ẨN dụ ý niệm về con người
TRONG TRUYỆN NGAN “ CHÍ PHÈO ” CỦA NAM CAO
NGUYỄNTHỊ LAN ANH°
Tóm tắt: Bài viết tập trung xáclập và phân tích cấu trúc chiếu xạ của hai ẩn dụ ý niệm vê CON NGƯỜI trong truyện ngắn “ChíPhèo” từgóc độ của ngôn ngữ học tri nhận. Đồng thời, trên cơ sở thuyết nghiêm thân của ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi chỉ ra mối liên hệ giữa kinh nghiệm cá nhân, văn hoá dân tộcViệt với quá trình nhà văn nhận thức vê'con người.
Từ khoá: Ngôn ngữ học tri nhận; ẩn dụ ý niệm; truyện ngắn “Chí Phèo”; ẩn dụ cấu trúc; ẩn dụ bản thể.
Abstract: This article analyzed the mapping structure of two conceptual metaphors about
“human” in Chi Pheoshort storyfrom the cognitive linguisticsperspective. Relyingcognitive theory on embodiment, the author pointed out the relationship between Nam Cao’spersonal experiences, Vietnameseculture and the way Nam Caoviewed human.
Keywords: Cognitive linguistics; conceptual metaphors; Chi Pheo short story; structural metaphor; ontological metaphor.
Ngàynhậnbài:10/4/2021; Ngày sủabài:12/5/2021;Ngày duyệt đăng bài: 27/6/2021.
Dẩn nhập
Một trong những hướng nghiên cứu nổi bật của ngôn ngữ học tri nhận là việc nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm. Từ trưởc đến lay, các nhà ngôn ngữ học truyền thống vẫn nhìn nhận ẩn dụ chỉ như là một phép chuyển nghĩa (master trope), một biện pháp tu từ (rhetoric) và một hiện tượng ngôn ngữ đơn thuần (a purely linguistic device). Quan điểm ấy tồn tại rất nhiều năm bởi việc thừa nhận ngôn ngữ độc lập vơiýthức và tưduy. Sau này, khi khoa học tịi nhận phát triển, các nhà ngôn ngữ học tri nhận khẳng định ẩn dụ không phải là một hiện tượng ngôn ngữ đơn thuần mà là một hệ thống ý niệm, một quá trình gồm cạc nguyên tắc tri nhận giúp hình thành trithức, nó chi phốivà điều khiển cách con người tư duy và lĩnh hội thế giối. Ân dụ là mệt hình thức ý niệm hoá, đó là việc hiểu
và trải nghiệm miền ý niệm này trên cơ sở một miền ý niệm khác*(1). Cấu trúc của ẩn dụ ý niệm gồm có miền nguồn và miền đích, giữa hai miền có quá trình chiếu xạ.
G. Lakoff lý giải: “Ân dụ là sự chiếu xạ (mapping) từ miền nguồn (source domain) sang miền đích (target domain). Sự chiếu xạ này mang tính cấu trúcrất chặt chẽ”(2).
(,) ThS., Khoa Ngoại ngữ, Học viện Tài chính;
Email: [email protected]
(1) Lakoff G. & Johnson M. (1980), Metaphor we live by, Chicago: The University of Chicago press, p.5.
® Andrew Ortony (1993), Metaphor and thought (second edition), USA: Cambridge University Press, p.207.
“Chí Phèo” là một truyện ngắn xuất sắc, giàu giá trị nhân văn củaNam Cao đã được đưa vào giảng dạy chính thức trong chương trình Ngữ Văn cho học sinh trung học phô thông. Từtrước đến nay đã có rất nhiều bàiviết phân tích, bàn luậnvề ngôn
so 7-2021 NHÂNLỰCKHOA HỌC XÃ HỘI
ẨN DỤ ÝNIỆM VỀ CON NGƯỜITRONG TRUYỆNNGAN...
ngữ trong tác phẩm này từ nhiều góc độ.
