• Tidak ada hasil yang ditemukan

1. Mở đầu 2. Nội dung nghiên cứu

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "1. Mở đầu 2. Nội dung nghiên cứu"

Copied!
9
0
0

Teks penuh

(1)

78

Educational Sciences, 2018, Volume 63, Issue 8, pp. 78-86 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

QUẢN LÍ CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP CẦN TIẾP CẬN KHOA HỌC HỆ THỐNG

Nguyễn Thanh Sơn

Đảng ủy Khối các trường Đại học, Cao đẳng Hà Nội

Tóm tắt. Thông qua phương pháp nghiên cứu khoa học quản lí cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập theo tiếp cận hệ thống, bài báo đã làm sáng rõ nguồn gốc ra đời của giáo dục đại học ngoài công lập luôn gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế của đất nước, cũng như nhận diện các nhân tố ảnh hưởng khó khăn, thách thức trong lĩnh vực này. Nghiên cứu cũng cho thấy giáo dục đại học cần tận dụng được quy luật khách quan của thể chế kinh tế thị trường để thay đổi. Đồng thời nà nước cần tạo dựng khuôn khổ pháp lí phù hợp để giáo dục ngoài công lập phát triển đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Để làm tốt các vấn đề trên không thể thiếu vài trò của khoa học quản lí theo tiếp cận hệ thống.

Từ khóa: Quản lí, tiếp cận hệ thống, đại học ngoài công lập.

1. Mở đầu

Giáo dục đại học ngoài công lập (GDĐHNCL) Việt Nam sau 30 năm đổi mới đã trở thành thực tiễn sinh động, mang lại diện mạo mới cho giáo dục đại học. Tuy nhiên sự phát triển của GDĐHNCL chưa tương xứng với tiềm năng, thiếu ổn định và bền vững, chưa tương xứng với đổi mới kinh tế.Trong thực tế, mô hình quản trị đại học chưa rõ ràng, minh bạch trong quản lí, điều hành và phân chia lợi nhuận đã làm phát sinh những phức tạp mới [1]. Những tồn tại nêu trên đã làm ảnh hưởng đến uy tín chất lượng của GDĐHNCL dẫn đến sự kì thị. Một số ngành, địa phương và doanh nghiệp khi tuyển dụng nhân lực đã công khai không tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp các trường khu vực ngoài công lập, trong khi xu hướng giáo dục đại học trên thế giới nghiêng về khu vực đại học tư thục đang rất thành công. Đại học tư thục đang phát triển rất mạnh đặc biệt ở các nước châu Á, trong cuốn sách Cuộc cạnh tranh chất xám vĩ đại của Ben Wildaysky đã mô tả về sự cạnh tranh thương mại trong giáo dục đại học tư thục: ở Hàn Quốc 80% là đại học tư thục; 77% ở Nhật Bản; 75% ở Ấn Độ và Brazin; 68% ở Philippnes, Indonesia và Columbia;

63% ở Bỉ. Giáo dục đại học tư thục đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp thu hút các tập đoàn đầu tư vào giáo dục như: Laureate Education; tập đoàn Apollo của Hoa Kì [2; tr.25, 26, 69].

Đặc biệt, Malaysia đã vươn lên cạnh tranh với các trường đại học châu Á và Mỹ nhờ chính sách đúng đắn với đại học tư thục và trở thành địa chỉ tin cậy của sinh viên quốc tế [6]. Vậy, nguyên nhân nào đang khiến cho giáo dục đại học ngoài công lập Việt Nam đi ngược lại với xu hướng trong khu vực và thế giới, khoa học quản lí theo tiếp cận hệ thống sẽ làm sáng rõ những vấn đề trên.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Nhân tố tác động đến sự hình thành giáo dục đại học ngoài công lập

Ngày nhận bài: 19/4/2018. Ngày sửa bài: 19/7/2018. Ngày nhận đăng: 20/8/2018.

