CHUYỂN ĐỔI số »
ĩư DỘNG HÓA NGANH DIỆN
TRONG XU THẾ CHUYEN Đổi số
Tự động
hóa quỵ
trình sảnxuất
sêthúc đẩy và
mang lạihiệu
quả caotrong
công tácđiểu hành,
vận hành hệthống
điện liên tục, an toàn, ổnđịnh
đểngày
càng nângcao hơn
nữachất
lượngphục
vụ khách hàng.Hiện nay,
Tậpđoàn
Điện lựcQuốc
giaViệt Nam
(EVN)đã và đang đẩy mạnh
ứng dụngcông
nghệcủa
cuộc Cách mạngcông
nghiệp lần thứ4và
quyết tâm cơbản
hoàn thànhchuyển đổi số vào năm
2022,chuyển đổi hoạt động theo
môhình doanh
nghiệp sốvào
năm2025.
EVN cho biết: Trước năm 2019, công tác tự động hóa của EVN đang trong quá trình hình thành và phát triển. Các đơn vị đã tự tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi các nước trong khu vực và thế giới để áp dụng tại đơn vị mình. Tuy nhiên, việc triển khai vẫn khá rời rạc và chưa có tiêu chí, định hướng rõ ràng, dẫn đến việc mỗi nơi, mỗi đơn vị có cách làm khác nhau.
Cụ thể, giai đoạn từ năm 2014 - 2019, hầu hết các đơn vị trong EVN đều đang sử dụng những hệ thống tự động hóa phục vụ công tác đo lường, giám sát, điều khiển các dây chuyền sản xuất hoặc nhà máy điện, trạm biến áp, trong đó sử dụng phần mềm và phần cứng của nhiều nhà sản xuất trong và ngoài nước khác nhau.
Cùng với đó, những phần mềm cho hệ thống SCADA/EMS, hệ
thống điều khiển trạm biến áp, nhà máy điện là phần mềm có tính chất phức tạp, đặc thù, sử dụng các phân tích toán học với các thuật toán phức tạp. Thời điểm đó, EVN chưa có đơn vị có đú lực lượng chuyên môn, được đầu tư đúng mức và được giao chức năng, nhiệm vụ phù hợp trong lĩnh vực tự động hóa để trở thành đơn vị đầu mối và có khả năng làm chủ, phát triển và tổ chức triển khai các giải pháp, phần mềm tự động hóa theo yêu cầu sử dụng.
Vì vậy, năm 2019, HDTV EVN đã ban hành Nghị quyết số 51/NQ- HĐTV "Một số định hướng cơ bản công tác tự động hóa trong Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam", với mục tiêu xuyên suốt là tinh thần tự chủ và từng bưóc làm chủ công nghệ. Đen nay, sau hơn 3 năm triển khai thực hiện thực hiện Nghị quyết số 51/NQ-HĐTV công
tác tự động hóa đã cải thiện nhanh chóng, mang lại hiệu quả trong công tác vận hành, khai thác, nâng cấp, bảo dưỡng, sửa chữa trong EVN.
Điển hình như, các kỹ sư của EVN đã cơ bản làm chủ được hệ thống tích hợp điều khiển nhà máy điện (DCS) do các hãng nưởc ngoài cung cấp, giảm thiểu tối đa việc phái thuê ngoài khi gặp các tình huống cần phải xử lý. Khối phân phối và truyền tải đã chủ động được trong công tác khai thác phần mềm, tự thực hiện dịch vụ triển khai tích hợp cho trung tâm điều khiển, trạm biến áp. Việc nhập liệu, cấu hình cơ sở dử liệu, kết nối, thử nghiệm, nghiệm thu, vẽ sơ đồ lưởi điện, thiết lập các thông số, mức giới hạn vận hành, nâng cấp điều khiển và xử lý sự cố hệ thống đã được làm chủ.
20 TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM (Số 202+203, tháng 3+4/2022)
« CHUYỂN ĐỔI số
Ông Dương Quang Thành ■ Chủ tịch HĐTV EVN (thứ 3 từ trái sang) và ông Ngô Sơn Hải - Phó Tổng giám đốc EVN (thứ 2 từ phải sang) tặng quà và trao các quyết định công nhận các sản phẩm Make by EVN.
