolateral complex of the knee and determine the contribution of each anterolateral structure to resisting tibial internal rotation
Methods: Serial case study. We studied thirty fresh cadaveric knees.
Results: This study evaluated 30 fresh cadaveric knees: 18 men and 12 women. The area of superfcial ITB at tibia is 405.46
±
5.2 8mm2. Two Kaplan fibers connect the superfcial iliotibial band (ITB) was observed in 28/30 knee. In all of knee the anterolateral ligament was found as a well-defined ligamentous structure, clearly distinguishable from the anterolateral joint capsule. Length of the ALL significantly increased with increasing knee flexion. The maximum mean length change was 3.24± 0.48mm
, which was observed at 90° of flexion. The1Khoa Chấn Thương Chỉnh Hình Bệnh viện Chợ Rẫy
2Bộ môn Chấn Thương Chỉnh Hình-Phục Hồi Chức Năng ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
anterolateral complex kf the knee had a role in restraining internal rotation; the ITB was the primary restraint at 30 to 90 of flexion
Conclusions: The functional unit formed by the superfcial, deep layer of the ITB as well as the anterolateral ligament is described as the anterolateral complex of the knee. The anterolateral complex structures act synergistically in providing rotatory knee stability
Keywords: anterolateral complex, ililotibial band, kaplan fiber, anterolateral ligament
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiệm pháp Lachman, Pivot shift test có mức độ dương tính đa dạng và không liên quan mức độ tổn thương dây chằng chéo trước. Tổn thương dây chằng trước ngoài có trong 37,5%
trong tổn thương dây chằng chéo trước(1). Tổn thương dải chậu chày khi đứt dây chằng chéo trước. Trong đó có 9% trường hợp tổn thương lớp nông và 69% tổn thương lớp sâu dải chậu chày(2). Gợi ý tổn thương các cấu trúc trước ngoài đóng vai trò trong biểu hiện lâm sàng của đứt dây chằng chéo trước.
Các tiến bộ trong kỹ thuật nội soi tái tạo dây chằng chéo trước có nhiều tiến bộ. Nhưng kết quả của phẫu thuật không chống lại được mất vững xoay trong, theo dõi sau mổ 3-5 năm bệnh nhân còn pivot shift test (+) 6,9 – 59,3%. Theo dõi sau phẫu thuật tái tạo 2-7 năm ghi nhận có hơn 50% bệnh nhân không thể trở lại mức vận động thể thao như trước chấn thương(3).
Hiện nay đã có nghiên cứu quốc tế tìm hiểu về giải phẫu, cơ sinh học của phức hợp trước ngoài chứng tỏ sự quan trọng của phức hợp này trong việc giữ vững khớp gối nhưng kết quả của các nghiên cứu này chưa thống nhất và còn nhiều tranh cãi.
Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng phức hợp trước ngoài góp phần xây dựng những nền tảng cơ bản cho phẫu thuật tái tạo phức hợp trước ngoài trong tương lại. Hiện tại ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về giải phẫu ứng dụng phức hợp trước ngoài khớp gối.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứuTiêu chuẩn chọn
Xác tươi từ bộ môn Giải Phẫu Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chi Minh.
Tiêu chuẩn loại trừ
Có bằng chứng tổn thương các cấu trúc giải phẫu của gối khi phẫu tích, có các dấu hiệu dị dạng, có bằng chứng can thiệp phẫu thuật, có bằng chứng về đại thể của u bướu, viêm nhiễm, thoái hóa làm biến đổi cấu trúc của gối.
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca.
Các biến số chính
Số lượng các bó Kaplan: số lượng các bó Kaplan trong một mẫu nghiên cứu.
Chiều dài diện bám của bó Kaplan gần và xa:
chiều dài lớn nhất tại diện bám của bó Kaplan gần và xa.
Chiều rộng diện bám của bó Kaplan gần và xa: chiều rộng lớn nhất tại diện bám của bó Kaplan gần và xa.
Khoảng cách từ diện bám bó Kaplan gần và xa đến mỏm trên lồi cầu ngoài: khoảng cách từ tâm diện bám của bó Kaplan gần và xa đến tâm mỏm trên lồi cầu ngoài.
Chiều rộng của ALL tại lồi cầu đùi, khe khớp, mâm chày: chiều rộng lớn nhất của dây chằng trước ngoài tại lồi cầu đùi, khe khớp, mâm chày.
