• Tidak ada hasil yang ditemukan

BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG CỦA HỌC SINH TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH NĂM 2019

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG CỦA HỌC SINH TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH NĂM 2019"

Copied!
11
0
0

Teks penuh

(1)

BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG CỦA HỌC SINH TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH NĂM 2019

Phạm Thị Kim Yến1, Thạch Thị Mỹ Phương1, Bùi Thị Kim Tuyến1, Nguyễn Trần Cẩm Linh1 TÓM TẮT38

Bạo lực học đường là những hành vi thô bạo, bất chấp công lý và đạo đức dẫn đến những hành động cãi nhau, đánh nhau thậm chí là chém nhau gây nên những tổn thương về tinh thần và thể xác trong phạm vi học đường. Nghiên cứu trên 400 học sinh tại một trường trung học phổ thông tại thành phố Trà Vinh cho thấy hành vi Bạo lực học đường giữa học sinh với học sinh diễn ra vô cùng phức tạp. Trong đó, bạo lực phổ biến chiếm 34,75%, bạo lực tấn công thụ động chiếm 25%, bạo lực đe dọa bằng lời nói chiếm 24,7%, bạo lực sáng tạo chiếm 24,5%, bạo lực trong tiềm thức chiếm 65,75% và bạo lực nghiêm trọng chiếm 3,75%. Học sinh có hành vi Bạo lực học đường thường là những học sinh có nhận thức sai lầm về bạo lực, có mức độ căng thẳng tâm lý cao khi đến trường hoặc không có kỹ năng giao tiếp tốt, hay gặp khó khăn trong quan hệ với bạn bè và thường xuyên bị cha mẹ trừng phạt mỗi khi mắc lỗi.

Từ khóa: học sinh trung học phổ thông, Bạo lực học đường, thành phố Trà Vinh, AVS.

SUMMARY

SCHOOL VIOLENCE OF STUDENTS AT TRA VINH CITY HIGH SCHOOL,

TRA VINH PROVINCE IN 2019

1Trường Đại học Trà Vinh

Chịu trách nhiệm chính: Phạm Thị Kim Yến Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 18/3/2022

Ngày phản biện khoa học: 07/4/2022 Ngày duyệt bài: 15/4/2022

School violence is violent behavior, disregarding justice and morality, leading to quarrels, fights, and even slashing, causing mental and physical harm within the school. The study on 400 students at a high school in Tra Vinh city shows that the behavior of school violence between students and students is extremely complicated. In cluding, common violence accounted for 34.75%, passive offensive violence accounted for 25%, threatening violence accounted for 24.7%, creative violence accounted for 24.5%, potential violence accounted for 24.7%. subconscious violence accounted for 65.75%, and severe violence accounted for 3.75%. Students who engage in school violence are often students who have misconceptions about violence, have high levels of psychological stress at school or do not have good communication skills, or have difficulty in relationships with friends. They are often punished by their parents every time they made when they have a mistake.

Keywords: high school students, school violence, Tra Vinh city, AVS.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Bạo lực học đường (BLHĐ) ngày càng trở nên phổ biến và đang trở thành một vấn nạn.

Sự gia tăng và bùng phát về số lượng cũng như tính chất nghiêm trọng của nó đã khiến xã hội phải lo lắng. Đứng ở góc độ xã hội, bạo lực học đường ở lứa tuổi học sinh không phải vấn đề mới mẻ, nhưng nó “nóng bỏng”

(2)

hơn ngày xưa do tính chất nghiêm trọng hơn và phổ biến rộng rãi hơn. Bạo lực học đường đang trở thành một vấn nạn, là hồi chuông cảnh tỉnh đối với xã hội nói chung và nhà trường, phụ huynh học sinh nói riêng [1].

Phần lớn các tình trạng bạo lực học đường chỉ được biết đến khi đã xảy ra, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng, tính kịp thời và sự can thiệp của gia đình, nhà trường và xã hội là chưa rõ ràng. Trên thực tế, bạo lực học đường hoàn toàn là vấn đề có thể hạn chế và phòng tránh được. Mặc dù đã có nghiên cứu về kiến thức, thái độ về bạo lực học đường ở trường trung học phổ thông (THPT) Phạm Thái Bường năm 2019, nhưng đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào xác định cụ thể tỷ lệ bạo lực học đường ở học sinh các trường THPT tại Thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Vì vậy, nên cần thiết tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng bạo lực học đường và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Thành phố Trà Vinh tỉnh Trà Vinh năm 2019”, với mục tiêu:

1. Xác định tỷ lệ học sinh có hành vi bạo lực học đường tại trường THPT Thành phố Trà Vinh tỉnh Trà Vinh năm 2019.

2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực học đường của học sinh trường THPT Thành phố Trà Vinh tỉnh Trà Vinh năm 2019.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả

2.2. Đối tượng nghiên cứu: học sinh đang theo học ở trường THPT Thành phố Trà Vinh.

2.3. Phương pháp chọn mẫu

Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng kết hợp với phương pháp chọn mẫu cụm để chọn ra 400 học sinh ở trường THPT Thành phố Trà Vinh tỉnh Trà Vinh bằng bộ câu hỏi tự điền nhằm xác định tỷ lệ bạo lực học đường và mối liên quan với các yếu tố nguy cơ như: đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu, các yếu tố về gia đình, nhà trường và xã hội.

Đánh giá bạo lực học đường sử dụng thang đo đánh giá Adolescent Violence Survey (AVS) được thiết lập bởi Paul M.Kingery thuộc đại học Kentucky (Hoa Kì) năm 1988. Thang đo được khuyến khích dùng để đánh giá tỷ lệ của các hành vi bạo lực tương đối phổ biến từ thấp đến vừa phải ở học sinh THCS và THPT (từ 12-18 tuổi) [3]. Thang đo AVS gồm 41 câu hỏi, đánh giá tình trạng bạo lực ở nhiều khía cạnh khác nhau ở vị thành niên, chia các hành vi bạo lực thành 6 nhóm như bạo lực phổ biến, bạo lực sáng tạo, gây hấn thụ động, đe dọa có tính chất nghiêm trọng, đe dọa bằng lời nói và bạo lực trong tiềm thức [2].

2.4. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu

Xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm STATA.

Thống kê mô tả trình bày dưới dạng tần số (n), tỷ lệ (%).

Thống kê phân tích: so sánh các tỷ lệ bằng kiểm định chi bình phương (χ²), Fisher, chi bình phương khuynh hướng, tính PR, KTC 95% và chọn p < 0,05 là mức có ý nghĩa thống kê.

(3)

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (n=400)

Đặc điểm n (%) Đặc điểm n (%)

Giới tính Tình trạng kinh tế

Nam 207 (51,75) Không nghèo 376 (94,00)

Nữ 193 (48,25) Hộ nghèo/cận nghèo 24 (6,00)

Nhóm tuổi Khối lớp

≤16 tuổi 152 (38,00) Lớp 10 155 (38,75)

17 tuổi 145 (36,25) Lớp 11 146 (36,50)

≥ 18 tuổi 103 (25,75) Lớp 12 99 (24,75)

Học lực Hạnh kiểm

Giỏi 49 (12,25) Tốt 260 (65,00)

Khá 146 (36,50) Khá 114 (28,50)

TB-Yếu-Kém 205 (51,25) TB-Yếu 26 (6,50)

Sống chung với Có bao nhiêu anh chị em

Sống với cha mẹ 296 (74,00) Không có 73 (18,25)

Chỉ cha/ mẹ 59 (14,75) 1-2 267 (66,75)

Người thân 45 (11,25) Từ 3 trở lên 60 (15,00)

Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ học sinh nam tham gia vào khảo sát cao hơn học sinh nữ. Phần lớn học sinh tham gia có độ tuổi từ 16 tuổi trở xuống (38,00%); Học sinh khối 10 chiếm tỷ lệ cao nhất 38,75%, học sinh lớp 11 cũng chiếm tỷ lệ tương đương là 36,50%.

Đa số các học sinh có học lực TB-yếu-kém;

Trên 50% học sinh tham gia khảo sát có hạnh kiểm tốt. Hầu hết các em có một anh/chị/em ruột (81,75%); hầu như các em đang sống chung với cha và mẹ ruột (74,00%). Kinh tế gia đình học sinh hầu hết đều thuộc gia đình không nghèo (94,00%).

Bảng 3.2. Đặc điểm yếu tố gia đình của đối tượng nghiên cứu (n=400)

Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%)

Mức độ quan tâm của gia đình 354 88,50

Chứng kiến bạo lực gia đình (BLGĐ) 218 54,50

Nạn nhân của bạo lực gia đình 70 17,50

Sống chung người thường xuyên sử dụng rượu/bia 117 29,25

Sống chung người dùng kích thích 4 1,00

Sống chung người bệnh tâm thần 15 3,75

Đa số các em học sinh đều được gia đình quan tâm. Trên 50% học sinh tham gia khảo sát có chứng kiến cảnh BLGĐ; và phần lớn các em không là nạn nhân của BLGĐ. Học sinh sống

(4)

chung người thường xuyên sử dụng rượu/bia chiếm 29,25%. Học sinh sống chung người sử dụng chất kích thích chiếm 1,00%; Chỉ có 3,75% học sinh tham gia khảo sát đang sống chung với người bị bệnh tâm thần.

Bảng 3.3. Đặc điểm yếu tố nhà trường của đối tượng nghiên cứu (n=400)

Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%)

Trường học an toàn 145 36,25

Thầy cô đối xử công bằng 190 47,50

Giải quyết mâu thuẫn với bạn bè

Nói với gia đình 44 11,00

Nói với thầy cô 127 31,75

Nói chuyện hòa giải 310 77,50

Mắng chửi/đe dọa 103 25,75

Đánh nhau 62 15,50

Khác 17 4,25

Sử dụng bạo lực (n=161) 56 34,78

Nhóm bỏ tiết học/đánh nhau

Không có 86 53,42

Đôi khi 65 40,37

Thỉnh thoảng 6 3,73

Thường xuyên 4 2,48

Qua thống kê cho thấy chỉ có 36,25% học sinh cho rằng trường học an toàn và 47,5% học sinh cảm nhận thầy cô đối xử công bằng. Cách giải quyết mâu thuẫn của các học sinh chủ yếu là nói chuyện hòa giải với nhau. Có 34,78% học sinh tham gia nhóm sử dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn. Một số ít học sinh thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bỏ tiết học, gây gỗ, đánh nhau.

Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ các nhóm bạo lực trong bạo lực học đường

Trong sáu nhóm bạo lực thì nhóm bạo lực tiềm thức chiếm tỷ lệ cao nhất (65,75%) và nhóm bạo lực có tính chất nghiêm trọng chiếm tỷ lệ thấp nhất (3,75%). Theo kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh tại trường THPT Thành phố Trà Vinh có ít nhất 1 trong 6 nhóm hành vi bạo lực chiếm 76,5% tổng số học sinh tham gia vào khảo sát.

(5)

Bảng 3.4. Mối liên quan giữa nhóm bạo lực phổ biến và đặc điểm học sinh (n=400) Đặc điểm Bạo lực phổ biến

p PR

KTC 95%

Có n (%) Không n (%) Giới tính Nữ

Nam

57 (27,54) 82 (42,49)

150 (72,46)

111 (57,51) < 0,01 1

1,54(1,17-2,03) Nhóm tuổi

≤16 tuổi 17 tuổi

≥ 18 tuổi

72 (47,37) 41 (28,28) 26 (25,24)

80 (52,63) 104 (71,72)

77 (74,76)

< 0,01

< 0,01

1

0,60 (0,41-0,88) 0,53 (0,34-0,83) Khối lớp Lớp 10

Lớp 11 Lớp 12

72 (46,45) 44 (30,14) 23 (23,23)

83 (53,55) 102 (69,86)

76 (76,77)

0,02

< 0,01

1

0,65 (0,45-0,94) 0,50 (0,31-0,80) Hạnh kiểm

Tốt Khá TB-Yếu

74 (28,46) 51 (44,74) 14 (53,85)

186 (71,54) 63 (55,26) 12 (46,15)

0,01 0,03

1

1,57 (1,10-2,25) 1,89 (1,07-3,35) Mức độ quan tâm gia

đình* 116 (32,77) 238 (67,23) 0,02 0,66 (0,47-0,91) Nhóm sử dụng bạo lực* 31 (55,36) 25 (44,64) 0,01 1,57 (1,11-2,23) Sống người người thường

xuyên sử dụng rượu/bia * 55 (47,01) 62 (52,99) < 0,01 1,58 (1,22-2,06)

*So sánh với không

Nghiên cứu cho kết quả tỷ lệ nữ giới có bạo lực phổ biến cao hơn 1,54 lần so với nam. Học sinh 17 tuổi, học sinh từ 18 tuổi trở lên có tỷ lệ bao lực phổ biến thấp hơn học sinh từ 16 tuổi trở xuống lần lượt là 0,6 lần và 0,53 lần. Học sinh khối 11, khối 12 có bạo lực phổ biến thấp hơn khối 10 lần lượt là 0,65 lần và 0,5 lần. Còn những học sinh hạnh kiểm khá, hạnh kiểm TB-yếu có bạo lực cao hơn so với hạnh kiểm tốt lần lượt là 1,57 lần và 1,89 lần.

Kết quả cho thấy học sinh được gia đình quan tâm có bạo lực phổ biến thấp hơn 0,66 lần so với học sinh không được gia đình quan tâm; Học sinh sống chung với người thường xuyên sử dụng rượu/bia có bạo lực phổ biến cao hơn 1,58 lần so với nhóm học sinh không sống chung với người thường xuyên sử dụng rượu/bia. Tỷ lệ bạo lực phổ biến ở học sinh có tham gia nhóm tách biệt sử dụng bạo lực cao gấp 1,57 lần so với nhóm không tham gia nhóm tách biệt sử dụng bạo lực.

Bảng 3.5. Mối liên quan giữa bạo lực thụ động và đặc điểm học sinh (n=400) Đặc điểm Bạo lực thụ động

p PR

KTC 95%

Có n (%) Không n (%) Giới tính Nam

Nữ

43 (20,77) 57 (29,53)

164 (79,23)

136 (70,47) 0,04 1

1,42 (1,01-2,01) Nhóm tuổi ≤16 tuổi

17 tuổi

55 (36,18) 27 (18,62)

97 (63,82)

118 (81,38) < 0,01

1

0,51 (0,32-0,82)

(6)

≥ 18 tuổi 18 (17,48) 85 (82,52) < 0,01 0,48 (0,28-0,82) Khối lớp Lớp 10

Lớp 11 Lớp 12

57 (36,77) 26 (17,81) 17 (17,17)

98 (63,23) 120 (82,83)

82 (82,83)

< 0,01

< 0,01

1

0,48 (0,30-0,77) 0,47 (0,27-0,80) Hôn nhân

cha mẹ

Sống chung Sống riêng

75 (22,73) 25 (35,71)

255 (77,27)

45 (64,29) 0,02 1

1,57 (1,08-2,28) Sống người bệnh tâm thần* 9 (60,00) 6 (40,00) < 0,01 2,54 (1,62-3,98) Mức độ quan tâm gia đình* 78 (22,03) 276 (77,97) < 0,01 0,46 (0,32-0,66) Nhóm sử dụng bạo lực* 29 (51,79) 27 (48,21) < 0,01 1,81 (1,22-2,69)

*So sánh với không

Kết quả cho thấy tỷ lệ học sinh nữ có bạo lực thụ động cao gấp 1,42 lần so với học sinh nam. Học sinh 17 tuổi và học sinh từ 18 tuổi trở lên có tỷ lệ bạo lực thụ động thấp hơn nhóm học sinh từ 16 tuổi trở xuống lần lượt là 0,51 lần và 0,48 lần. Học sinh khối 11 và khối 12 có bạo lực thụ động thấp hơn nhóm học sinh khối lớp 10 lần lượt là 0,48 lần và 0,47 lần. Học sinh có cha mẹ sống riêng có tỷ lệ bạo lực thụ động cao hơn 1,57 lần so với nhóm học sinh có cha mẹ sống chung.

Học sinh sống chung với chỉ cha/mẹ có tỷ lệ

bạo lực thụ động cao hơn 1,62 lần so với học sinh sống chung với cả cha và mẹ.

Học sinh được gia đình quan tâm có bạo lực thụ động thấp hơn 0,46 lần với học sinh không được gia đình quan tâm. Học sinh sống chung với người mắc bệnh tâm thần có tỷ lệ bạo lực thụ động cao hơn 2,54 lần so học sinh không sống chung với người mắc bệnh tâm thần. Học sinh có tham gia nhóm tách biệt sử dụng bạo lực có tỷ lệ bạo lực thụ động cao hơn 1,81 lần so với học sinh không tham gia nhóm tách biệt sử dụng bạo lực.

Bảng 3.6. Mối liên quan giữa bạo lực đe dọa bằng lời nói và đặc điểm học sinh (n=400) Đặc điểm Bạo lực đe dọa lời nói

p PR

KTC 95%

Có n (%) Không n (%) Nhóm tuổi

≤16 tuổi 17 tuổi

≥ 18 tuổi

56 (36,84) 23 (15,86) 20 (19,42)

96 (63,16) 122 (84,14)

83 (80,58)

< 0,01 0,01

1

0,43 (0,26-0,70) 0,53 (0,32-0,88) Khối lớp Lớp 10

Lớp 11 Lớp 12

57 (36,77) 22 (15,07) 20 (20,20)

98 (63,23) 124 (84,93)

79 (79,80)

< 0,01 0,02

1

0,41 (0,25-0,67) 0,55 (0,33-0,91) Mức độ quan tâm gia đình* 79 (22,32) 275 (77,68) < 0,01 0,51 (0,35-0,75) Sống người bệnh tâm thần* 8 (53,33) 7 (46,67) < 0,01 2,26 (1,36-3,74) Nhóm sử dụng bạo lực* 29 (51,79) 27 (48,21) 0,01 1,65 (1,13-2,41)

*So sánh với không

Học sinh 17 tuổi và học sinh ≥ 18 tuổi có tỷ lệ bạo lực đe dọa bằng lời nói thấp hơn học sinh ≤ 16 tuổi lần lượt là 0,43 lần và 0,53

lần. Học sinh khối 11 và học sinh khối 12 có tỷ lệ bạo lực đe dọa bằng lời nói thấp hơn học sinh khối 10 lần lượt là 0,41 lần và 0,55 lần.

(7)

Học sinh được gia đình quan tâm có tỷ lệ bạo lực đe dọa bằng lời nói thấp hơn 0,51 lần so với học sinh không được gia đình quan tâm. Học sinh sống chung với người mắc bệnh tâm thần tỷ lệ bạo lực đe dọa bằng lời nói cao hơn 2,26 lần so với học sinh không

sống chung với người mắc bệnh tâm thần.

Học sinh có tham gia nhóm tách biệt có tỷ lệ bạo lực đe dọa bằng lời nói gấp 2,49 lần so với không tham gia nhóm tách biệt sử dụng bạo lực.

Bảng 3.7. Mối liên quan giữa bạo lực sáng tạo và đặc điểm học sinh (n=400) Đặc điểm Bạo lực sáng tạo

p PR

KTC 95%

Có n (%) Không n (%) Nhóm tuổi

≤16 tuổi 17 tuổi

≥ 18 tuổi

52 (34,21) 32 (22,07) 14 (13,59)

100 (65,79) 113 (77,93) 89 (86,41)

0,05

< 0,01

1

0,65 (0,42-1,00) 0,53 (0,32-0,88) Khối lớp Lớp 10

Lớp 11 Lớp 12

52 (33,55) 31 (21,23) 15 (15,15)

103 (66,45) 115 (78,77) 84 (84,85)

0,04

< 0,01

1

0,63 (0,41-0,99) 0,45 (0,25-0,80) Mức độ quan tâm gia đình* 79 (22,32) 275 (77,68) < 0,01 0,54 (0,36-0,80) Sống người nghiện rượu* 42 (35,90) 75 (64,10) < 0,01 1,81 (1,29-2,54) Sống người tâm thần* 8 (53,33) 7 (46,67) < 0,01 2,28 (1,37-3,79) Nhóm sử dụng bạo lực* 29 (51,79) 27 (48,21) < 0,01 1,94 (1,29-2,91)

*So sánh với không

Kết quả cho thấy tỷ lệ bạo lực sáng tạo ở nhóm học sinh từ 18 tuổi trở lên thấp hơn 0,53 lần so với nhóm học sinh từ 16 tuổi trở xuống. Học sinh khối 11 và học sinh khối 12 có tỷ lệ bạo lực sáng tạo thấp hơn học sinh khối 10.

Học sinh được gia đình quan tâm có tỷ lệ bạo lực sáng tạo thấp hơn 0,54 lần so với nhóm học sinh không được gia đình quan tâm. Những em tham gia nhóm tách biệt sử dụng bạo lực có tỷ lệ bạo lực sáng tạo cao

hơn 1,94 lần so với những em không tham gia vào nhóm tách biệt có sử dụng bạo lực.

Học sinh sống chung với người thường xuyên sử dụng rượu/bia có tỷ lệ bạo lực sáng tạo cao gấp 1,81 lần so nhóm học sinh không sống chung với người thường xuyên sử dụng rượu/bia. Cũng tương tự như trên, nhóm học sinh sống chung với người mắc bệnh tâm thần có tỷ lệ bạo lực sáng tạo cao hơn 2,28 lần so với học sinh không sống chung với người mắc bệnh tâm thần.

Bảng 3.8. Mối liên quan giữa bạo lực trong tiềm thức và đặc điểm học sinh (n=400) Đặc điểm Bạo lực tiềm thức

p PR

KTC 95%

Có n (%) Không n (%)

Trường học có an toàn* 84 (57,93) 61 (42,07) 0,01 0,83 (0,70-0,97) Tham gia nhóm tách biệt* 120 (74,53) 41 (25,47) <0,01 1,25 (1,09-1,43)

*So sánh với không

(8)

Học sinh cho rằng trường học an toàn có tỷ lệ bạo lực trong tiềm thức thấp hơn 0,83 lần so với học sinh cho rằng trường học không an toàn. Những học sinh có tham gia nhóm tách biệt có tỷ lệ bạo lực tiềm thức cao hơn 1,25 lần so với nhóm không tham gia nhóm tách biệt.

Bảng 3.9. Mối liên quan giữa bạo lực nghiêm trọng với đặc điểm học sinh (n=400) Đặc điểm

Bạo lực nghiêm trọng

p PR

KTC 95%

Có n (%) Không n (%) Giới

tính

Nam Nữ

2 (0,97) 13 (6,74)

205 (99,03)

180 (93,26) < 0,01 1

6,97(1,59-30,49) Hạnh

kiểm

Tốt Khá TB-Yếu

5 (1,92) 9 (7,89) 1 (3,85)

255 (98,08) 105 (92,11) 25 (96,15)

0,01 0,53

1

4,12 (1,38-12,25) 2,00 (0,23-17,12)

*So sánh với không

Nghiên cứu cho thấy học sinh nữ có tỷ lệ bạo lực nghiêm trọng cao hơn 6,97 lần so với học sinh nam. Và những học sinh hạnh kiểm khá có tỷ lệ bạo lực nghiêm trọng cao gấp 4,12 lần so với học sinh có hạnh kiểm tốt.

IV. BÀN LUẬN

Học sinh sử dụng hành vi bạo lực phổ biến là 34,75%, kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Lâm Ngọc Minh Thành là 34,5% [2]. Nhóm bạo lực này gồm những hành vi như: tát, đánh hoặc đá, dùng đồ vật để ném vào bạn khác, xô đẩy hoặc ngáng chân, kéo hoặc véo tóc, tay chân bạn khác, ngồi hoặc đè lên người. Trong đó các hành vi chủ yếu là dùng tay tát hoặc đánh bạn và hành vi kéo, nhéo bạn. Có thể đối với các em những hành vi trên chỉ là những trò nghịch, đùa giỡn vô hại của lứa tuổi học trò và giữa bạn bè với nhau.

Học sinh tham gia vào khảo sát có bạo lực tấn công thụ động là 25%. Các hành vi của các em chủ yếu là nói xấu, cố ý va vào bạn khác và cố ý đổ lỗi cho bạn khác. Kết quả này cao hơn kết quả của nghiên cứu tác giả Lâm Ngọc Minh Thành là 21,75% [7]. Trong môi trường học tập các em phải làm quen cũng như tiếp xúc với nhiều bạn bè, từ đó có

thể xảy ra nhiều mâu thuẫn. Do bản tính bồng bột, chưa biết kìm chế cảm xúc, hành động theo cảm tính các em sẵn sàng có những hành động làm tổn thương những bạn mà mình không thích để thỏa mãn sự bực tức, thú vui của mình mà không suy nghĩ đến hậu quả.

Tỷ lệ học sinh ở nhóm bạo lực đe dọa bằng lời nói chiếm tỷ lệ 24,7% gần bằng với nhóm bạo lực tấn công thụ động và bạo lực sáng tạo. Kết quả này thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thị Thục Uyên là 55,7% [4]. Các hành vi bạo lực đe dọa bằng lời nói nói chủ yếu là la hét bạn khác và sử dụng ngôn ngữ cơ thể để đe dọa bạn. Ở lứa tuổi này các em thường thích thể hiện bản thân trước bạn bè nên thường sẽ không chịu thua thiệt trước một ai, vì vậy các em thường sử dụng những lời nói hoặc hành động mang tính chất đe dọa bạn khác khiến bạn phải nể phục, sợ mình.

(9)

Học sinh có hành vi bạo lực sáng tạo là 24,5% thấp hơn của nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thục Uyên là 49,2% [4]. Các hành vi bạo lực sáng tạo được các em sử dụng chủ yếu là cố tình làm rơi đồ vật của các bạn, hét thật to vào tai bạn và cắn bạn.

Đây đều là những hành động thường thấy của các nữ sinh ở lứa tuổi này khi giận hoặc khi có bất đồng với các bạn ở trường, lớp.

Những hành động tưởng chừng như vô hại nhưng ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe cũng như tâm lý của các em.

Nghiên cứu cũng cho kết quả nhóm học sinh có bạo lực trong tiềm thức chiếm 65,75% cao nhất trong sáu nhóm bạo lực học đường. Kết quả nghiên cứu cao hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thục Uyên là 44,1% [4]. Phần lớn các học sinh ý thức được hậu quả của các hành vi bạo lực học đường gây ra cho chính bản thân cũng như cho người khác, từ đó kiềm chế các hành vi bạo lực của mình, khiến tỷ lệ các hình thái bạo lực khác thấp hơn so với bạo lực trong tiềm thức. Các hành vi chủ yếu là nếu bạn khác muốn tôi không sử dụng bạo lực thì bạn đó phải tôn trọng tôi hơn chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là hành vi khi tôi muốn đánh nhau, tôi thường không nghĩ đến hậu quả mà tôi sẽ gây ra.

Bên cạnh đó, tỷ lệ học sinh bạo lực đe dọa có tính nghiêm trọng thấp nhất trong các nhóm bạo lực (3,75%). Kết quả này thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thục Uyên là 9,2% [4]. Đây là nhóm yếu tố thể hiện hành vi đe dọa bằng bạo lực mang tính chất nguy hiểm hơn bình thường, hậu quả của các hành vi bạo lực này hết sức nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng

đến cả thể chất lẫn tinh thần cho các em học sinh khi bị bạn sử dụng loại hình vi bạo lực này.

Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa bạo lực phổ biến với yếu tố giới tính tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Thị Thục Uyên [4]. Nhưng trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thục Uyên cho thấy học sinh nam có sử dụng bạo lực phổ biến cao 1,26 lần so với học sinh nữ [4], còn trong nghiên cứu này cho kết quả chiều ngược lại tỷ lệ sử dụng hành vi bao lực phổ biến ở học sinh nữ cao gấp 1,54 lần so với nam, đặc biệt nữ có bạo lực thụ động cao gấp 1,42 lần so với nam. Ngoài ra, nữ có hành vi bạo lực nghiêm trọng cao gấp 6,97 lần so với học sinh nam.

Kết quả này cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu Nguyễn Thị Thục Uyên (2,76 lần) [4]. Sự khác biệt này là do đặc tính mẫu khác nhau giữa hai nghiên cứu.

Theo kết quả cuộc khảo sát ta thấy có mối liên quan giữa nhóm các bạo lực với nhóm tuổi, khác so với nghiên cứu của La Văn Bộ không tìm thấy mối liên quan giữa các biến [5]. Sự khác biệt này là do đặc tính mẫu khác nhau giữa hai nghiên cứu.

Nghiên cứu cũng đã tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các hành vi bạo lực học đường với khối lớp tương tự như các nghiên cứu ở tỉnh Khánh Hòa năm 2018 [4]. Theo đó thì tình trạng bạo lực càng tăng khi khối lớp càng tăng, nhưng trong nghiên cứu này thì ngược lại tỷ lệ bạo lực ở các em có xu hướng giảm xuống khi khối lớp tăng lên tương tự như nghiên cứu ở tỉnh Bình Định năm 2017 [1]. Điều này có thể được lý giải khi càng lớn, các em dần phát triển, hoàn thiện tư duy và nhân cách, cũng như nhận

(10)

thức rõ ràng hơn các hậu quả mà bạo lực học đường gây ra, từ đó hoàn thiện hành vi, làm tỷ lệ bạo lực giảm dần theo nhóm tuổi và khối lớp.

Khác với nghiên cứu của của tác giả Nguyễn Thị Thục Uyên [4], kết quả nghiên cứu tìm ra mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm bạo lực với hạnh kiểm của các em học sinh. Có thể thấy những học sinh có hạnh kiểm tốt thì có ý thức được những hành vi của mình, hạn chế gây ảnh hưởng hoặc tổn thương đến người khác còn những học sinh có hạnh kiểm khát thì thường có những suy nghĩ chưa đúng và mang khuynh hướng bạo lực cao hơn.

Tình trạng hôn nhân của cha mẹ có mối liên quan đến các hành vi bạo lực thụ động của học sinh, kết quả tương tự như nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thục Uyên [4].

Cụ thể, học sinh có cha mẹ ly thân/ly hôn có hành vi sử dụng bạo lực thụ động cao gấp 1,57 lần so nhóm học sinh có cha mẹ tình trạng hôn nhân bình thường và đang sống chung với nhau. Khi được lớn lên trong sự quan tâm và chăm sóc của cả cha lẫn mẹ, các em được chia sẻ, tháo gỡ những nút thắt tâm lí nhiều hơn, định hướng giải quyết các mâu thuẫn một cách đúng đắn hơn so với các em thiếu vắng sự chăm sóc của cha hoặc mẹ.

Học sinh có các hành vi bạo lực ở các nhóm có tham gia nhóm tách biệt sử dụng bạo lực, sống chung với người thường xuyên sử dụng rượu/bia hoặc gia đình có người mắc bệnh tâm thần. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thục Uyên [4].

Ở lứa tuổi này các em dễ bị chi phối, tác động bởi môi trường xung quanh, đặc biệt là bị tác động bởi bạn bè, gia đình/ môi trường

sống và nhà trường. Việc tham gia vào một nhóm tách biệt có sử dụng bạo lực sẽ dễ dẫn đến việc hình thành những hành vi và cách ứng xử chung của cả nhóm, nếu không thì các em có thể bị tách rời khỏi nhóm. Do đó, nếu đó là một nhóm có hành xử và thái độ tốt sẽ giúp các em hình thành hành vi và nhân cách tốt, ngược lại, nếu đó là một nhóm thường có hành vi sử dụng bạo lực cũng sẽ dẫn đến những hành vi sử dụng bạo lực tương tự ở các em.

Bên cạnh đó, học sinh có tỷ lệ bạo lực trong tiềm thức thấp khi học sinh cảm thấy môi trường trường học an toàn; học sinh có hành vi bạo lực đe dọa bằng lời nói và bạo lực sáng tạo thấp khi các em cảm nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy/cô, bạn bè.

Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Duy Hoàng [7]. Thời gian trong một ngày của các em học sinh xoay quanh việc học ở trường và về nhà với gia đình nên cảm nhận của học sinh về môi trường trường học an toàn và nhận được sự quan tâm của gia đình hết sức quan trọng giúp các em hình thành nhân cách tốt đẹp.

V. KẾT LUẬN

Tỷ lệ bạo lực học đường ở học sinh THPT vô cùng phức tạp: bạo lực phổ biến chiếm 34,75%, bạo lực tấn công thụ động chiếm 25,00%, bạo lực đe dọa bằng lời nói chiếm 24,7%, bạo lực sáng tạo chiếm 24,5%, bạo lực trong tiềm thức chiếm 65,75% và bạo lực nghiêm trọng chiếm 3,75%.

Học sinh có hành vi Bạo lực học đường thường là những học sinh có nhận thức sai lầm về bạo lực, có mức độ căng thẳng tâm lý cao khi đến trường hoặc không có kỹ năng giao tiếp tốt, hay gặp khó khăn trong quan hệ

(11)

với bạn bè và thường xuyên bị cha mẹ trừng phạt mỗi khi mắc lỗi. Chính vì thế, gia đình, nhà trường và xã hội cần thường xuyên quan tâm, theo dõi và nắm bắt tình hình của các em học sinh. Ngoài ra, cần tổ chức tuyên truyền tác hại và cách phòng tránh bạo lực học đường để nâng cao nhận thức, cũng như giúp học sinh phát huy những đức tính tốt đẹp trong bản thân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lưu Thị Diễm Kiều (2018), “Khảo sát kiến thức, thái độ về bạo lực học đường và các yếu tố liên quan của học sinh tại trường Trung học phổ thông Phạm Thái Bường, tỉnh Trà Vinh năm 2018”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân Y tế công cộng, Đại học Trà Vinh.

2. Lâm Ngọc Minh Thành (2015), “Tỷ lệ bạo lực học đường và các yếu tố liên quan của học sinh trường THPT Tam Phú, quận Thủ Đức, Tp.HCM năm 2015”, khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ y học dự phòng, Đại học Y Dược Tp.HCM.

3. Paul M Kingery (1998), "The Adolescent Violence Survey", School Psychology International, 19 (1), pp.43-59.

4. Nguyễn Thị Thục Uyên (2018), “Tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến bạo lực học đường ở học sinh trường THPT Trần Cao Vân thị xã Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa năm 2018”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng, Đại học Y Dược TP.HCM.

5. Trần Thị Chiến, Tô Gia Kiên (2011), “Thực trạng và các yếu tố liên quan đến bạo lực học đường của học sinh trường THCS Lê Lai, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh”, tạp chí Y học TP. HCM, Tập 15.

6. Nguyễn Phan Minh Trung, Lư Ngọc Trâm Anh (2016), “Bạo lực học đường - một góc nhìn từ thế hệ 8x”, hội thảo thực trạng và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường ở trường phổ thông.

7. Nguyễn Duy Hoàng (2017), “Bạo lực học đường và các yếu tố liên quan ở nữ sinh trường Trung học Phổ thông số 3 An Nhơn tỉnh Bình Định năm 2017”, khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ Y học Dự phòng, Đại học Y Dược Tp.HCM.

Referensi

Dokumen terkait

Thấy rõ được tầm quan trọng đặc biệt của nguồn lực thông tin - là một sinh viên học về chuyên ngành Thư viện – Thông tin, với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn, kỹ hơn về nguồn lực thông

Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, thầy cô giáo quan tâm đến khía cạnh giáo dục toán học gắn liền với thực tiễn, cả về lý luận và thực tiễn sâu sắc như Thầy Đào Tam, Trần Vui, Bùi Văn

Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy rằng, học sinh ở khối mắc lỗi dùng từ với tỉ cao nhất, chiếm 43,33% của khối lớp và càng lên lóp cao hơn thì các lồi này càng giảm xuống, 32,26%

Dạy học đọc hiểu thơ trữ tình ở cấp Trung học phổ thông trong Chương trình Ngữ văn 2018 Trong CTNV2018, dạy học đọc hiểu giúp HS tích cực tham gia vào việc tạo nghĩa cho VB, quan

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019 THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC NĂM 2019 Bùi Văn Hồng1, Vũ Đức Anh2,

Hoạt động của học sinh: - Thực hiện các nhiệm vụ giáo viên đề xuất như: Quan sát tranh vẽ, tiến hành thí nghiệm, theo dõi thí nghiệm, thực hiện một số bài tập vận dụng?. Thảo luận và

VI NSC KH EC NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÓM TẮT Thừa cân - béo phì TCBP làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh nói chung và

Kết luận: Tỉ lệ thừa cân-béo phì ở học sinh tiểu học tương đối cao, cần thực hiện các nghiên cứu đoàn hệ hay tiến cứu để khẳng định vai trò của một số yếu tố nguy cơ liên quan tình