Những công việc trưốc đây phải phụ thuộc vào nhà thầu như: Khai báo, mở rộng tín hiệu, trạm, ngăn lộ, tích hợp và triển khai lắp đặt, cài đặt, khai báo, cấu hình ghép nối, thí nghiệm hiệu chỉnh từ thiết bị đầu cuối tại trạm 110 kỵ Recloser, LBS đều đã được các kỹ sư EVN tự chủ vận hành.
Ước tính, việc tự thực hiện được phần dịch vụ triển khai, tích hợp, thí nghiệm hiệu chỉnh nên chi phí đầu tư giảm đáng kể, tiết kiệm được khoảng 900 triệu đồng/trạm biến áp, khoảng 2 tỷ đồng/trung tâm điều khiển xa.
Hệ thống SCADA/EMS đã được Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia làm chú khai thác phục vụ điều hành, vận hành hệ thống điện với các tính năng chuyên sâu một cách hiệu quả, đảm bảo an toàn, ổn định hệ thống điện dù
đứng trước sự phát triển đột biến của các nguồn năng lượng tái tạo.
Các đơn vị đã tập trung khai thác tốt, giám sát, phân tích và chuẩn đoán tình trạng theo thời gian thực nhằm mục tiêu phát hiện sớm các khiếm khuyết và các rủi ro hư hỏng, ngăn ngừa sớm sự cố có thể xảy ra, phục vụ công tác vận hành an toàn, ốn định hệ thống điện.
Đặc biệt, với hệ thống thu thập dử liệu đo đếm từ xa, EVN đã tự xây dựng được phần mềm thu thập quản lý dữ liệu đo đếm (EVNHES) dùng chung trong toàn EVN. Có thể nói đây là phần mềm duy nhất tại Việt Nam có thể kết nối được với tất cả các chủng loại đồng hồ đo đếm trên lưởi điện EVN quản lý.
Việc tự động hóa thu thập dữ liệu sẽ giải phóng được nguồn lao động thủ công, nâng cao chất lượng dịch vụ cho ngành Điện, hỗ trợ ngành
Điện trong việc chăm sóc khách hàng và có chiến lược dài hạn trong việc sử dụng nguồn nhân lực.
Không chỉ có vậy, các đơn vị EVN đã có các sản phẩm tự phát triển của riêng mình theo tiêu chí "Make by EVN". Trong năm 2021, các đơn vị đã đảng ký 28 sản phẩm "Make by EVN". Tập đoàn đã thành lập Hội đồng xét duyệt và đã lựa chọn được 6 sản phẩm "Make by EVN", trong đó 3 sản phẩm sẽ đăng ký dự xét tuyển sản phẩm "Make in Vietnam" do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức.
Năm 2021, EVN cũng đã xây dựng và ban hành "Đề án tổng thể Chuyển đổi số trong Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam" với mục tiêu là cơ bản hoàn thành chuyển đổi số vào năm 2022, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp số từ năm 2025; trong đó, công
TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM (Số 202+203, tháng 3+4/2022) 21
CHUYỂN ĐỔI số »
tác tự động hóa đóng vai trò hết sức quan trọng trong các lĩnh vực chuyển đổi số, nhất là trong lĩnh vực sản xuất.
Đến nay, với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, công nghệ số, riêng việc cung ứng các dịch vụ điện và công tác chăm sóc khách hàng của ngành Điện không hề bị gián đoạn, kể cả trong những giai đoạn dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp nhất. Trong đó, quan trọng nhất là sự thay đổi về nhận thức của các cấp quản lý và CBCNỴ từ chỗ còn hiểu khác nhau đến việc có nhận thức chung, cùng hưởng về mục tiêu chung trong chuyển đổi số. Chuyển đổi số ở EVN đã chuyển từ nhận thức thành hành động. Hầu hết hoạt động chính của EVN đã được đưa lên môi trường số ỏ' các mức độ khác nhau.