Đa phần các bài viết đều hướng đến làm nổi bật sự độc đáo, phong cách riêng trong cách dụng ngôn của tác giả, chưa có bài viết nào đi sâu phân tích truyện ngắn từ góc độ của ngôn ngữ học tri nhận. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung vào phân tích vấn đề ẩn dụ ý niệm về CON NGƯỜI trong truyện ngắn “Chí Phèo” từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận với mong muôn xác lập được mối liên hệ giữa ngôn ngữ văn bản với cách tri nhận riêng của nhà văn về con người, đồng thời có thể nhìn nhận rõ ràng hơn sự chi phối của kinh nghiệm cá nhân, của văn hoá dân tộc Việt lên quá trình nhà văn tư duy về con người.
Khi khảo sát các biểu thức mang tính ẩn dụ về con người trong tác phẩm “Chí Phèo”, chúng tôi nhận thấy có sự xuất hiện của hai ẩn dụ ý niệm về CON NGƯỜI, đó là: CON NGƯỜI LÀ THựC VẬT/CỎ CÂY và CON NGƯỜI LÀĐỘNG VẬT TRONG CUỘC CHIẾN SINH TỒN.
Cấu trúc ý niệm miền đích CON NGƯỜI được hiểu thông qua cấu trúc ý niệm của hai miền nguon THựC VẬT/CỎ CÂY, ĐỘNG VẬT TRONG cuộc CHIẾN SINH TON dựa trên sự chiếu xạ các thành tố nghĩa tương ứng giữa miền đích và miềnnguồn.
1. Ẩn dụ ý niệm CON NGƯỜI LÀ THỰC VẬT/CỎ CÂY
Ẩn dụ ý niệm “CON NGƯỜI LÀ THựC VẬT/CỎ CÂY’ là một ẩn dụ mang tính phố quát trong tư duy nhân loại nói chung, trong tư duy người Việt nói riêng.
Trong bức tranh ngôn ngữ chung của người Việt, việc tri nhận về con người thông qua thực vật, cỏ cây diễn ra rất phổ
biến. Điều này vốn có cội nguồn sâu xa từ nềnvăn minh nông nghiệp của người Việt.
Khí hậu nước ta nằm trọn trong miên nhiệt đới nóng, ẩm, mưa nhiều và có hai mùa rõ rệt nên rất thuận lợi cho thực vật sinh trưởng, phát triển đa dạng. Do vậy, từ khởi thuỷ, người Việt đã sinh sông chủ yếu dựa vào nghề trồng trọt, hái lượm, biết tận dụng các sản vật của tự nhiên như quả, mầm, lá, hoa, rễ để ăn, vỏ, lá làm đồ mặc, lá, cây con, rễ phụ, thân để đan tết thành võng, để xây nhà, làm thuốc... Trải qua hàng trăm năm sinh sống bằng nghề nông, người Việt tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về mùa màng, cây cối, hiểu biết sâu sắc về các loại cây cũng như đặc tính sinh trưởng, lợi ích... của chúng.
Trong tâm thức của người Việt, cây cỏ không chỉ là cội nguồn nuôi dưỡng sự sông màcòn là bầubạn gắn bó, là một sinh thể đặc biệt cũng có linh hồn, có cảm xúc, cảm giác. Vậy nên người dân Việt bao đời nay ưa chuộng lốì sống hoà mình vào thiên nhiên, giàu tình yêu cỏ cây hoa lá, thích cảm nhận cuộc sốhg của mình trong sự sống tuần hoàn của cỏ cây. Bên cạnh đó, vối sự ảnh hưởng của quan niệm “vạn vật đồngnhất thể”, “vạn vật nhất linh” của tư duy phương Đông, ỏ nhiều nơi, cây cối đã trở thành biểu tượng tâm linh, là linh vật thờ cúng của con người, chẳng hạn như người Chàm có tục thờ dừa, thờ cau, người Kinh thờ cây đa, cây gạo ở các đình chùa, miếu mạo, người Dao thờ cây đa, cây sấu... Dân gian từ xưa đến nayđã suy nghĩ về con người dựa trên các ý niệm về cây cỏ trong ca dao, thành ngữ, tục ngữ:
“cây cao bóng cả, hoa tàn nhị rữa, liễu yếu đào tơ, mặt hoa da phấn, chị em gái
như trái cau non...”