Chiều dài ALL gối duỗi 00, 300, 600, 900: chiều dài của dây chằng trước ngoài ở tư thế gối duỗi 00, gối gấp 300, 600, 900.
Trình tự thực hiện
Bước 1: Gối nguyên vẹn, thu thập thông tin chân phẫu tích, đo độ xoay trong của gối nguyên vẹn tại các mức độ gấp gối 00, 300, 600, 900.
Bước 2: Khảo sát đặc điểm giải phậu học và
cơ sinh học lớp nông dải chậu chày, phẫu tích lớp nông dải chậu chày, ghi nhận đặc điểm giải phẫu, đo đạc các biến số, đo độ xoay trong của gối đã cắt lớp nông dải chậu chày tại các mức độ gấp gối 00, 300, 600, 900.
Bước 3: Khảo sát đặc điểm giải phẫu học và cơ sinh học lớp sâu dải chậu chày, phẫu tích lớp sâu dải chậu chày, ghi nhận đặc điểm giải phẫu, đo đạc các biến số. Đo độ xoay trong của gối đã cắt lớp sâu dải chậu chày tại các mức độ gấp gối 00, 300, 600, 900.
Bước 4: Khảo sát đặc điểm giải phẫu học và cơ sinh học dây chằng trước ngoài, phẫu tích dây chằng trước ngoài, ghi nhận đặc điểm giải phẫu, đo đạc các biến số. Đo độ xoay trong của gối đã cắt dây chằng trước ngoài tại các mức độ gấp gối 00, 300, 600, 900.
Y đức
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số: 48/HĐĐĐ ngày 09/01/2020.
KẾT QUẢ
Đặc điểm nhân khẩu học
Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu học mẫu nghiên cứu (n=30)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam 18 60,0
Nữ 12 40,0
Gối
Phải 15 50,0
Trái 15 50,0
Tuổi (năm)
Nhỏ nhất 56
Lớn nhất 89
Trung bình 72,93
Lớp nông dải chậu chày
Sau khi phẫu tích qua lớp da và dưới da, ghi nhận lớp nông của dải chậu chày nằm ngay dưới lớp mỡ dưới da, sát ngay cân nhị đầu đùi, phủ lên cơ rộng ngoài, cơ thẳng đùi. Phía sau lớp nông của dải chậu chày bám vào phía ngoài của vách gian cơ dọc theo đường ráp của xương đùi.
Ở đoạn hành xương, lồi cầu xương đùi, có những dải sợi riêng biệt chạy cong ra phía ngoài bám phủ lên mặt ngoài của xương bánh chè, gân bánh chè được gọi là dải chậu chè. Tại mâm chày, vị trí bám của lớp nông dải chậu chày bao trùm lên vị trí bám của lớp sâu dải chậu chày, dây chằng trước ngoài. Mặc dù vị trí theo mô tả giải phẫu kinh điển của dải chậu chày là lồi củ Gerdy nhưng trong các mẫu phẫu tích của chúng tôi ghi nhận lớp nông dải chậu chày có vị trí bám thực tế rộng từ phía trước, ngoài của lồi củ Gerdy (Hình 1).
Diện tích trumg bình diện bám của lớp nông dải chậu chày tại mâm chày trong tổng số các mẫu thực nghiệm là 415,6 ± 5,28 mm2.
Hình 1. Lớp nông dải chậu chày (Nguồn: Mẫu phẫu tích trong nghiên cứu, mã số xác: 770) Lớp sâu dải chậu chày
Sự hiện diện của hai bó Kaplan: Số gối có hai bó Kaplan: 28 (93%), số gối có một bó Kaplan: 2 (7%), số gối không có bó Kaplan: 0.
Đại thể: Tại lồi cầu đùi lớp sâu dải chậu chày có các bó sợi Kaplan kết nối lớp nông dải chậu chày với với hành xương đùi và lồi cầu đùi. Về mặt đại thể có hai bó Kaplan riêng biệt là bó Kaplan gần và Kaplan xa, các bó sợi Kaplan gần có hướng đi vuông góc với hướng các thớ sợi của lớp nông dải chậu chày. Khi bám trên hành xương đùi bó Kaplan gần trải rộng dạng rẽ quạt.