EVN xác định, với chủ đề công tác năm 2022 của Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam là “Thích ứng an toàn, linh hoạt và hiệu quả”, việc ứng dụng công nghệ và tự động hoá vận hành hệ thống điện cần đảm bảo đạt được các mục tiêu: Tự động hoá trước hết để đảm bảo an toàn, an toàn cho con người và cho thiết bị; tự động hoá làm cho vận hành thiết bị và hệ thống điện linh hoạt hơn; tự động hoá sẽ mang lại hiệu quả, hiệu quả từ tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí và hiệu quả trong quản trị chuyên nghiệp.
Mục tiêu và giải pháp
Thời gian tới, EVN tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh các mục tiêu, giải pháp về tự động hóa đã được HĐTV ban hành tại Nghị quyết số 51/NQ-HĐTV ngày 28/01/2019, với mục tiêu tiếp tục tự chủ và từng
bước làm chủ công nghệ, tiến đến cơ bản làm chú và tự thực hiện phần lớn các công việc về tự động hóa ở tất cả các đơn vị.
EVN và các đơn vị tiếp tục thu thập, quản lý và khai thác tự động, hiệu quả dữ liệu phục vụ vận hành, điều hành hệ thống điện quốc gia; đẩy mạnh việc quản lý và khai thác dữ liệu trên các nền tảng phân tích thông minh, phân tích dự báo và phân tích đề xuất được nhúng trong các hệ thống điều khiển;
nghiên cứu các công cụ, giải pháp tự động hóa kết hợp trí tuệ nhân tạo, từng bưởc áp dụng để hướng tởi một hệ thống tự động hóa tiên tiến trong tương lai - Hệ thống Hyperautomation.
Cùng vởi đó, tiếp tục đào tạo và phát triển nguồn nhản lực về tự động hóa theo Đề án phát triển nguồn nhân lực của EVN, trong đó đặt mục tiêu xây dựng đội ngủ chuyên gia có trình độ chuyên sâu, củng như lực lượng kỹ sư vận hành, khai thác và phát triển các hệ thống tự động hóa.
Để đạt được các mục tiêu, EVN yêu cầu các đơn vị xây dựng kế hoạch và lộ trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng tự động hóa phù hợp với thực tế từng lĩnh vực của EVN, không làm dàn trải. Các sản phẩm tự động hóa được ưu tiên đầu tư và khuyến khích phát triển theo Quyết định số 49/2010/QĐ-TTg ngày 19/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Lộ trình này phải phù hợp với Chiến lược phát triển EVN đến nãm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày 01/4/2021.
EVN củng khuyến khích các đơn vị đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các ứng dụng tự động hóa vào mọi mặt hoạt động sản xuất ■ kinh doanh;
xây dựng khung năng lực và tổ chức đào tạo bổ sung nguồn nhân lực đáp ứng quá trình tự động hóa theo đúng mục tiêu đề ra.
EVN củng yêu cầu các đơn vị tăng cường nghiên cứu, lựa chọn ứng dụng có chiều sâu và theo chiều rộng các công nghệ của CMCN 4.0 và công nghệ kỹ thuật số trong công tác tự động hóa, ưu tiên các khuyến khích phát triển các sản phẩm trong cân bằng tải, điều khiển và tối ưu hóa quy trình, kiểm soát hoạt động của nhà máy điện, quản lý và tối ưu hóa nhiên liệu, kiểm tra giám sát hệ thống lưới điện..., với nguyên tắc lấy tính linh hoạt làm trung tâm - các hệ thống tự động hóa cần phải đáp ứng được nhiều các chủng loại thiết bị khác nhau.
Song song đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ; xây dựng lộ trình, chương trình hợp tác và chuyển giao công nghệ với các trường, viện nghiên cứu, các tập đoàn công nghệ, công nghiệp trong nước, tạo nên mạng lưới nghiên cứu, hỗ trợ, chia sẻ, huy động được lực lượng trẻ, có trình độ chuyên môn để tạo những nguồn lực kế cận, cũng như phối hợp để thực hiện các nhiệm vụ đề ra; chủ động nắm bắt các chính sách, hỗ trợ của nhà nước về tự động hóa để tối ưu hóa các nguồn lực phát triển, đảm bảo lợi ích của Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng như các lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp và người dân./.
PV TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆTNAM