TRIÉT HỌC, SỐ 2 (369), THÁNG 2 - 2022
BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Ngọ Văn Nhân ( )
**’ Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Email: [email protected]
Nhận ngày 3 tháng 01 năm 2022. Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 01 năm 2022.
Tóm tắt: Việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sàn văn hóa được đề cập nhất quán và xuyên suốt từ Đại hội VI đến nay với điểm nhấn trong Văn kiện Đại hội XIII cùa Đàng: “Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa”. Theo tinh thần đó, bài viết tập trung làm rõ các khái niệm di sản văn hóa, bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; phân tích chù trương, đường lối của Đảng về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Văn hóa, di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm dì sản văn hóa và phân loại di sản văn hóa
Thứ nhất, khái niệm di sản văn hóa.
Bước sang thế kỷ XXI, xu thế tất yếu của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới là bằng mọi cách, dùng mọi nguồn lực khơi dậy sức sống mãnh liệt của dân tộc mình để hội nhập quốc tế và phát triển hợp lý, phù hợp với xã hội hiện đại. Để làm được điều đó, nhiều nước đã tìm về di sản vãn hóa, coi di sản văn hóa như một nguồn lực nội sinh của sự phát triển, bởi di sản văn
hóa chính là một trong những cội nguồn sức sông tiêm tàng to lớn của dân tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và phát huy trong xã hội hiện đại. Vãn hóa là tiềm lực tinh thần to lớn cùa mồi dân tộc, thể hiện ở những giá trị hàm chứa trong vốn di sản văn hóa dân tộc được tích luỳ theo thời gian lịch sử. Di sản vãn hóa dân tộc giống như một nguồn lực kép: Nguồn lực vật thể (hữu hình) và nguồn lực phi vật thể (vô hình). Di sản văn hóa trở thành điểm tựa quan trọng, tạo thế đi vững chắc cho hiện tại và tưomg lai
BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA...
của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Trải qua hàng ngàn năm, những giá trị di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể Việt Nam vẫn hiện diện như muôn trùng con sóng cuộn chảy trong dòng sông văn hóa truyền thống của dân tộc. Ke thừa di sản quá khứ là quy luật phát triển tất yếu của văn hóa. Muốn kế thừa và phát huy giá trị di sản văn hóa thì trước hết cần phải nghiên cứu, tiếp cận mọi phương diện lý luận về di sản văn hóa dân tộc.
Đe đưa ra khái niệm di sản văn hóa thì nhất thiết phải dựa trên nội hàm khái niệm văn hóa. Trong Mục đọc sách ở phần cuối tập thơ Nhật ký trong tù (1942 - 1943), Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
1 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.431.
2 Xem: Quốc hội, Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đồi, bổ sung năm 2009), Điều 1.
Có thể đưa ra định nghĩa văn hóa như sau: Văn hóa là tổng hòa những giá trị vật chât và tinh thần do con người sảng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiên, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình, được lưu truyền từ thế hệ trước cho thể hệ sau.
Chính tính chất “được lưu truyền từ thế hệ trước cho thế hệ sau” đã biến văn hóa của thế hệ trước thành di sản văn hóa của thế hệ sau. Từ tính chất đó, có thể định nghĩa đi sản văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và giá trị tỉnh thần do con người sảng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình và được lưu truyền từ thế hệ trước cho thế hệ sau.
Với nhận thức di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa sẽ đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triền nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và làm phong phú kho tàng di sản văn hóa thế giới.
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hỏa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam12.
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
NGỌ VĂN NHÂN
và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Theo cách tiếp cận giá trị văn hóa này, có thể thấy di sản văn hóa bao gồm hầu hết các giá trị do thiên nhiên và con người tạo nên trong quá khứ. Nó là phần tinh túy nhât, tiêu biêu nhât đọng lại sau hàng loạt hoạt động sáng tạo cùa con người từ đời này qua đời khác. Di sản văn hóa là những giá trị văn hóa đặc biệt bền vững vì nó phải được xem xét thấu đáo, thẩm định một cách khắt khe bằng sự thừa nhận của cả cộng đồng người trong một quãng thời gian lịch sử lâu dài. Đó chính là tính chất đặc thù của di sản văn hóa, cho phép phân biệt khái niệm di sản văn hóa với khái niệm văn hóa nói chung. Có thế khẳng định rằng, di sản văn hóa là bộ phận cơ bản nhất, quan trọng nhất của một nền văn hóa nếu không muốn nói là tất cả.
Thứ hai, phân loại di sản văn hóa.
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
Theo khoản 1, Điều 2 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản vãn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều cua Luật Di sản văn hóa thì: “Di sản văn hóa
phi vật thể bao gồm: a) Tiếng nói, chữ viết; b) Ngữ văn dân gian; c) Nghệ thuật trình diễn dân gian; d) Tập quán xã hội và tín ngưỡng; đ) Lễ hội truyền thống; e) Nghề thù công truyền thống; d) Tri thức dân gian”.