Bó Kaplan xa có hướng đi chéo gần tiếp tuyến với các bó sợi của lớp nông dải chậu chày, bó Kaplan xa còn đặc biệt nằm rất gần động mạch gối trên ngoài và sự sắp xếp của các thớ sợi của bó Kaplan xa dày hơn chắc hơn và bám vào lồi
cầu của xương đùi. Các bó sợi Kaplan này có đặc tính căng khi gối gấp và xoay trong, lớp nông và lớp sâu của dải chậu chày cùng với dây chằng trước ngoài hòa lẫn vào nhau và bám vào lồi củ Gerdy và trải dài ở ra phía sau ngoài mâm chày (Hình 2).
Hình 02. Lớp sâu dải chậu chày gồm các bó sợi Kaplan (Nguồn: Mẫu phẫu tích trong nghiên cứu, mã số xác: 770)
Chiều dài điểm bám của bó Kaplan gần:
18,47 ± 0,53 mm Chiều dài điểm bám của bó Kaplan xa: 10,15 ± 0,36 mm Chiều rộng điểm bám của bó Kaplan gần: 3,17 ± 0,20 mm Chiều rộng điểm bám của bó Kaplan xa: 2,50 ± 0,17 mm Khoảng cách từ tâm điểm bám bó Kaplan gần đến mỏm trên lồi cầu ngoài: 48,72 ± 2,88 mm Khoảng cách từ tâm điểm bám bó Kaplan xa đến mỏm trên lồi cầu ngoài: 30,57 ± 1,00 mm.
Khoảng cách từ nguyên ủy tại dải chậu chày của bó Kaplan gần đến điểm bám của bó Kaplan gần trên lồi cầu đùi: 12,32 ± 1,07 mm. Khoảng cách từ nguyên ủy tại dải chậu chày của bó Kaplan xa đến điểm bám của bó Kaplan xa trên lồi cầu đùi:
15,10 ± 0,37 mm Khoảng cách từ tâm điểm bám Kaplan gần đến tâm điểm bám Kaplan xa: 21,13
± 0,93 mm (Bảng 2).
Bảng 2: Đặc điểm lớp sâu dải chậu chày (N=30)
Kích thước của các bó Kaplan Giá trị trung bình (mm) Chiều dài diện bám của bó Kaplan gần 18,47 ± 0,53
Chiều dài diện bám bám của bó
Kaplan xa 10,15 ± 0,36
Chiều rộng diện bám của bó Kaplan
gần 3,17 ± 0,20
Chiều rộng diện bám của bó Kaplan xa 2,50 ± 0,17 Khoảng cách từ diện bám bó Kaplan
gần đến mỏm trên lồi cầu ngoài 48,72 ± 2,88
Kích thước của các bó Kaplan Giá trị trung bình (mm) Khoảng cách từ diện bám bó Kaplan
xa đến mỏm trên lồi cầu ngoài 30,57 ± 1,00 Khoảng cách từ diện bám của bó
Kaplan gần đến diện bám của bó Kaplan xa
21,13 ± 0,93
Dây chằng trước ngoài
Hiện diện: 30/30 mẫu xác tươi. Chiều rộng dây chằng trước ngoài: Về mặt đại thể từ điểm bám lồi cầu đùi, bề rộng dây chằng hơi thu hẹp lại khi dây chằng bằng qua khe khớp, sau đó tỏa rộng ra như nan quạt bám vào mâm chày. Chiều dài dây chằng trước ngoài Dây chằng trước ngoài có chiều dài thay đổi theo độ gấp gối, gối càng gấp dây chằng trước ngoài càng căng hơn, thay đổi chiều dài này có ý nghĩa thống kê (p <0,0001). Tại mức độ gối gấp 900 chiều dài dây chằng tăng thêm 3,24 ± 0,48 mm (8,85% ± 0,13%) so với khi gối duỗi.
(Bảng 3, Hình 3).
