• Tidak ada hasil yang ditemukan

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương"

Copied!
5
0
0

Teks penuh

(1)

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương

Trần Danh Cường1, Đặng Công Việt1, Lê Chí Quang1, Đặng Quang Hùng2, Nguyễn Thị Thu Hà3, Nguyễn Quốc Khánh3

1 Trường Đại học Y Hà Nội

2 Bệnh viện Phụ sản Trung ương

3 Bệnh viện Nhiệt Đới Trung ương doi: 10.46755/vjog.2022.3.1437

Tác giả liên hệ (Corresponding author): Đặng Công Việt, email: [email protected] Nhận bài (received): 10/9/2022 - Chấp nhận đăng (accepted): 25/9/2022

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Tổ chức Y tế thế giới đã công bố đại dịch toàn cầu do coronavirus 2019 (COVID-19) vào tháng 3 năm 2020.

Kể từ đó, dịch bệnh đã phát triển nhanh chóng và lan rộng ra khắp thế giới, virus xâm nhập vào tất cả các đối tượng, mọi độ tuổi, kể cả phụ nữ có thai. Chẩn đoán, xử trí và tiên lượng thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 có ý nghĩa quan trọng.

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Nhiệt Đới Trung ương.

Đối tượng: Những thai phụ nhập viện và được chẩn đoán nhiễm SARS-CoV-2 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Nhiệt Đới Trung ương từ tháng 12/2021 đến tháng 2/2022.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu.

Kết quả: Tuổi trung bình của thai phụ trong nghiên cứu là 30,65 ± 6,00; trong đó nhóm tuổi 20 - 34 chiếm tỷ lệ cao nhất (71,67%). Tuổi thai trung bình trong nghiên cứu là 31,97 ± 6,98 tuần. Đa số (85%) các thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 trong nghiên cứu chưa được tiêm vaccin. Triệu chứng nhiễm SARS-CoV-2 thường gặp nhất ở thai phụ trong nghiên cứu là ho (76,67%), sốt (55%) và khó thở (36,67%). Đa số thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 trong nghiên cứu có tăng giá trị CRP (78,9%) và tăng D-Dimer (94,82%) tại thời điểm nhập viện.

Kết luận: Các thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 trong nghiên cứu có ít nhất một triệu chứng lâm sàng: ho, sốt, khó thở. Các thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 có xu hướng tăng giá trị CRP và D-Dimer máu.

Từ khoá:

SARS-CoV-2, thai phụ.

Clinical features, paraclinical tests of pregnant women with SARS-CoV-2 infection in National Hospital of Obstetrics and Gynecology and National Hospital of Tropical Diseases

Tran Danh Cuong1, Dang Cong Viet1, Le Chi Quang1, Dang Quang Hung2, Nguyen Thi Thu Ha3, Nguyen Quoc Khanh3

1 Hanoi Medical University

2 National Hospital of Obstetrics and Gynecology

3 National Hospital of Tropical Diseases

Abstract

Background: The World Health Organization (WHO) has declared a global pandemic caused by a novel coronavirus (SARS-CoV-2) in March 2020. Since then, this pandemic has rapidly developed and spread around the world. Diagnosis, treatment, and prognosis of pregnant women with SARS-CoV-2 infection played an important role.

Objectives: To describe the clinical features and laboratory tests of pregnant women with SARS-CoV-2 infection in National Hospital of Obstetrics and Gynecology & National Hospital for Tropical Diseases.

Subjects: Pregnant women with SARS-CoV-2 infection were hospitalized and diagnosed with SARS-CoV-2 infection in National Hospital of Obstetrics and Gynecology & National Hospital for Tropical Diseases from December 2021 to February 2022.

Method: Prospective observational study.

Results: The average maternal age was 30.65 ± 6.00; of which the 20 - 34 years age group accounted for the highest percentage (71.67%). The average gestational age in our study was 31.97 ± 6.98 weeks. The majority (85%) of patients were not vaccinated. The most common symptoms of pregnant women with SARS-CoV-2 infection were cough (76.67%), fever (55%), and dyspnea (36.67%). The levels of CRP and D-Dimer increased in most patients (78.9% and

SẢN KHOA – SƠ SINH

(2)

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố đại dịch toàn cầu do coronavirus 2019 (COVID-19), gây ra hội chứng suy hô hấp cấp tính do coronavirus 2 (SARS-CoV-2) vào tháng 3 năm 2020. Kể từ đó, dịch bệnh SARS-CoV-2 đã phát triển nhanh chóng và lan rộng ra khắp thế giới. Tính đến tháng 1 năm 2022, thế giới ghi nhận hơn 323 triệu người nhiễm, với 5,5 triệu người tử vong do SARS-CoV-2.