Tác giả liên hệ: Nguyễn Thanh Sơn. Địa chỉ e-mail: [email protected]

(2)

79 2.1.1. Giai đoạn thứ nhất - từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2011)

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, mà trước hết là tập trung đổi mới tư duy kinh tế. Đổi mới tư duy kinh tế đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó giáo dục và đào tạo. Năm 1988, Nhà nước cho phép thí điểm mô hình Đại học Thăng Long không dùng ngân sách nhà nước đầu tiên ở Việt Nam sau đổi mới. Trên cơ sở đó, Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật làm hành lang pháp lí cho loại trường này như: Quyết định 240 của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/5/1993 về quy chế hoạt động của trường đại học tư thục; Quyết định 196 năm 1994 của Bộ GD&ĐT về quy chế tạm thời của trường đại học lập; Quyết định 86 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học dân lập. Từ chỗ thí điểm một trường ngoài công lập (năm 1988), đến năm học 2001 – 2002, Việt Nam đã có 17 trường đại học ngoài công lập với quy mô đào tạo lên tới 82.593 sinh viên và tạo việc làm cho 3.928 giảng viên.

2.1.2. Giai đoạn thứ hai - Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2011, Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta [7]. Như vậy, từ chấp nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đến công nhận nền kinh tế thị trường và tôn trọng các quy luật khách quan thị trường là một bước tiến quan trọng trong tư duy, nhận thức, mở cửa cho thị trường đến với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục. Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 14 về quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục, lúc này nhận thức về khu vực tư nhân đã có nhiều thay đổi. Lần đầu tiên đưa vào giáo dục những khái niệm gắn liền với doanh nghiệp như “vốn góp”, “vốn điều lệ”, “vốn có quyền biểu quyết”, “thành viên sáng lập”, đồng thời chế định quyền sở hữu về tài sản đối với nhà đầu tư đầu tư vào giáo dục, chấp nhận cơ chế vận hành của mô hình góp vốn nhằm huy động nguồn lực cho giáo dục. Đây là những thay đổi rất quan trọng trong tư duy quản trị đại học, mở ra cơ hội cho cho hàng loạt các trường đại học tư thục ra đời. Trước đó là Nghị quyết số 05/2005 về “Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao” với nhiều ưu đãi về chính sách thuế, đất đai, đưa ra chỉ tiêu tăng tỉ lệ sinh viên ngoài công lập đạt 40% vào năm 2010. Như vậy, năm học 2001- 2002, từ 17 trường ngoài công lập đã tăng lên 30 trường vào năm học 2006 – 2007 và tăng quy mô tuyển sinh từ 82.593 lên 157.170 sinh viên.

2.1.3. Giai đoạn thứ ba - Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các cam kết quốc tế

Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới và thực hiện các thông lệ quốc tế, trong đó giáo dục là một trong 12 ngành dịch vụ được điều chỉnh bởi GATS. Từ đây, Việt Nam đã mở cửa cho thị trường giáo dục quốc tế tiếp cận với giáo dục Việt Nam. Giá trị của hội nhập giáo dục quốc tế đã mở ra một không gian nhận thức mới, chúng ta đã thừa nhận giáo dục là hàng hóa, dịch vụ và phải tôn trọng các yếu tố của thị trường; đó là quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu. Những yếu tố đó tạo ra cho giáo dục đại học Việt Nam những diện mạo mới, tiếp cận thông lệ quốc tế, đồng thời tiếp tục thu hút mạnh mẽ nguồn lực đầu tư cho giáo dục. Trong vòng 10 năm, số các trường đại học ngoài công lập từ 30 trường (năm học 2006- 2007) tăng lên 65 trường (năm học 2016-2017); quy mô sinh viên tăng hơn 1,55 lần từ 157.170 lên 243.975; số giảng viên tăng 2,26 lần từ 6.706 lên 15.158.

2.1.4. Giai đoạn thứ tư – khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế Hiện tại chúng ta đang bước vào thời kì dân chủ hóa trong đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là dân chủ hóa nền kinh tế. Nghị quyết số 10/2017 Nghị quyết Hội nghị TW 5 Khóa XII “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

(3)

80

chủ nghĩa” đã khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước, cùng với kinh tế tập thể là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ [8]. Nếu như trước kia chúng ta chỉ khẳng định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế thì bây giờ chúng ta thừa nhận kinh tế tư nhân là động lực phát triển, kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước đều là nòng cốt. Những thay đổi trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, sự thừa nhận vai trò của khu vực tư nhân đã mở ra không gian nhận thức mới trong giáo dục, xóa nhòa đi khoảng cách công – tư, mở ra một thời kì bình đẳng trong phát triển giáo dục. Sự thay đổi đó càng quan trọng khi Quốc hội đang nghiên cứu bổ sung, sửa đổi luật giáo dục đại học. Đây là cơ hội để hoàn thiện thể chế, chính sách về giáo dục tương thích với thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đưa giáo dục đại học Việt Nam phát triển.