ÍQ NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI SỐ 7-2021
NGUYỄNTHỊ LANANH
Trong truyện ngắn “Chí Phèo”, sự tri nhận về con người qua ý niệm cỏ cây thể hiện ở chỗ nhà ván đã chọn lựa một sô thuộc tính của cây cỏ để chiếu xạ lên con người dựa trên sự đốì ứng giữa về thuộc
tínhcủahai ý niệm. Khảo sát 61 biểu thức ẩn dụ, chúng tôi đã khái quát mô hình ánh xạ miền nguồn THựC VẬT/CỎ CÂY lên miền đích CON NGƯỜI trong tác phẩm (xem bảng 1).
Bảng 1. Mô hình chiếu xạ giữa miền nguồn và miền đích trong ẩn dụ ý niệm CONNGƯỜI LÀ THựC VẬT/CỎ CÂY
Miền nguồn:
THỰC VẬTCỎ CÂY
Miển đích:
CON NGƯỜI
Số lượng biểu thức ngôn từ Toàn bộ cây (tre, măng) => toàn bộconngười 1
Bộ phận củacây (vỏ, râu)
(mo, gai, dây)
Nhiều bộ phận của cây hợp thành (bè)
=> một bộ phận của cơ thể người
=> tínhcách con người
=> nhóm người
3
5 3
Giai đoạn phát triển của cây (mọc, già)
=> các giai đoạn phát triển củacon người
1
Màu sắc/hình dáng/kích cỡ của cây cỏ (hây hây, hồng hồng, trắng hớn, xám ngắt, đen, vàng vàng, xạm, cong queo, to, ngắn, méo mó, sần sùi, lô'c, trọc...)
=> hình dáng, trạng thái con người
31
Thuộc tính của cây cỏ về trạng thái, mùi vị (mềm, rắn, cứng, róc, chắc lép, mềm nhũn, non, nhạt, ngọtngào, đắng, ngon, chuaxót...)
=> Đặc điểm tính cách, phẩm chất, trạng thái cảm xúc của con người
17
Qua mô hình chiếu xạ ở bảng 1, có thể thấy Nam Cao đã chọn lựa tám thuộc tính cua câycỏ để chiếuxạ lên con người, đó là:
tpàn bộ cây, bộ phận của cây, giai đoạn Íát triển, màu sắc, hình dáng, kích cỡ,
ing thái, mùi vị.
Xét về vòng sinh trưởng, cây cối và con người có sự tương đồng rõ rệt. Cây cỏ cũng như con người, cũng tuân theo quy luật của tạo hoá về chu trình sinh học của sự
sống: nảy mầm -lốn lên - pháttriển mạnh mẽ - già cỗi - tàn lụi/chết đi. Quá trình phát triển của cây gợi chúng ta liên tưởng đến tiến trình của đời người: sinh ra - thiếu nhi/thiếu niên - trưởng thành - già yếu - mất đi(3).
(3) Trần Thị Lan Anh (2017), Ẩn dụ ý niệm trong thơ và kịch của Lưu Quang Vũ, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. p. 104.
SÔ 7-2021 NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI
ẨN DỤ Ý NIỆM VỂ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGAN...
Trong “ChíPhèo”, Nam Cao đã chiếu xạ đời sống của cây lên đời sống của con người, toàn bộ cây lên toàn bộ con người, các giai đoạn phát triển của cây lên giai đoạn phát triển của đời người: “Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn?’ Tre và măng là hai giai đoạn phát triển của cùng một loài cây, già và mọc là hai giai đoạn sinh trưởng. Măng là giai đoạn nhú mầm, tre là thời kỳ cây phát triển cứng cáp, trưởng thành. Khi cây tre già cỗi thì lớp măng non sẽ nhú lên để chuẩn bị thay thế, nốỉ tiếp vòng sông, duy trì nòi giống cho cây.
Trong ván hoá Việt Nam, khi nói tre già măngmọclà ngụ ý nói đếnsự tiếp nốì của con người qua các thê hệ, thế hệ sau kế tục sự nghiệp của thế hệ đi trước, ở vàn bản “Chí Phèo”, nhà văn đã sử dụng thành ngữ này để diễn tả vòng luẩn quẩn sự tha hoá của con người. Những người nông dân vôn chân chất, hiền lành nhưng bị chèn ép, áp bức đã buộc phải tha hoá để tồn tại, và sự lặp lại ấy cứ tiếp nối chưa có điểm dừng.