Tại Việt Nam đã ghi nhận hơn 2 triệu ca nhiễm từ đầu mùa dịch, mỗi ngày ghi nhận hàng chục nghìn ca nhiễm mới SARS-CoV-2 trên cả nước. Mặc dù số lượng ca tăng nhanh, những dữ liệu về yếu tố nguy cơ lây nhiễm, yếu tố làm nặng và các biến chứng nặng, tỷ lệ tử vong trên phụ nữ có thai và kết cục thai kỳ còn rất hạn chế. Sự thay đổi của hệ thống miễn dịch, cơ hoành đẩy lên cao hơn, tăng nhu cầu sử dụng oxy, phù tổ chức niêm mạc đường thở, suy giảm khả năng chống chịu với tình trạng thiếu oxy và tình trạng nặng lên khi nhiễm virus[1] ở phụ nữ có thai khiến họ dễ trở thành nhóm nhiễm bệnh nặng hơn so với người không mang thai [2]. Những dữ liệu khoa học trên các nhóm virus gây bệnh tương tự như virus cúm A/H1N1, hội chứng suy hô hấp cấp tính, hội chứng hô hấp vùng Trung Đông (Middle East respiratory syndrome - MERS-CoV) [3] đều gợi ý rằng phụ nữ có thai là nhóm có nhiều nguy cơ trở nặng cũng như tăng tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh [4]. Một số dữ liệu đã chỉ ra nguy cơ thai phụ ba tháng cuối thai kỳ khi nhiễm SARS-CoV-2 thường diễn biến nặng hơn so với những thai phụ mang thai ở quý đầu [3]. Nghiên cứu của Allotey và cs năm 2020 chỉ ra phụ nữ có thai nhập viện vì nhiễm SARS-CoV-2 ít có biểu hiện triệu chứng lâm sàng như ho, sốt, khó thở, sổ mũi hơn so với các phụ nữ cùng tuổi mà không có thai, tuy nhiên lại có nguy cơ cao hơn cần phải điều trị hồi sức tích cực và thở máy [4]. Hiện tại, Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về tình trạng nhiễm SARS-CoV-2 trên phụ nữ có thai được công bố. Hiểu biết về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 tại Việt Nam là rất quan trọng để đưa ra phương pháp điều trị và dự phòng đối với phụ nữ mang thai, đặc biệt khi các phương pháp điều trị và khuyến cáo điều trị và cách ly thay đổi nhanh và phù hợp hơn khi có các dữ liệu khoa học. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Nhiệt Đới Trung ương năm 2021 - 2022.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: 60 thai phụ nhập viện và

sản Trung ương và Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương bằng phương pháp PCR.

Tiêu chuẩn lựa chọn: tất cả các thai phụ có thai sống trong buồng tử cung, bất kể tuổi thai, được chẩn đoán nhiễm SARS-CoV-2 được khẳng định PCR dương tính với SARS-CoV-2.

Thời gian nghiên cứu: từ tháng 12/2021 đến tháng 2 năm 2022.

Thiết kế nghiên cứu: mô tả tiến cứu.

Các bước tiến hành nghiên cứu: tất cả các thai phụ được chẩn đoán có thai sống trong buồng tử cung, xét nghiệm PCR dương tính với SARS-CoV-2 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương, điều trị tại các khoa, các mức độ nặng nhẹ khác nhau, được khai thác các thông tin chung (tuổi, cân nặng, chiều cao), tiền sử bệnh lý (đái đường, tăng huyết áp, tiền sản giật, basedow…), tiền sử tiêm vắc xin chống SARS-CoV-2, tuổi thai khi nhập viện, ghi nhận các triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm máu tại thời điểm nhập viện nhằm đánh giá các chỉ số huyết học, sinh hóa. Theo dõi thai phụ đến thời điểm xuất viện nhằm ghi nhận phương pháp điều trị, diễn biến lâm sàng, kết quả thai nghén, tình trạng sơ sinh, số ngày điều trị. Tất cả các thông tin được lấy theo bệnh án nghiên cứu. Xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm Excel và SPSS.

3. KẾT QUẢ

Trong thời gian nghiên cứu, 60 thai phụ nhiễm SARS- CoV-2 thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn

Biểu đồ 1. Phân bố tuổi của thai phụ

Nhận xét: Tuổi trung bình của thai phụ trong nghiên cứu là 30,65 ± 6,00 tuổi. Thai phụ thấp nhất là 19 tuổi, lớn tuổi nhất là 42 tuổi. Đa phần thai phụ nghiên cứu nằm trong nhóm độ tuổi từ 22 - 34 tuổi, chiếm 71,67%.

94.82%, respectively).

Conclusions: Pregnant women with SARS-CoV-2 infection in our study had at least one of three symptoms: cough, fever, and dyspnea. Their level of CRP and D-Dimer were higher than normal.

Key words:

SARS-CoV-2, pregnant women.

(3)

Biểu đồ 2. Phân bố tuổi thai khi nhiễm SARS-CoV-2

Nhận xét: Tuổi thai trung bình trong nghiên cứu là 31,97± 6,98 tuần. Hơn ¾ (81,67%) số thai phụ nhiễm SARS- CoV-2 trong nghiên cứu có tuổi thai từ 28 tuần, trong đó 41,67% số thai kỳ đủ tháng (từ 37 tuần).

Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của thai phụ

Tiền sử N (%) %

Chưa tiêm vaccin 51 85

Tiêm 1 mũi vaccin 1 1,67

Tiêm 2 mũi vaccin 8 13,33

Đái tháo đường 3 5

Tiền sản giật 0 0

Basedow 0 0

BMI < 25 (kg/m2) 35 58,33

25 ≤ BMI < 30 (kg/m2) 20 33,33

BMI ≥ 30 (kg/m2) 5 8,33

Nhận xét: Đa số các thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 trong nghiên cứu chưa được tiêm vaccin (chiếm 85%). 41,67%

(25/60) số thai phụ trong nghiên cứu bị thừa cân (BMI≥25 kg/m2).

Biểu đồ 3. Triệu chứng lâm sàng thai phụ nhiễm covid-19

Nhận xét: Triệu chứng nhiễm SARS-CoV-2 thường gặp nhất ở thai phụ trong nghiên cứu là ho (46/60, chiếm 76,67%), sốt (33/60, chiếm 55%) và khó thở (22/60, chiếm 36,67%). Chỉ có 18,3% (11/60) số thai phụ là không có triệu chứng lâm sàng.

(4)

Bảng 2. Đặc điểm cận lâm sàng thai phụ nhiễm SARS-CoV-2

Giá trị/tổng số

BN được làm Nhập viện n/N (%)

Hb (< 11g/l) 19/60

BC (> 16 G/l) 2/60

Lympho (< 1,0 G/l) 16/60

TC (< 150 G/l) 12/60

TC (> 400 G/l) 0/60

CRP (> 5 mg/l) 45/57

AST (> 40 U/l) 13/53

ALT (> 40 U/l) 2/50

LDH (> 524 U/l) 0/31

PCT (> 0,05 ng/ml) 6/6 D-Dimer (> 500 ng/ml) 55/58

Nhận xét: Đa số thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 trong nghiên cứu có tăng giá trị CRP (chiếm 78,9%) và tăng D-Dimer (94,82%) tại thời điểm nhập viện. Số thai phụ giảm bạch cầu lympho và giảm tiểu cầu lần lượt là 26,67% (16/60) và 20% (12/60).

4. BÀN LUẬN

Phụ nữ có thai nhiễm SARS-CoV-2 thường ít biểu hiện triệu chứng lâm sàng (ho, sốt, khó thở, đau họng) tuy nhiên lại tăng nguy cơ trở nặng, cần được thở máy và điều trị tích cực hơn so với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nhiễm SARS-CoV-2. Những thai phụ có yếu tố nguy cơ từ trước khi mang thai, tăng huyết áp mãn tính, mẹ lớn tuổi, béo phì là yếu tố nguy cơ nặng khi nhiễm SARS- CoV-2. Thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 tăng tỷ lệ đẻ non và tăng tỷ lệ chết mẹ so với thai phụ không nhiễm SARS- CoV-2[5]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thu thập số liệu trên 60 thai phụ nhiễm SARS-CoV-2. Tuổi trung bình thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 là 30,65± 6,00. Tuổi thai phụ trung bình nghiên cứu của tôi thấp hơn nghiên cứu của Hazari và cộng sự [1]. Thai phụ trẻ nhất nhất trong nghiên cứu là 19 tuổi, cao nhất là 42 tuổi. Độ tuổi thai phụ đa số là từ 22 - 34 tuổi, chiếm 71,67%. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Knight và cộng sự trên 630 thai phụ nhiễm SARS-CoV-2, tỷ lệ có thai trong các nhóm ≤ 20 tuổi, 20 - 34 tuổi và từ 35 tuổi lần lượt là 1%, 58% và 41% [4].