Như vậy, chúng ta thấy những dấu mốc trong đổi mới kinh tế, đều có tác động quan trọng đến đổi mới tư duy quản lí giáo dục. Tuy nhiên đến nay, những thay đổi tích cực đối với thể chế kinh tế vừa qua lại chưa tác động nhiều đến giáo dục đại học tư thục, gần như sự tăng trưởng khu vực ngoài công lập chững lại, mà lẽ ra phải tiếp tục phát triển theo quy luật. Vậy tại sao hơn 20 năm qua, vị trí, vai trò của giáo dục đại học ngoài công lập vẫn chưa được xã hội nhiệt tình đón nhận.

2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của giáo dục đại học ngoài công lập

2.2.1. Thói quen quán tính và sự níu kéo của tư duy bao cấp

Từ năm 1954 đến năm 1975, với cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp và chế độ sở hữu toàn dân, chúng ta đã huy động được nguồn lực to lớn có ý nghĩa quyết định cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975. Tuy nhiên trong quá trình vận động và phát triển, cơ chế kế hoạch, tập trung, bao cấp chỉ phù hợp và phát huy tính ưu việt trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Nếu không thay đổi sẽ tạo ra những khó khăn về nguồn lực, bởi nó triệt tiêu đi động lực phát triển. Chế độ sở hữu toàn dân bước sang thời kì xây dựng và phát triển kinh tế thì tài sản nhà nước đã trở thành vô chủ khi không có cá nhân nào chịu trách nhiệm, là nguyên nhân dẫn đến thất thoát, lãng phí và tham ô, tham nhũng. Thói quen Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có trách nhiệm chăm lo mọi nhu cầu cho người dân từ chỗ ăn, chỗ ở, việc học hành, công việc, chăm sóc sức khỏe, mọi việc đều do công ích phục vụ đã làm chúng ta tiêu hao nguồn lực. Mặc dù Việt Nam đã đổi mới được 30 năm, nhận thức đã có nhiều thay đổi, song tư duy bao cấp vẫn níu kéo sự phát triển và điều đó được thể hiện ngay trong giáo dục, đó là:

- Sự phân biệt trường công – trường tư, ngay từ cấp quản lí vẫn sâu sắc. Trường công được Nhà nước đầu tư xây dựng, đào tạo cán bộ, cấp ngân sách hoạt động. Ngay cả hiện nay một số trường đã bắt đầu thực hiện tự chủ, thì việc Nhà nước đầu tư cơ sở vất chất, đội ngũ ban đầu và tạo ra uy tín, thương hiệu là vô cùng to lớn. Học sinh trường công được bao cấp đến 50% học phí, trong khi đó các trường ngoài công lập ra đời trong cơ chế mới, bằng nguồn lực của mình tạo dựng nhà trường, còn đóng thuế cho Nhà nước, cùng đào tạo nguồn lực cho phát triển xã hội, đồng thời làm giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, lẽ ra trường tư phải được ưu tiên hơn để phát triển. Song những chính sách mà Nhà nước hỗ trợ cho trường ngoài công lập vẫn chưa thể hiện sự công bằng.

- Một số cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương có thái độ thiếu thiện chí với trường ngoài công lập khi công khai không tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp khu vực đại học ngoài công lập vào thi tuyển công chức viên chức tại đơn vị mình lại càng làm cho xã hội hoài nghi, đặt các trường ngoài công lập trước khó khăn, thách thức.

- Các cấp quản lí còn như vậy thì tâm lí chung của xã hội vẫn coi khu vực công là trụ cột, trường công là của Nhà nước, được Nhà nước quan tâm, vì vậy phụ huynh gửi con em vào trường công lập yêu tâm hơn. Mặc dù thực tế đã có nhiều trường tư thục chất lượng giáo dục đã tốt hơn

(4)

81 một số trường công, song quan niệm trường công là của nhà nước bao giờ cũng tốt hơn, điều đó phải ánh phần nào sư nứu kéo của tư duy cũ.

2.2.2. Chưa nhận thức đầy đủ về tinh thần giáo dục vận hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

- Trong hoạch định chính sách giáo dục, các nhà quản lí luôn phải đắn đo lựa chọn trước việc mở cửa cho thị trường đến với giáo dục để huy động nguồn lực cho phát triển giáo dục hay kiểm soát vì lo sợ những quy luật thị trường sẽ tác động tiêu cực đến giáo dục. Song thực tế trụ cột kinh tế đã vận hành theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu giáo dục không vận hành theo cơ chế thị trường thì vận hành theo cơ chế nào, nếu không tận dụng lợi thế của đổi mới cơ chế mang lại để thay đổi, thì nguy cơ ngày sẽ càng nhiều hơn và thực tiễn đã cho thấy do dự trong nhận thức là nguyên nhân gây nên những hạn chế yếu kém của khu vực giáo dục đại học ngoài công lập hiện nay.

- Chưa thống nhất nhận thức giáo dục trong cơ chế thị trường dẫn đến hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ. Theo quy luật, giáo dục đã phải vận hành theo cơ chế thị trường nhưng còn băn khoăn, do dự chưa quản lí ở mức độ cần thiết, dẫn đến trường thì vẫn phải vận hành trong cơ chế mới, trong khi hệ thống chính sách các văn băn bản quy phạm pháp luật lại thiếu, hay các quy định của pháp luật luôn phải chạy theo để giải quyết những vấn đề tình thế. “Để giáo dục đại học nói chung và GDĐHNCL nói riêng phát triển cần làm rõ cơ sở lí luận vấn đề: thương mại hóa giáo dục Việt Nam; hàng hóa, dịch vụ, thị trường giáo dục; sở hữu và lợi nhuận trong giáo dục;

mô hình quản trị đại học. Đây là cơ sở để hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển” [11]. Đây cũng là những vấn đề mới mà giáo dục vận hành trong cơ chế thị trường đặt ra không thể né tránh.

2.2.3. Thiếu tiếp cận khoa học quản lí hệ thống đối với GDĐHNCL

- Như đã phân tích ở phần trên, nguồn gốc ra đời của GDĐHNCL chính là quá trình đổi mới kinh tế của đất nước, là quy luật khách quan của cơ chế mới. Vì vậy để GDĐHNCL phát triển theo mong muốn, cần có tác động quản lí cần thiết phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển. Có nghĩa là hệ thống quản lí đó phải tương thích với sự vận động của thể chế kinh tế thị trường, chiến lược phát triển của giáo dục đại học nói chung và GDĐHNCL nói riêng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

- Hệ thống chính sách chưa đồng bộ, các văn bản quy phạm pháp luật chưa phản ánh được thực tiễn, thiếu khả thi, mâu thuẫn. Thực trạng đó cho thấy GDĐHNCL chưa được nhìn nhận như một hệ thống toàn vẹn trong hệ thống phát triển, tư duy ấy xuất phát từ nguyên nhân thiếu tiếp cận khoa học quản lí theo hệ thống đối với GDĐHNCL dẫn đến tư biện, chủ quan, thiếu căn cứ khoa học, vừa không tận dụng được quy luật khách quan để phát triển vừa làm cho chính sách thiếu bền vững.

2.3. Kết quả khảo sát thực trạng/ thực trạng nhận thức về sự cần thiết Sự cần thiết quản lí giáo dục đại học ngoài công lập theo tiếp cận khoa học hệ thống

Để có căn cứ khoa học quản lí GDĐHNCL theo tiếp cận hệ thống, tác giả đã tiến hành khảo sát, lấy ý kiến trên 1.000 người bao gồm: các nhà tuyển dụng, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các nhà quản lí cấp trường, ban giám hiệu, các khoa, phòng, giảng viên, sinh viên của một số trường đại học công lập và ngoài công lập (Bảng 1). Mục tiêu khảo sát tập trung làm rõ những nội dung sau: Nhận thức về quản lí cơ sở GDĐHNCL; nhận thức về tiếp cận hệ thống trong quản lí giáo dục đại học; những thuận lợi, cơ hội, khó khăn, thách thức trong quản lí cơ sở GDĐHNCL hiện nay; các giải pháp mong muốn trong đổi mới quản lí cơ sở GDĐHNCL; công cụ khảo sát là bảng hỏi.

(5)

82

Bảng 1. Tổng hợp đối tượng khảo sát

TT Kí hiệu nhóm phiếu Đối tượng khảo sát Số lượng Ghi chú 1. A Các cơ quan nhà nước, các doanh

nghiệp tuyển dụng lao động 47

2. B1 CBQL ĐH công lập 100

3. B2 CBQL ĐH ngoài công lập 100

4. C1 Giảng viên ĐH công lập 140

5. C2 Giảng viên ĐH ngoài công lập 135

6. D1 Sinh viên ĐH công lập 250

7. D2 Sinh viên ĐH ngoài công lập 231

Tổng số: 1003

- Vai trò của tiếp cận hệ thống trong quản lí giáo dục

+ Kết quả khảo sát, lấy ý kiến về tiếp cận hệ thống trong quản lí giáo dục với câu hỏi “Quản lí giáo dục đại học chỉ cần kinh nghiệm hay còn phải dựa vào lí luận khoa học”, kết quả trả lời cho thấy có tới 60,82% ý kiến cho rằng phải dựa vào cả kinh nghiệm và lí luận khoa học; 17, 75% ý kiến dựa vào lí luận khoa học. Điều này cho thấy: GDĐHNCL muốn phát triển bên cạnh yếu tố kinh nghiệm không thể thiếu lí luận khoa học và phải dựa vào lí luận khoa học.

Bảng 2. Kết quả khảo sát theo chủ đề “Quản lí giáo dục đại học chỉ cần kinh nghiệm hay còn phải dựa vào lí luận khoa học”

STT Lựa chọn Số lượng Phần trăm

1 Chỉ cần dựa vào kinh nghiệp 116 11,57%

2 Phải dựa vào lí luận khoa học 178 17,75%

3 Phải dựa cả kinh nghiệm lẫn khoa học 610 60,82%

4 Chỉ cần thực hiện đúng luật, chính sách, quy chế 49 4,89%

5 Ý kiến khác 50 4,99%

Tổng 1003 100,00%

Bảng 3. Kết quả khảo sát theo chủ đề “Quản lí giáo dục đại học theo tiếp cận hệ thống áp dụng như thế nào?”

STT Lựa chọn Số lượng Phần trăm

1 Tiến hành một cách tự phát 155 15,45%

2 Tiến hành theo kinh nghiệm của người trước 299 29,81%

3 Tiến hành dựa vào nghiên cứu hệ thống 395 39,38%

4 Tiến hành bằng cách bắt chước trường khác 155 15,45%

5 Biết rõ điều gì thì áp dụng điều ấy 106 10,57%

6 Ý kiến khác 58 5,78%

+ Quản lí giáo dục đại học theo tiếp cận hệ thống áp dụng như thế nào? Tiến hành khảo sát ở Bảng 3 cho kết quả trả lời như sau: có 39,38% ý kiến cho biết tiến hành dựa vào nghiên cứu hệ thống; 29,81% ý kiến tiến hành dựa vào kinh nghiệm của người đi trước; 15,45% ý kiến tiến hành

(6)

83 tự phát; 15,45% tiến hành bằng bằng cách bắt chiếc trường khác; 10,57% biết rõ điều gì thì áp dụng điều ấy. Như vậy tỉ lệ cao nhất là 39, 38% ý kiến cho rằng đã tiến hành quản lí dựa vào nghiên cứu hệ thống, tuy nhiên còn một tỉ lệ lớn vẫn chưa áp dụng quản lí dựa vào nghiên cứu hệ thống.

+ Vậy tiếp cận quản lí hệ thống dựa vào nghiên cứu khoa học hệ thống có tác dụng thế nào.

Kết quả khảo sát ở Bảng 4 cho thấy các ý kiến tập trung vào 31,80% lựa chọn là rất tích cực;

44,54% phần trăm cho rằng có chuyển biến một phần. Như vậy tổng hợp hai sự lựa chọn này cho thấy quản lí theo tiếp cận hệ thống đối giáo dục ĐHNCL sẽ tạo ra sự thay đổi tích cực.

Bảng 4. Kết quả khảo sát theo chủ đề “Tác dụng của quản lí theo tiếp cận hệ thống ở trường đại học thế nào?”

STT Lựa chọn Số lượng Phần trăm

1 Kết quả rất tích cực 319 31,80%

2 Kết quả có chuyển biến một phần 447 44,57%

3 Không thấy được kết quả 105 10,47%

5 Ý kiến khác 132 13,16%

- Tiếp cận khoa học hệ thống trong quản lí giáo dục đại học là cơ sở lí luận để hoàn thiện thể chế giáo dục vận hành trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Để khẳng định cho phân tích ở phần trên “đổi mới kinh tế là yếu tố quan trọng nhất tác động làm thay đổi tư duy trong giáo dục”, kết quả khảo sát có tới 94,6% ý kiến nhất trí, trong đó có 65,90% cho rằng tác động rất lớn; 28,71% là tác động phần nào. Điều đó cho thấy sự thay đổi đó mang tính quy luật và giáo dục cần tận dụng cơ hội đó để phát triển.

Bảng 5. Kết quả khảo sát theo chủ đề “Đổi mới kinh tế có tác động như thế nào trong tư duy giáo dục?”

STT Lựa chọn Số lượng Phần trăm

1 Có tác động rất lớn 661 65,90%

2 Tác động phần nào 288 28,71%

3 Không tác động 44 4,39%

4 Ý kiến khác 10 1,00%

Tổng 1003 100,00%

+ Tuy đổi mới kinh tế đã có tác động quan trọng đối với đổi mới tư duy giáo dục, song sự níu kéo của tư duy bao cấp đến nay vẫn tác động đến giáo dục. Khảo sát về cơ chế bao cấp trước kia đã tạo ra sự phân biệt trường công – trường tư trong tư duy và thể chế quản lí giáo dục, có tới 93,9% ý kiến cho rằng có sự liên quan, tác động của cơ chế bao cấp cũ; trong đó 51,1% khẳng định cơ chế bao cấp trước kia có tác động quyết định và 42,9% cho rằng tác động một phần; chỉ có 2.9% ý kiến cho rằng không có ảnh hưởng. Điều đó nói lên cơ chế bao cấp trước kia vẫn tác động khá sâu sắc đến tư duy quản lí giáo dục hiện nay, vì vậy rất cần phải quản lí tiếp cận khoa học hệ thống để thay đổi.

Bảng 6. Kết quả khảo sát theo chủ đề “tư duy bao cấp tác động đến giáo dục như thế nào”

STT Lựa chọn Số lượng Phần trăm

1 Có tác động quyết định 512 51,05%

2 Có tác động một phần 430 42,87%

(7)

84

3 Không có tác động nào 29 2,89%

4 Ý kiến khác 32 3,19%

Tổng 1003 100,00%

+ Trong cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp, chúng ta đã phải chịu hậu quả khi không thừa nhận các quy luật của kinh tế, quy luật thị trường. Khảo sát về sự cần thiết phải tuân theo quy luật kinh tế thị trường trong quản lí và vận hành giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng, kết quả thu được cho thấy 88,4% các ý kiến trả lời rằng cần phải tuân theo các quy luật kinh tế thị trường;

trong đó 42,1% cho rằng phải tuân thủ hoàn toàn và 46,4% cho rằng phải tuân thủ từng phần. Điều đó nói lên giáo dục nói chung và GDĐH tận dụng quy luật của kinh tế thị trường để phát triển.

Bảng 7. Kết quả khảo sát theo chủ đề “Sự cần thiết phải tuân theo quy luật kinh tế thị trường”

STT Lựa chọn Số lượng Phần trăm

1 Hoàn toàn phải tuân theo 422 42,07%

2 Phải tuân theo từng phần 465 46,36%

3 Hoàn toàn không cần tuân theo 73 7,28%

4 Ý kiến khác 43 4,29%

Tổng 1003 100,00%

+ Tính quy luật được thể hiện việc thừa nhận thị trường giáo dục mà thực chất thị trường giáo dục đó đang vận động. Khảo sát thị trường giáo dục có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của GDĐHNCL, kết quả có 40,88% ý kiến cho rằng thị trường có ảnh hưởng tích cực; 35% ý kiến cho rằng thị trường đem đến cả những tác động tích cực và tiêu cực nhưng tác động tích cực nhiều hơn. Như vậy, có tới 75,9% số đối tượng khẳng định thị trường giáo dục mang lại nhiều tác động tích cực cho sự phát triển của giáo dục ngoài công lập.

Bảng 8. Kết quả khảo sát theo chủ đề “thị trường giáo dục có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của GDĐHNCL”

STT Lựa chọn Số lượng Phần trăm

1 Ảnh hưởng tích cực vì tạo ra động lực 410 40,88%

2 Ảnh hưởng tiêu cực vì gây ra thương mại hóa 157 15,65%

3 Cả hai loại ảnh hướng nhưng tích cực nhiều hơn 351 35,00%

4 Cả hai loại ảnh hướng nhưng tiêu cực nhiều hơn 45 4,49%

5 Ý kiến khác 40 3,99%

Tổng 1003 100,00%

+ Thừa nhận tính quy luật, tính thị trường trong giáo dục nhằm phát triển đa dạng trong cung cấp dịch vụ giáo dục, huy động mọi nguồn lực cho giáo dục. Tuy nhiên một số ý kiến lo lắng về mục tiêu của GDĐHNCL, kết quả lấy ý kiến khảo sát về mục tiêu của GDĐHNCL, có tới 61,22%

ý kiến cho rằng cả lợi nhuận và chất lượng giáo dục đều là mục tiêu GDĐHNCL hướng tới;

22,5% cho rằng mục tiêu của ĐHNCL phải là chất lượng giáo dục; chỉ 11,4% cho rằng mục tiêu của ĐHNCL là lợi nhuận. Như vậy tổng hợp các ý kiến cho thấy GDĐHNCL muốn có lợi nhuận thì đương nhiên phải đảm bảo chất lượng và ngược lại, điều này phù hợp với quy luật giá trị trong vận động và phát triển.

(8)

85 Bảng 9. Kết quả khảo sát theo chủ đề “Mục tiêu của GDĐHNCL”

STT Lựa chọn Số lượng Phần trăm

1 Lợi nhuận 114 11,37%

2 Chất lượng giáo dục 226 22,53%

3 Cả chất lượng giáo dục và lợi nhuận 614 61,22%

4 Ý kiến khác 49 4,89%

Tổng 1003 100,00%

Những kết quả khảo sát về nhận thức trên phần nào cho chúng ta thấy cần nhận thức đầy đủ, khoa học, biện chứng hơn về vận hành giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Đình Hương (2009) cho rằng “Kinh tế thị trường là một hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa và mang tính phổ biến trong xã hội tư bản, nhưng không vì thế mà đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị tường ra đời và phát triển dựa vào quy luật kinh tế khách quan của nó. Quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh là những quy luật khách quan cho sự phát triển tự nhiên của nền kinh tế thị trường” [10]. Các phân tích trên nói lên giáo dục vận hành theo quy luật thị trường tự nhiên hoàn toàn không mâu thuẫn với chất lượng giáo dục, không làm thương mại hóa giáo dục theo kiểu mua bán tầm thường, mà ngược lại còn làm cho giáo dục thịnh vượng và phát triển.

3. Kết luận

Khoa học quản lí theo tiếp cận hệ thống sẽ giúp chúng ta có luận cứ khoa học vững chắc để hoàn thiện thể chế vững vàng đổi mới. Bên cạnh đó ở cấp cơ sở, giáo dục đại học quản lí theo tiếp cận hệ thống mang lại cho nhà quản lí trường tư duy quản trị đại học mới thích ứng với những thay đổi của kinh tế và thị trường. Từ thực tiễn thế giới, kể cả những nước phát triển đều huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực trong đó có giáo dục. Việc tham gia của khu vực tư không chỉ để thu hút nguồn lực mà còn làm giảm đầu tư công, hạn chế sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước, hướng tới quản lí nhà nước theo hướng kiến tạo, tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư phát triển, tự kiểm soát nội bộ, tạo sự công khai minh bạch, cạnh tranh lành mạnh để đưa giáo dục phát triển, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo Tổng kết 20 năm phát triển các trường đại học ngoài công lập.