Bảng 3: Chiều dài dây chằng trước ngoài khi gối duỗi (N = 30)
Kích thước Giá trị trung bình (mm) Chiều dài dây chằng trước ngoài khi gối
duỗi 00 36,59 ± 2,54
Chiều dài dây chằng trước ngoài khi gối
gấp 300 37,62 ± 2,52
Chiều dài dây chằng trước ngoài khi gối
gấp 600 38,95 ± 2,58
Chiều dài dây chằng trước ngoài khi gối
gấp 900 39,83 ± 2,71
Diện bám lồi cầu: Về mặt đại thể diện bám tại lồi cầu đùi của dây chằng nằm ngang mức ở phía sau so với mỏm trên lồi cầu ngoài với khoảng cách trung bình là 5,99 ± 0,89 mm. Khi so sánh với vị trí bám dây chằng bên mác, vị trí bám lồi cầu ngoài đa số nằm ra sau xuống dưới, khoảng cách ngang trung bình là 4,15 ± 1,08 mm.
Khoảng cách dọc không đáng kể 0,31 ± 0,79 mm.
Khi so sánh với diện bám của gân cơ khoeo, diện bám của dây chằng trước ngoài nằm cao hơn trung bình 3,02 ± 0,48 mm, khoảng cách ngang trung bình là 4,53 ± 0,68 mm (Bảng 4, Hình 3).
Diện bám mâm chày: Diện bám tại mâm chày của ALL tại mâm chày với các thớ sợi lan
tỏa hòa lẫn với lớp nông và lớp sâu dải chậu chày. Diện bám của ALL nằm ở giữa lồi củ Gerdy và chỏm mác.
Bảng 4: Vị trí bám của dây chằng trước ngoài so với các mốc xương tại lồi cầu (N = 30)
Khoảng cách Trung bình
(mm) Khoảng cách ngang từ diện bám lồi cầu của
dây chằng trước ngoài tới mỏm trên lồi cầu 5,99 ± 0,89 Khoảng cách dọc từ diện bám lồi cầu của dây
chằng trước ngoài tới mỏm trên lồi cầu 0,10 ± 0,78 Khoảng cách ngang từ diện bám lồi cầu của
dây chằng trước ngoài tới diện bám dây chằng bên mác
5,28 ± 0,71 Khoảng cách dọc từ diện bám lồi cầu của dây
chằng trước ngoài tới diện bám dây chằng bên mác
0,31 ± 0,79 Khoảng cách ngang từ diện bám lồi cầu của
dây chằng trước ngoài tới diện bám gân cơ khoeo
5,31 ± 0,64 Khoảng cách dọc từ diện bám lồi cầu của dây
chằng trước ngoài tới diện bám của gân cơ khoeo
3,02 ± 0,48
Hình 3: Dây chằng trước ngoài và các mốc xương liên quan (Nguồn: Mẫu phẫu tích trong nghiên cứu,
mã số xác 770)
Chức năng chống xoay trong của phức hợp trước ngoài
Trên đại thể ghi nhận khi cho xoay trong các cấu trúc của phức hợp trước ngoài bao gồm lớp nông dải chậu chày, lớp sâu dải chậu chày, dây chằng trước ngoài căng ra khi xoay trong ở tất cả các mức độ gấp gối 00, 300, 600, 900. Khi cắt lớp nông dải chậu chày, lớp sâu dải chậu chày và dây chằng trước ngoài mức độ xoay trong của gối tăng dần có ý nghĩa thống kê khi mức độ gối gấp tăng dần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <0,0001). Khi gối gấp trên 300, cắt lớp nông và lớp sâu dải chậu chày làm cho gối mất vững xoay trong nhiều nhất. Cắt dây chằng trước ngoài làm thay đổi độ xoay trong ít nhất trong các thành phần của phức hợp trước ngoài (Bảng 2, Hình 4).
Hình 4: Sự thay đổi mức độ xoay trong của khớp gối sau khi cắt các thành phần của phức hợp trước ngoài
khớp gối (Nguồn: tư liệu nghiên cứu) Bảng 2: Kết quả xoay trong khớp gối gấp 0 độ, 30 độ và 60 độ (N=30)
Độ xoay trong (độ) Gối ở tư thế 0 độ Gối ở tư thế 30 độ Gối ở tư thế 60 độ
Gối nguyên vẹn 15,40 ± 1,98 27,83 ± 2,4 32,07 ± 3,74
Sau khi cắt lớp nông dải chậu chày 19,13 ± 1,975 34,63 ± 2,78 39,50 ± 4,06 Sau khi cắt lớp sâu dải chậu chày 22,53 ± 2,05 41,43 ± 2,91 46,56 ± 4,0 Sau khi cắt dây chằng trước ngoài 23,87 ± 2,04 43,46 ± 2,89 48,8 ± 4,07
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu về giải phẫu ứng dụng của phức hợp trước ngoài của chúng tôi được thực hiện hoàn toàn trên xác tươi đông lạnh tại bộ môn Giải phẫu Đại học Y dược Thành phố
Hồ Chí Minh. Xác được rả đông trước khi phẫu tích, do đó các cấu trúc mô mềm được khảo sát vẫn giữ nguyên kích thước và tương quan giải phẫu, phản ánh trung thực kết quả trên người sống. Mẫu được chọn đều là các mẫu có phần chi dưới nguyên vẹn, các cấu trúc giải phẫu
được bóc tách từng lớp, ranh giới rõ ràng. Tuổi trung bình của nghiên cứu là 72,93. Tất cả các mẫu phẫu tích đều trên 50 tuổi. Vì trên các bệnh nhân lớn tuổi có các bệnh lý thoái hóa khớp gối ở người lớn tuổi có thể làm thay đổi cấu trúc xương mô mềm. Đây là một hạn chế trong đề tài của chúng tôi. Để hạn chế ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, chúng tôi chỉ chọn những gối còn nguyên vẹn không biến dạng. Phân bố về giới tính tương đối đồng đều với giới nam chiếm đa số (18/30 mẫu).
Lớp nông dải chậu chày
Diện bám này của lớp nông dải chậu chày bao trùm lên diện bám của lớp sâu dải chậu chày, bao phủ lên lồi củ Gerdy và ra phía sau ngoài. Điều này cũng phù hợp với các mô tả của Woods GW(4), Goldman AB(5) khi giải phẫu mảnh gãy Segond và nghiên cứu của Shaikh H(6) khi đối chiếu giữa MRI và trong phẫu thuật. Lớp nông dải chậu chày cho các sợi hướng về phía bánh chè và gân bánh chè, mà theo Kaplan EB(7) gọi tên lần đầu tiên vào năm 1958 là dải chậu chè. Khi phẫu tích vị trí bám của dải chậu chày tại mâm chày diện tích bám của mẫu nghiên cứu của chúng tôi so với nghiên cứu Godin JA(8). Lớp sâu dải chậu chày
Sự tồn tại của của hai bó Kaplan tương đối hằng định (93,33%) trong các mẫu đã phẫu tích.
Khi so sánh với các nghiên cứu của Godin JA(8), Berhold DP(9), Landreau P(10) đều tồn tại 100%
cho thấy sự tồn tại hằng định của hai bó sợi Kaplan này. Về mặt đại thể các bó sợi Kaplan gần có hướng đi hơi vuông góc với hướng các thớ sợi của lớp nông dải chậu chày, vị trí bám trên hành xương trải rộng dạng rẽ quạt, ở đoạn gần có sự hòa hợp với vách gian cơ, sự sắp xếp dạng rẽ quạt này làm cho sự sắp xếp mỏng hơn so với bó Kaplan xa. Bó Kaplan xa có hướng đi chéo gần tiếp tuyến với các bó sợi của lớp nông dải chậu chày, bó Kaplan xa còn đặc biệt nằm rất gần động mạch gối trên ngoài và sự sắp xếp của các thớ sợi của bó Kaplan xa dày và bám vào phần xa của xương đùi, các đặc điểm của hai bó Kaplan này phù hợp với mô tả về các bó Kaplan
trong các nghiên cứu của tác giả Godin JA(8), Landreau P(10), Berthold DP(9) (2020).
Dây chằng trước ngoài
Sự tồn tại của dây chằng trước ngoài trong nghiên cứu của chúng tôi là 100% đều này phù hợp với quan sát từ những nghiên cứu từ năm 2013 tới nay có cỡ mẫu lớn hơn 30. Khi đo khoảng cách từ diện bám mâm chày của dây chằng trước ngoài đến mặt sụn khớp, trong nghiên cứu của chúng tôi khoảng cách này ngắn hơn trong nghiên cứu của Cleas S(11) và tác giả Lê Đình Khoa(12) (p <0,05), sự khác biệt này do chúng tôi lựa chọn vị trí đo từ ngay điểm bám đến mặt sụn phía trên điểm bám, còn các tác giả khác chọn vị trí mặt sụn khớp là khe khớp phía ngoài. Kết quả của của chúng tôi lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với nghiên cứu của Helito CP(1).
Chức năng chống xoay trong của phức hợp trước ngoài
Trong nghiên cứu của Sonnery-Cottet B(13) nhằm đánh giá chức năng của các cấu trúc trước ngoài của khớp gối ảnh hưởng đến khả năng xoay trong từng mức độ gấp gối khác nhau khi cắt cả lớp nông và lớp sâu dải chậu chày, gối xoay trong đáng kể so với gối nguyên vẹn ở mức độ gấp gối 200–300. Mức độ xoay trong của gối tiếp tục tăng khi cho gối gấp 900. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy vai trò quan trọng của dải chậu chày trong việc chống xoay trong khớp gối đặc biệt khi gối gấp ở các mức 30–900. Khi tiến hành cắt dây chằng trước ngoài ghi nhận gối xoay trong nhiều hơn và mức độ xoay trong tiếp tục tăng khi cho gấp gối ở mức độ 900.
Trong nghiên cứu của Kittl H(14) tiến hành cắt các thành phần của phức hợp trước ngoài khớp gối theo trình tự lớp nông dải chậu chày, lớp sâu dải chậu chày, dây chằng trước ngoài. Trong nghiên cứu đó tác giả kết luận lớp nông, lớp sâu của dải chậu chày là cấu trúc chống xoay trong chính yếu của khớp gối đóng góp trung bình 44% ± 10% khả năng chống xoay trong khi gối gấp 300 và đóng góp 71 ± 15% chống xoay trong
khi gối gấp 900. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận sự thay đổi sau khi cắt các cấu trúc trước ngoài theo trình tự tương tự của Kittl C(14). Kết quả của chúng tôi cho thấy sau khi cắt lớp nông và lớp sâu dải chậu chày ghi nhận có sự tăng mức độ xoay trong nhiều nhất trong tất cả các mức độ gối gấp. Điều này cho thấy dải chậu chày đóng vai trò quan trọng chủ yếu trong sự chống xoay trong của khớp gối. Đặc điểm chống xoay trong của dải chậu chày cũng phù hợp với nghiên cứu của tác giả Terry GC(2) khi quan sát thấy những gối có tổn thương dây chằng chéo trước nhưng có biểu hiện khác nhau khi thực hiện nghiệm pháp chuyển trục, điều này có thể lý giải do sự tổn thương dải chậu chày, dây chằng trước ngoài.
Khi thực hiện đo độ xoay trong của gối sau khi cắt dây chằng trước ngoài, cho thấy gối chỉ xoay trong thêm 1,330 ± 0,460 khi gối duỗi và thêm 2,030 ± 0,620, 2,230 ± 0,400, 2,430 ± 0,540, khi so sánh với sự thay đổi sau khi cắt dải chậu chày thì dây chằng trước ngoài không làm thay đổi đáng kể khả năng chống xoay trong. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Kittl C(14) khi tác giả ghi nhận thấy sau khi cắt dải chậu chày dây chằng trước ngoài chỉ đóng góp 11% ± 10% khả năng chống xoay trong của gối.
KẾT LUẬN
Vị trí bám của lớp nông dải chậu chày rộng hơn lồi củ Gerdy ra phía ngoài và trước ngoài, bao trùm lên vị trí bám của lớp sâu dải chậu chày, dây chằng trước ngoài. Diện tích lớp nông dải chậu chày 405,46 ± 5,28 mm2. Sự tồn tại tương đối hằng định của hai bó sợi Kaplan: 28/30 gối. Có sự liên quan giải phẫu giữa bó Kaplan xa với động mạch gối trên ngoài.
Dây chằng trước ngoài tồn tại trong tất cả 30 mẫu gối nghiên cứu. Về mặt đại thể từ điểm bám lồi cầu đùi, bề rộng dây chằng hơi thu hẹp lại khi dây chằng bằng qua khe khớp, sau đó tỏa rộng ra như nan quạt bám vào mâm chày. Tại mức độ gối gấp 900 chiều dài dây chằng tăng 3,24 ± 0,48 mm so với khi gối duỗi. So với mỏm trên lồi cầu ngoài: Điểm bám tại lồi cầu đùi của
dây chằng trước ngoài, nằm ngang mức hơi ra sau với mỏm trên lồi cầu ngoài với khoảng cách trung bình là 5,25 ± 1,90 mm. Tại mâm chày tâm điểm bám dây chằng trước ngoài là trung điểm giữa lồi củ Gerdy và chỏm xương mác.
Khả năng chống xoay trong của các thành phần trong phức hợp trước ngoài trên mô hình thực nghiệm: Trên đại thể ghi nhận khi cho xoay trong các cấu trúc của phức hợp trước ngoài bao gồm lớp nông dải chậu chày, lớp sâu dải chậu chày, dây chằng trước ngoài căng ra khi xoay trong, mức độ căng tăng mức độ gấp gối 00, 300, 600, 900. Các thành phần lớp nông dải chậu chày, lớp sâu dải chậu chày và dây chằng trước ngoài đều góp phần vào khả năng chống xoay trong của khớp gối, đặc biệt khi gối gấp trên 300. Trong các thành phần của phức hợp trước ngoài, dải chậu chày có khả năng chống xoay trong lớp nhất. Đặc biệt khi gối gấp hơn 300.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Helito CP, Saithna A, Bonadio MB, Daggett M, et al (2018).
Anterolateral Ligament Reconstruction: A Possible Option in the Therapeutic Arsenal for Persistent Rotatory Instability After ACL Reconstruction. Orthop J Sports Med, 6(1):2325967117751348.
2. Terry GC, Hughston JC, Norwood LA (1993). The anatomy of the iliopatellar band and iliotibial tract. American Journal of Sports Medicine, 14(1):39-45.
3. Clare LA, Nicholas FT, Julian AF (2014) “Fifty-five per cent return to competitive sport following anterior cruciate ligament reconstruction surgery: an updated systematic review and metaanalysis including aspects of physical functioning and contextual factors”. British Journal of Sports Medicine, 48(21):1543- 1552.
4. Woods GW, Stanley RF, Tullos HS (1979). Lateral capsular sign:
x-ray clue to a significant knee instability. American Journal of Sports Medicine, 7(1):27-33.
5. Goldman AB, Pavlov H, Rubenstein D (1988). The Segond fracture of the proximal tibia: a small avulsion that reflects major ligamentous damage. American Journal of Roentgenology, 151(6):1163-1167.
6. Shaikh H, Herbst E, Rahnemai-Azar AA, Bottene Villa Albers M, et al (2017). The Segond fracture is an avulsion of the anterolateral complex. American Journal of Sports Medicine, 45(10):2247-2252.
7. Kaplan EB (1958). The iliotibial tract: clinical and morphological significance. JBJS, 40(4):817-832.
8. Godin JA, Chahla J, Moatshe G, Kruckeberg BM, et al (2017). A Comprehensive Reanalysis of the Distal Iliotibial Band:
Quantitative Anatomy, Radiographic Markers, and Biomechanical Properties. Am J Sports Med, 45(11):2595-2603.
9. Berthold DP, Willinger L, Muench LN, Forkel P, et al (2020).
Visualization of Proximal and Distal Kaplan Fibers Using 3-
Dimensional Magnetic Resonance Imaging and Anatomic Dissection. American Journal of Sports Medicine, 48(8):1929-1936.
10. Landreau P, Catteeuw A, Hamie F, Saithna A, et al (2019).
Anatomic study and reanalysis of the nomenclature of the anterolateral complex of the knee focusing on the distal iliotibial band: Identification and description of the condylar strap.
Orthopaedic Journal of Sports Medicine, 7(1):232.
11. Claes S, Luyckx T, Vereecke E and Bellemans J (2014). The Segond fracture: a bony injury of the anterolateral ligament of the knee. Arthroscopy, 30(11):1475-1482.
12. Lê Đình Khoa (2017). Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng dây chằng trước ngoài ở gối. Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Sonnery-Cottet B, Lutz C, Daggett M, Dalmay F, Freychet B, et al (2016). The Involvement of the Anterolateral Ligament in Rotational Control of the Knee. Am J Sports Med, 44(5):1209-1214.
14. Kittl C, El-Daou H, Athwal KK, Gupte CM, Weiler A, et al (2016). The Role of the Anterolateral Structures and the ACL in Controlling Laxity of the Intact and ACL-Deficient Knee. Am J Sports Med, 44(2):345-354.
Ngày nhận bài báo: 01/12/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021