Tuổi thai trung bình khi nhiễm là 31,97 ± 6,98 tuần, đa số các thai phụ có tuổi thai từ 28 tuần (chiếm 81,67%);

41,67% thai phụ là đã đủ tháng. Tuổi thai trong nghiên cứu tương đương kết quả của Knight và cs khi tuổi thai tỷ lệ nhóm tuổi thai từ 28 tuần và từ 37 tuần lần lượt là 79,18% và 36,04%[4]. Đây là tuổi thai nếu phải can thiệp ngừng thai nghén thì thai có thể sống được sau khi sinh nên cũng dễ dàng đưa ra thái độ xử trí sản khoa khi cần

phòng SARS-CoV-2 giảm được các triệu chứng và giảm tình trạng nặng khi nhiễm SARS-CoV-2 [6]. Đa số các thai phụ trong nghiên cứu chưa được tiêm vaccin phòng SARS-CoV-2, chiếm 85% và chỉ có 13,33% số thai phụ được tiêm đủ hai mũi vaccin phòng SARS-CoV-2. Điều này lý giải nguy cơ xuất hiện các triệu chứng nặng ở các thai phụ trong nghiên cứu của chúng tôi. Tỷ lệ thai phụ thừa cân và béo phì trong nghiên cứu chiếm 41,6% thấp hơn nghiên cứu của Hazati và cs là 50,6%. Béo phì là yếu tố nguy cơ trở nặng như suy hô hấp, điều trị hồi sức tích cực và tử vong ở các thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 [4, 5].

Theo biểu đồ 3, đa số các thai phụ trong nghiên cứu có ít nhất một trong các triệu chứng lâm sàng: ho, sốt, khó thở, sổ mũi. Chỉ có 18,33% (11/60) số thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 là không có triệu chứng. Trong khi đó, các nghiên cứu khác chỉ ra thai phụ ít xuất hiện các triệu chứng lâm sàng hơn nhóm bệnh nhân không có thai, có tới 2/3 đến 3/4 số thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 là không có triệu chứng [1, 5]. Triệu chứng lâm sàng thường gặp ở thai phụ trong nghiên cứu của tôi lần lượt là ho, sốt, khó thở lần lượt chiếm 76,67%; 55% và 36,67% cao hơn tỷ lệ thai phụ ho, sốt trong nghiên cứu của Allotey và cs là 41%; 40% [5]; tỷ lệ thai phụ ho, sốt, khó thở trong nghiên cứu của Harazi và cs lần lượt là 8%, 23%, 8%. Có thể giải thích sự khác biệt ở quần thể người châu Á có xu hướng có nhiều triệu chứng lâm sàng hơn so với chủng tộc người da trắng, hơn nữa khí hậu nhiệt đới là điều kiện thuận lợi dễ xuất hiện bội nhiễm bởi các mầm bệnh vi khuẩn, virus hơn nhất là thai phụ nhiễm SARS-CoV-2.

Đây cũng là cơ sở để sàng lọc triệu chứng lâm sàng có hiệu quả. Hơn nữa, nghiên cứu thực hiện tại Bệnh viện Nhiệt Đới Trung ương, là cơ sở y tế cao nhất về chuyên môn điều trị, hồi sức các bệnh nhân covid nên tỷ lệ thai phụ có triệu chứng cao hơn các nghiên cứu cộng đồng.

Nghiên cứu của Harazi và cs chỉ ra tại thời điểm nhập viện và trong quá trình điều trị, hai giá trị sinh hóa là CRP và D-dimer ở thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân không có thai [1]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 78,94% (45/57) và 94,82% (55/58) số thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 có tăng CRP và D-Dimer. Trong khi số thai phụ tăng CRP và D-Dimer trong nghiên cứu của Harazi lần lượt là 38%

và 51% [1]. Số thai phụ tăng CRP trong nghiên cứu của Allotey và cs là 49%. Số thai phụ có xét nghiệm tăng CRP máu trong nghiên cứu của tôi cao hơn hẳn các nghiên cứu khác có thể giải thích rằng có sự khác biệt về môi trường dễ nhiễm khuẩn, bội nhiễm vi khuẩn trên nền nhiễm virus ở nước ta.

5.KẾT LUẬN

Việc hiểu rõ đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 có vai trò quan trọng trong

(5)

chứng lâm sàng: ho, sốt, khó thở. Các thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 có xu hướng tăng giá trị CRP và D-Dimer máu ngay từ thời điểm nhập viện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Komal Hazari, Rasha Abdeldayem, Litty Paulose và các cộng sự. (2021), Covid-19 Infection in Pregnant Women in Dubai: A Case-control Study.

2. Chen Y., Li Z., Y. Zhang Y. và các cộng sự. (2020),

“Maternal health care management during the outbreak of coronavirus disease 2019”, J Med Virol, 92(7), tr. 731- 739.

3. Mullins E., Evans D., Viner R. M. và các cộng sự.

(2020), “Coronavirus in pregnancy and delivery: rapid review”, Ultrasound Obstet Gynecol, 55(5), tr. 586-592.

4. Marian Knight, Kathryn Bunch, Nicola Vousden và các cộng sự. (2020), “Characteristics and outcomes of pregnant women admitted to hospital with confirmed SARS-CoV-2 infection in UK: national population based cohort study”, 369, tr. m2107.

5. John Allotey, Elena Stallings, Mercedes Bonet và các cộng sự. (2020), “Clinical manifestations, risk factors, and maternal and perinatal outcomes of coronavirus disease 2019 in pregnancy: living systematic review and meta-analysis on behalf of the PregCOV-19 Living Systematic Review Consortium”, BMJ: British Medical Journal, tr. 3320.

6. Huang Y. Z. và Kuan C. C. (2022), “Vaccination to reduce severe COVID-19 and mortality in COVID-19 patients: a systematic review and meta-analysis”, Eur Rev Med Pharmacol Sci, 26(5), tr. 1770-1776.

Referensi

Dokumen terkait

Nhiễm khuẩn bệnh viện và các yếu tố liên quan Một trong những yếu tố nguy cơ gây nhiễm khuẩn vết mổ được xác định qua các nguyên nhân như: vấn đề đảm bảo vệ sinh vô khuẩn trong phẫu

Do nghiên cứu của chúng tôi chỉ lấy những bệnh nhân có viêm phổi, chứ không phải tất cả các thai phụ nhiễm cúm A/H1N1/2009 nên chúng tôi không thể phân tích liệu tuổi thai có liên quan

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC LÂM SÀNG CÁC BỆNH NHÂN UNG THƯ CÓ VIÊM GAN VI RUS B, C TẠI KHOA BỆNH NHIỆT ĐỚI BỆNH VIỆN VIỆT TIỆP HẢI PHÒNG NĂM 2019 Phạm Thị Vân Anh1, Nguyễn Đức Long2

Kết luận Qua nghiên cứu 177 bệnh nhân được chẩn đoán hẹp 03 thân động mạch vành mạn tính có điểm Syntax ≤ 22 và được can thiệp ĐMV qua da, chúng tôi có các kết luận về đặc điểm lâm

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG, VI SINH VÀ ĐIỀU TRỊ KHÁNG SINH Ở BỆNH NHÂN NHIỄM TRỰC KHUẨN GRAM ÂM ĐA KHÁNG TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI NĂM 2020 Võ Nguyễn Thúy Uyên1, Nguyễn Phú

Các kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy hầu hết các trường hợp bệnh u hạt mạn tính có số lượng bạch cầu trung tính MỘT SỐ CHỈ SỐ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN U HẠT MẠN TÍNH TẠI BỆNH

Các nghiên cứu cũng cho thấy nguyên nhân chính của viêm tụy cấp ở phụ nữ có thai là do bệnh lý gan mật, trong nghiên cứu của chúng tôi tới 43,7% nguyên nhân là do sỏi và bùn mật, thường

Hồ Chí Minh từ tháng 8 năm 2021 đến hết 9 năm 2021 Phƣơng pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả hồi cứu Tiêu chuẩn chọn bệnh: Bệnh nhân đƣợc chẩn đoán viêm phổi do nhiễm SARS-CoV- 2, đƣợc