Bên cạnh đó, các bộ phận của cây cối cũng được sử dụng để chiếu xạ lên các bộ phận của con người; màu sắc, kích cỡ, hình dáng của cây cũng được dùng để chiếu xạ lên hình dáng, trạng thái của con người. Trong một số biểu thức ẩn dụ, Nam Cao đã soi chiếu đồng thòi nhiều thuộc tính của cây lên hình dáng, bộ phận của con người:
“Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sẩn sùi như vỏ cam sành.” (thuộc tính kích cỡ, màu sắc, bộ phận cây chiếu xạ đến những đặc điểm xấu xítrên khuôn mặt Thị Nở).
“Người bà ấy phốp pháp, má bà ấy
hây hây” (thuộc tính hình dáng, màu sắc cây chiếu xạ đến độ xuân thìđẩy dục vọng của bà Ba).
“Cái mặt vàng vàng mà lại muôn xạm màu gio” (thuộc tính màu sắc cây chiếu xạ đến hình dáng bên ngoài và sự từng
trải của con người).
Bộ phận của cây cũng được dùng để chiếu xạ lên tínhcách của con người:“Đàn bà vôh chuộng hoà bình, họ muốn yên chuyện thì thôi, gai ngạnh làm gì cho sinh sự”. Trong tự nhiên, để sinh tồn, mọi sinh vật trong đó có thực vật đều phải sinh tồn và có “vũ khí” riêng để tự bảo vệ. “Gai” là một trong những “vũ khí” của cây. “Gai” có đặc tính nhọn, cứng, nhô ra ngoài thân cây, có thể châm chích kẻ thù khi bị tấn công. Dựa vào đặc tính ấy, tác giả sử dụng đê chiếu xạ đến tính cách ngang tàng, có khuynh hướng thích đốĩ chọi để tự bảo vệ của conngười.
Sự liên kết giữa các bộ phận cây cũng được tác giả chiếu xạ lên nhóm người:
“Làng nào cũng có nhiều cánh, mỗi cánh kết bè kết đảng chung quanh một người”.
“Bè” là một khối được kết nối từ nhiều thân cây (tre, nứa, gỗ...), dùng để di chuyển trên mặt nước. Trong tác phẩm,
“bè” được chiếu xạ lên một nhóm người cấu kết với nhau để áp bức, hãm hại người dân.
Trong truyện ngắn, Nam Cao có xu hướng lựa chọn các thuộc tính của cây cỏ về trạng thái, mùi vị để chiếu xạ lên các đặc điểm tính cách, phẩm chất, trạng tháicảm xúc của con người. Có đến 17/61 biểu thức ẩn dụ trong đó tác giả đã tạo ra sự chiếu xạ này. Chẳng hạn: “Sự ngọt ngào làm cho mềm nhũn”; “Già yếu quá nghĩ mà chua xót”. Từ trước đến nay,
22
NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI SỐ 7-2021trạng thái, mùivị của đồ ăn, của hoa quả thường được chiếu xạ sang tính cách, phẩm chất con người. Dân gian hay nói:
“giọng chua loét”, “lời nói ngọt ngào”,
“ngậm đắng nuốt cay”, “chia ngọt sẻ bùi”... Sự chiếu xạ này có nguồn gốc từ kinh nghiệm nghiệm thân của con người về hoa trái, cây cỏ khi ăn các loại có mùi vị khác nhau. Vị “ngọt ngào” của quả cây thường tạo cho con người cảm nhậnthích thú, dễ chịu, thoải mái nên Nam Cao đã chiếu xạ sang hành vi cư xử của con người, ngụ ý về cách hành xử tạo được thiện cảm cho người đốì diện. Trong khi đó, vị chua thường tạo ra cảm giác khó chịu, không thoải mái cho người ăn lại được nhà văn sử dụng để đối ứngvới tâm trạng, cảm xúc buồn bã, thấm thìa lẽ đòi của nhân vật. Bên cạnh đó, “mềm nhũn”
vốn là thuộc tính của thực vật, chỉ trạng thái chín quá mức của quả cây hoặc trạng thái thiếu cứng cáp của thân, rễ, cũng được dùng để chiếu xạ sang thái độ nhún nhường, cảm động của nhân vật. Sự chiếu xạ này thường xuất hiện trong những câu văn mang hàm ý bình phẩm hoặc trong lời độc thoại triết lý của nhân vật về cuộc đời, giúp cho người đọc cảm phận thấy như đang tự mình trải nghiệm tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật.