Di sản văn hỏa vật thê là sản phâm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Theo khoản 2, Điều 2 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP nói trên, “Di sản văn hóa vật thể bao gồm: a) Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi là di tích); b) Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia”.
1.2. Khái niệm bảo tồn di sản văn hóa Trong tiếng Việt, bảo tồn là một động từ, được ghép bởi hai chữ: (i) “bảo” có nghĩa là bảo vệ, bảo đảm, giữ gìn, lưu giữ lại một cái gì đó; (ii) “tồn” có nghĩa là tồn tại, hiện hữu, là cái còn lại, cái không bị mất đi.
Bảo tôn là hoạt động nhằm bảo vệ, giữ gìn, bảo đảm sự tồn tại/hiện hữu của sự vật, hiện tượng theo dạng thức von có của nó; là việc tìm cách để lưu giữ lại, không để sự vật, hiện tượng bị mất đi, bị thay đôi, biến hóa hoặc biến thái thành cái khác với sự vật, hiện tượng ban đầu do tác động, ảnh hưởng của những yếu tố khách quan hay chù quan nào đó.
Như vậy, có thế hiểu: Bảo tồn di sản văn hóa là hoạt động mang tính tổ chức, có mục đích của chủ thê (nhà nước, cộng đông xã hội, cá nhản) nhảm bảo vệ, giữ gìn các di sản vãn hóa có nguy cơ bị suy thoải, hư hại hoặc biến mat do tác động,
BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA...
ảnh hưởng của những yếu tổ khách quan hay chủ quan nào đó.
Việc bảo tồn di sản văn hóa có thể được thực hiện dưới các hình thức hoạt động khác nhau, như khảo sát, điều tra, nghiên cứu, thăm dò, khai quật, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, tu bổ, phục hồi, phục dựng các di sản văn hóa.
1.3. Khái niệm phát huy các giá trị di sản văn hóa
Phát huy có nghĩa là sự kích hoạt, tác động nhằm làm cho điều hay, cái tốt, cái đẹp, mặt tích cực của một sự việc, sự kiện, hiện tượng được lan tỏa, nhân lên ý nghĩa, tác dụng và tiếp tục gia tăng, phát triển.
Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, giá trị là cái làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng trân trọng, quý giá về một mặt nào đó. Giá trị còn được hiểu là những nguyên tắc, chuẩn mực, tiêu chuẩn chỉ dẫn cho hành động của con người theo định hướng Chân - Thiện - Mỹ.
Di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung, di sản văn hóa của từng cộng đồng dân tộc nói riêng là sự hun đúc, đóng góp, kết tinh trí tuệ, công lao đóng góp của nhiều thế hệ người Việt Nam; do thế hệ trước sáng tạo nên và trao truyền lại cho thế hệ sau, có tính kế thừa, tính lịch sử, tính khoa học, thể hiện vẻ đẹp chân, thiện, mỹ của con người.
Khái niệm “phát huy” luôn đi với truyền thống, nghĩa là cụm từ phát huy sừ dụng trong quan niệm bảo tồn vốn cổ, thường là những di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Suy cho cùng, phát huy là làm cho những giá trị di sản văn
hóa, nghệ thuật truyền thống lan tỏa trong các cộng đồng xã hội. Phát huy là giữ nguyên các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học truyền thống để giới thiệu đến đông đảo người quan tâm, yêu quý trân trọng, học tập theo những điều tốt đẹp.
Từ sự phân tích, luận giải các khái niệm, thuật ngữ thành phần nêu ưên, có thể hiểu: Phát huy các giả trị di sản văn hóa là hoạt động mang tỉnh tổ chức, có mục đích của chủ thể (nhà nước, cộng đồng xã hội, cá nhân) nhằm làm cho những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của các di sản văn hóa được lan tỏa, nhân lên ỷ nghĩa, tác dụng và tiếp tục gia tăng, phát trỉến; trở thành nguyên tắc, chuẩn mực soi đường, dẫn lối cho hành động của con người tuân theo quy luật hướng tới Chân - Thiện - Mỹ.
2. Chủ trương, đường lối của Đảng về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa trong Văn kiện Đại hội XIII
Trên thực tế, không phải đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng ta mới bàn về vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa Việt Nam, mà đây là vấn đề nhất quán, xuyên suốt trong chủ trương, đường lối của Đảng. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) và trở thành lực lượng lãnh đạo đất nước, trong các văn kiện, nghị quyết, cương lĩnh của Đảng đều nhất quán chủ trương bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, coi đó là những giá trị cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam.
Đặc biệt, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước.