[2] Ben Wildaysky, 2012. “Cuộc cạnh tranh chất xám vĩ đại”. Nxb Tri thức, tr. 25, 26, 69.

[3] Đặng Quốc Bảo, 2008. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Giáo dục, tr.22, 23, 25.

[4] Đặng Thành Hưng, 2014. “Tiếp cận quản lí giáo dục hiện đại”. Chuyên khảo phục vụ nghiên cứu và đào tạo đại học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

[5] Lê Thanh Huyền, 2017. “Lí thuyết hệ thống và vận dụng tư duy hệ thống trong đổi mới và quản lí giáo dục”. Tạp chí Giáo dục, số 402, kì 2-3.

[6] Mohamel Ali Abdlrahman, 2013. “Mô hình đại học tư thục Malaysia”. Tạp chí Tia sáng 07/5/2013.

[7] Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2011.

[8] Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ năm Khóa XI của Đảng.

(9)

86

[9] Nguyễn Gia Cầu, 2010. “Tiếp cận hệ thống đổi mới phương pháp dạy học ở phổ thông”. Tạp chí Giáo dục, số 231.

[10] Nguyễn Đình Hương, 2009. “Hội thảo quốc gia, mô hình kinh tế tổng quát trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: cơ sở lí luận và thực tiễn”. Hội đồng lí luận TW và trường đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức, tr.23.

[11] Nguyễn Thanh Sơn, 2017. “Sự phát triển của giáo dục đại học ngoài công lập rất cần những tư tưởng mới”, Tạp chí Giáo dục, số 406, kì 2-5/2017.

[12] Nguồn thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo từ năm 2000 – 2017 đối với khu vực đại học ngoài công lập.

ABSTRACT

The Management on Private University Education based on the Systematic Approach Nguyen Thanh Son College and University Party Governance Committee Based on the scientific management approach on private university education through the systematic approach, the paper has been shown that the formation of the private university education has been together with the economic reform of the country, as well as recognition of difficult and challenging impacts. The study suggests that university education needs to make the most of economic rules to change themselves. Additionally, the government should deliver a proper legal framework for the development of private education in line with the education reform.

Such doings must be engaged by the participation of the scientific management based on the systematic approach.

Keywords: Management, systematic approach, private university education.

Referensi

Dokumen terkait

Trên cơ sở tiếp cận quan điểm dạy học hiện đại và xuất phát từ những yêu cầu của môn Ngữ văn trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, tác giả đề xuất tổ chức phiên tòa giả định PTGĐ

Các nguyên tắc thiết kế - Nguyên tắc 1: Bài tập được thiết kế phải có tính mục đích, căn cứ vào quá trình hình thành và phát triển KQH ở trẻ mầm non; các đối tượng cụ thể sử dụng để

Hàng năm, thông qua Câu lạc bộ, các hội nghị hợp tác đã được các trường luôn phiên đăng cai tổ chức nhằm tập trung thảo luận các vấn đề quan trọng và hợp tác thực hiện như: xây dựng các

Khái quát chung về kiểu bài nghị luận về một vấn đề và đưa ra giải pháp Argument: Problem-and-Solution Essay * Lưu ý: Quan sát, đối chiếu lại bảng chuẩn chung cốt lõi về kĩ năng

Qua đó, tác giả hiểu được những yếu kém, nhất là việc sử dụng máy tính, kết nối internet của các nông dân, nhất là những người lớn tuổi.Trên cơ sở phân tích thực tiễn đó, tác giả đề

Chủ động chờ đợi, sẵn sàng hiến dâng tình cảm là vẻ đẹp và sự mới mẻ trong nhận thức của người phụ nữ được thể hiện trong thơ của các tác giả nữ giai đoạn từ 1986 đến nay.. Người phụ nữ

Sau đây là những nội dung SV cần thực hiện khi thực hành theo các hình thức tổ chức HĐTNTH: 1 Hình thức hoạt động câu lạc bộ: + Xác định mục tiêu tổ chức hoạt động câu lạc bộ gắn với

- Các biện pháp kĩ thuật mới: So với thời kì trước 1884, thuỷ lợi ĐBBK thời Pháp thuộc vẫn được thực hiện theo các biện pháp truyền thống, những kĩ thuật cơ bản đã từng mang lại hiệu