2. Ẩn dụ ý niệm CON NGƯỜI LÀ
ĐỘNG VẬT TRONG cuộc CHIÊN SINH TỒN
Trong tự nhiên, xét về bản chất sinh học, con người cũng là một loài động vật.
Sự sống của loài người song song tồn tại bên cạnh đời sống của các loài động vật khác. Giữa con ngườivà độngvật có nhiều điểm tương đồng nên mỗi con vật với các đăc điểm sinh học, đặc tính về hình dạng,
NGUYỄN THỊLAN ANH
kích cỡ, màu sắc, hành vi, sự sinh trưởng, tập quán, nguồn gốc, môi trường sống...
luôn gợi lên sự liên tưởng đến các đặc điểm sinh lý, hành vi, đặc điểm tính cách, lối sông... của con người. Trong văn hoá Việt, từ trước đến nay, trong đời sông thường ngày nói chung, trong văn chương nói riêng, việc chiếu ứng động vật lên các đặc điểm của con người khá phổ biến.
Thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ Việt Nam cónhiều câu trong đó dùng các thuộc tính của động vật chiếu xạ lên các thuộc tính của con người như: to như voi, khoẻ như trâu, chậm như sên, buồn như kiến cắn, mặt đỏ như gà chọi, trứng khôn hơn vịt, đầu voi đuôi chuột, cốc mò còxơi, nuôi ong tay áo, nuôi cáo trongnhà,...
Ẩn dụ ý niệm “CON NGƯỜI LÀ ĐỘNG VẬT” là một ẩn dụ nguyên cấp (primary metaphor). Khi đi vào văn chương, các nhà văn, nhà thơ sẽ sử dụng những cơ chếkhác nhau để mở rộng hoặc chi tiết hoá các cấu trúc ánh xạ dựa trên việc bổ sung thêm các thuộc tính vào ý niệm nguồn hoặc đi sâu vào làm nổi bật một phương diện nào đó của ý niệm nguồn. Trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao đã vận dụng cơ chếchi tiết hoá làm nổi bật thuộc tính phương thức sông, môi trường sống của ý niệm ĐỘNG VẬT. “ĐỘNG VẬT TRONG cuộc CHIẾN SINH TỒN” được tác giả sử dụng để chiếu xạ lên ý niệm đích “CON NGƯỜI” nhằm tái hiện một cách sâu sắc đời sông khổ cực, bần cùng người nông dân cũng như môi trường xã hội phi nhân tính. Sơ đồ chiếu xạ giữa hai miền ý niệm này trong tác phẩm được khái quát tại bảng 2 dựa trên việc khảo sát 81 biểu thức ẩn dụ.
SÔ 7-2021 NHÂN LỤC KHOA HỌC XÃ HỘI jjg
ẨN DỤ Ý NIỆM VỂ CON NGƯỜITRONGTRUYỆN NGAN...
Bảng2. Mô hình chiếu xạ giữamiềnnguồn vàmiển đích trong ẩn dụ ý niệm CON NGƯỜI LÀ ĐỘNG VẬT TRONG cuộc CHIÊN SINH TồN
Miền nguồn ĐỘNGVẬT
TRONG CUỘC CHIẾN SINHTồN
Miền đích CON NGƯỜI
SỐlượng biểu thức ngôn từ
Toàn bộ con vật (cá, cua, mọt) => con người 3 Bộ phận cơ thể con vật
(vây, cánh)
(ngạnh, đầu bòđầu bướu)
=> nhóm người
=> tính cách con người
6 2
Màu sắc con vật (màu thịt trâu xám ngoách) => hình dáng conngười
1
Hành vi của con vật (giật cướp, giết, lôi, cắp, ăn, vật, giẫy đành đạch, xúm lại, tản đi, nhao lên, bò, gào, rên, kêu, bạnh, tranh, giao
tranh, chọi, đương đẩu, kình nhau, cưdi, thúc, đùn, đục khoét, khoét, bám, vẩn ngửa, vùng vẫy...)
=> hành vi con người
61
Thức ăn của con vật (mồỉ) => Lợi ích của con người
2
Đặc điểm tính cách (hung hăng, trung thành, hung đồ)
=> Tính cách conngười
4
Trạng tháibệnhtật của con vật (dạỉ) => thái độ ứng xử conngười
1
Môi trường sống của con vật (quần ngư tranh thực)
=> Môi trường sống của con người
1
Môhình chiếu xạ trong bảng2 cho thấy tác giả của “'Chi Phèo” đã tập trung vào tám thuộc tính của động vật để đốiứngvới các thuộc tính của con người, đó là: toàn bộ con vật, bộ phận của con vật, thức ăn, màu sắc, hành vi, đặc điểm tính cách, trạngtháibệnhtậtvà môi trường sốhg.
NamCao tri nhận mỗi cá thể độngvật như một con người, môi trườngsống của động vật
chiếuxạ sang môi trường sống của con người, thức ăncủa động vậtlà lợi ích của con người, bộphậncon vậtlà một nhóm người:
“Hồi năm nọ, có một thày địa lý qua đây có bảo đấtlàng này vàocái thê “quẩn ngư tranh thực”, vì thế mà bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mốì, bè nào cũng muôn ăn.”
NHÂN Lực KHOA HỌC XÃHỘI SÔ 7-2021
NGUYỄN THỊ LAN ANH
“Làng nào củng có nhiều cảnh, mỗi cánh kết bè kết đảng chung quanh một người: cánh cụ bá Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng...”.
Trên thực tế, về phương diện sinh học,
“cá”vốn là một động vật ngoại nhiệt (máu lạnh), sông dưới nước, khi được cho ăn thì thường lao vào giành giật đồ ăn. Đặc tính sinh học và bản năng tranh cưóp này cũng được dùng để chiếu xạ đến “bọn đàn anh” - những tên địa chủ độc ác, những kẻ côn đồ bất nhân trong xã hội nông thôn cũ. “Vây” và “cánh” là hai bộ phận của cá và chim, có tính đốixứng ở hai bên thân con vật, có chức năng giúp cơ thể di chuyển về phía trước trong môi trường nước/không khí. Dựa trên chức năng này, vây và cánh chiếu xạ đến những nhóm người thuộc các tổ chức, đội ngũ khác nhau có sự đối nghịch về lợi ích, địa vị.
Còn “Mồi” vốn là thức ăn dùng cho động vật, dùng để nhử bắt động vật được chiếu xạ đến đặc tính lợi ích vật chất trong ý niệm con người. Đồng thời, theo quan niệm phong thuỷ của phương Đông và trong tâm thức của người Việt, khi nói đến địa thê “quần ngư tranh thực” (đàn cá tranh ăn) là nhằm ngụ ý nói về những chốn loạn lạc, nơi con người tranh giành phau về miếng ăn, lợi ích, địa vị. Tập hợp Ỉ ác thuộc tính chiếu xạ kể trên từ miền Lguồn ĐỘNG VẬT TRONG cuộc ẻHlẾN SINH TỒN lên miền nguồn CON NGƯỜI đã làm nổi bật đời sông đen tối,
lốì nát của xã hội nông thôn cũ, nơi mà những kẻ địa chủ, quan lại địa phương san sàng dùng mọi thủ đoạn, âm mưu hãm hại lẫn nhau, hãm hại người dân để cọ được tiềnbạc, địa vị thống trị.
t:
Trong quan niệm dân gian Việt Nam, khi miền đích CON NGUỜI khi được chiếu xạ bằng các thuộc tính của miền nguồn ĐỘNG VẬT thì các thuộc tính của miền đích thường có ý nghĩa tiêu cực. Trong tác phẩm “Chí Phèo”, sự chiếu xạ đó cũng mang tính chất tương tự. Một loạt hành vi của con người được chiếu ứng từ hành vi động vật: “Cái thằng bá Kiến này, già đời đục khoét...
làm lý trưởng thì cứ việc ngồi mà khoét”, “Ờ thế mà cũng dám độc lực chọi nhau với lý trưởng”, “cả làng Vũ Đại nhao lên”..., hay tính nết con người được chiếu ứng từ tính cách con vật:
“Thấy điệu bộ hung hăng của hắn”,
“cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa”, “hắn có thể hùng hổ đi báo thù”... đều mang nghĩa tiêu cực. Tập hợp các đặc tính chiếu xạ này giúp tái hiện lại sự tàn bạo của giai cấp thông trị và sự khốh cùng, tha hoá để tồn tại của người nông dân dưới chê độ cũ.
Ngoài ra, trạng thái bệnh tật của con vật cũng được chiếu xạ sang thái độ ứng xử của con người: “Bà gào lên như một con mẹ dại”. Bệnh “dại” gây ra hậu quả nghiêm trọng ở não, thần kinh con vật.
Thuộc tính này chiếu xạ sang sự thiếu kiểm soát về tinh thần và hành vi của con người.
Trong quá trình khảo sát hai ẩn dụ ý niệm: CON NGƯỜI LÀ THựC VẬT/CỎ CÂY, CON NGƯỜI LÀ ĐỘNG VẬT TRONG CUỘC CHIẾN SINH TỒN trong tác phẩm “Chí Phèo”, chúng tôi cũng nhận thấy những ẩn dụ này không chỉ tồn tại đơn lẻ mà còn đan xen vào nhau
NHÂNLỤCKHOA HỌC XÃ HỘI m
SÔ 7-2021
ẨN DỤ Ý NIỆM VỂ CON NGƯỜI TRONGTRUYỆN NGAN...
trong nhiều biểu thức ẩn dụ, tạo nên những ẩn dụ phức hợp (complex metaphors). Chẳng hạn, trong đoạn văn:
“Cụ nghĩ bụng cũng phải có những thằng đẩu bò chứ? Không có những thằng đẩu bò thì lây ai mà trị những thằng đẩu bò?
Thế lực của cụ sở dĩ lấn át được những vây cánh khác, một phần lớn cũng bởi cụ biết mềm biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi từ’ nhà văn tri nhận CON NGƯỜI đồng thời từ cả hai miền nguồn THỰC VẬT/CÂY Cỏ VÀ ĐỘNG VẬT TRONG CUỘC CHIẾN SINH TỒN.
Kếtluận
Quan niệm về ẩn dụ của ngôn ngữ học tri nhận không chỉ giúp mở rộng địa hạt tư duy trong lời nói hàng ngày mà còn mở ra nhiều lĩnh vực khác. Việc nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ thực chất là việc xác định cơ chê chiếu xạ (mapping) ý niệm ẩn tàng trong tư duy người sử dụng ngôn ngữ, đồng thời thấy được những đặc trưng văn hoá cũng như kinh nghiệm cá nhân đã ảnh hưởng đến sự tri giác của họ thông qua các biểu thức ngôn ngữ mang tính ẩn dụ (metaphorical linguistic expressions).
Trong bài viết, chúng tôi đã chỉ ra được những cách thức tư duy và cảm nhận riêng về con người của Nam Cao.
Sự bóc tách phân tích của chúng tôi đối với từng ẩn dụ ý niệm không có ngụ ý rằng nhà văn suy nghĩ và tư duy về con người một cách đơn chiều, mà chúng tôi thừa nhận và nhấn mạnh sự tri nhận mang tính phức hợp về con người của tác giả này. Nhân vật trong tác phẩm, vì thế, hiện lên không nhạt nhoà mà đa
chiều và ấn tượng. Đồng thời, sự phóng chiếu của văn hoá Việt lên phương thức tư duy của nhà văn cũng khiến cho nhân vật hiện lên có bề sâu văn hoá và mang tính lịch sử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận - ghi chép và suy nghĩ, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt (tái bản có sửa chữa bổ sung), Nxb. Phương Đông, Hà Nội.
3. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Phạm Thị Hương Quỳnh (2017), Ân dụ ý niệm trong thơ Xuân Quỳnh, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Trần Thị Lan Anh (2017), Ân dụ ý niệm trong thơ và kịch của Lưu Quang
Vũ, Luận án Tiến sĩ Ngữ Ván, Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Andrew Ortony (1993), Metaphor and thought (second edition), USA:
Cambridge University Press
7. Kovecses z. (2010), Metaphor: A Practical Introduction (second edition), NewYork: Oxford UniversityPress.
8. Lakoff G. & Johnson M. (1980), Metaphor we live by, Chicago: The University of Chicago press.
9. LakoffG. & Turner M. (1989), More than Cool reason: A Field Guideto Poetic Metaphor, Chicago and London: The University ofChicago Press.