NGỌ VÀN NHÂN
Những thay đổi sâu sắc nhất bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, theo đó, thay cho nền kinh tế quan liêu, bao cấp, Đảng, Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đe có những thay đổi mang tính chất bước ngoặt cách mạng trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội và văn hóa, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các chủ trương, định hướng, luật, chính sách - những văn bản có tác động sâu sắc đến quá trình giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
Tư duy lý luận của Đảng ta về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa ngày càng được hoàn thiện thông qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng ta nêu lên chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, giữ gìn các di tích lịch sử, văn hóa: “Nhà nước cùng với nhân dân xây dựng những cơ sở vật chất - kỳ thuật cần thiết cho văn hóa và nghệ thuật, giữ gìn và tôn tạo những di tích lịch sử, văn hóa”; đồng thời,
“ngăn chặn khuynh hướng thương mại và các hiện tượng tiêu cực khác”3 trên lĩnh vực văn hóa; nhấn mạnh phải kiên quyết
“chống những tàn tích văn hóa phong kiến, thực dân, tư sản. Làm thất bại âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch biến văn hóa, văn nghệ thành phương tiện gieo rắc tâm lý bi quan và lối sống sa đọa.
Bài trừ mê tín, dị đoan, hủ tục”4. Những tư tưởng quan trọng này đã được phát triển cụ thể hơn trong Văn kiện Đại hội đại biểu
3 Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Vãn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.92.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Sđd., tr.91.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lãn thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.54.
toàn quốc lần thứ VII, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa VII; được tiếp tục hoàn thiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và tiếp tục khẳng định tại Kết luận của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX.
Văn kiện quan trọng của Đảng có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển văn hóa nói chung, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa nói riêng là Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung lỉơng 5 (khóa VIII).
Đây là Nghị quyết về chiến lược vãn hóa của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết nhấn mạnh: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hành động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mỗi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người...”5. Theo quan điểm Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, bản sắc văn hóa dân tộc “bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của các cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp
BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA...
nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giừ nước”6. Bảo vệ bản sắc văn hóa, giá trị di sản văn hóa dân tộc là bảo vệ những tinh hoa của dân tộc được hình thành và lưu giữ qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc phải gắn với giao lưu quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu và phong phú vãn hóa dân tộc Việt Nam. Đồng thời, Nghị quyết cũng đặt vấn đề và yêu cầu bảo vệ di sản văn hóa bao gồm cả văn hóa truyền thống và văn hóa cách mạng, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Het sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”7.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Sđd., tr.56.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Sđd., tr.56.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.l 15.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VII, IX) về văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.283.
10 Đàng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.107.
Tiếp tục bổ sung, phát triển tư duy lý luận của Đảng trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sừ, văn hóa và danh lam thắng cảnh; khai thác các kho tàng văn hóa cổ truyền”8. Tại Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định quá trình mở rộng giao lưu hội nhập phải gắn với bảo tồn, kế thừa các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc: “Trong quá trình mở
rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại”9.
Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa của đất nước;
khẳng định “tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian. Ket hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch”10.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ những yêu cầu cụ thể trong việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa, nhất là ngôn ngữ tiếng Việt và ngôn ngữ, chữ viết của
NGỌ VĂN NHÂN
các dân tộc: “Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt (...). Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số”11. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) của Đảng đã bổ sung và cụ thể hóa hơn nhiệm vụ bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; theo đó, bão tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phải gắn với phát triển du lịch và phát triển kinh tế: “Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biêu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch”11 12; “Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lề hội truyền thống; các giá trị văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng”13. Có thể khẳng định, vấn đề bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc đã được đề cập từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên, trong tư duy lý luận của Đảng vấn đề này được đề cập một cách cụ thể và đầy đủ nhất. Nếu như trong các nghị quyết trước đây Đảng ta mới chỉ đề cập đến các di sản văn hóa dân gian, ngôn ngữ, chữ viết, thì đến Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng đã đề cập đến việc bảo tồn các di sản văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ Xỉ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.224-225.
12 Đãng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lân thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.34.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Sđd., tr.54.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.129.
15 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Vãn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lằn thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.48-49.
16 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd., t.II, tr.72.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII, Đảng ta đã xác định và đặt văn hóa ngang hàng với kinh tể, chính trị.
“Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc.
Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội”14.
Tiếp tục hiện thực hóa chủ trương, đường lối về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa từ các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Công tác bao tồn, phát huy di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch”15; đồng thời, chỉ ra những mặt hạn chế, yếu kém, như “môi trường văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh, trái với thuần phong mỳ tục và truyền thống văn hóa dân tộc”16.
Từ thực tế đó, Đại hội XIII của Đảng đề ra phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm tới; khẳng định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA...
quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc;
tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”17. Đặc biệt, phải coi trọng “bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam”18.
17 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd., t.I, tr. 115-116.
18 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd., t.I, tr.143.
19 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd., t.II, tr. 135.
20 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội nghị Bào vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững, Hà Nội, ngày 27/7/2018.
Đối với nhiệm vụ bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam, Đại hội XIII nêu rõ: “Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài.
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu”19.
Chủ trương, đường lối của Đảng nói chung và trong Văn kiện Đại hội XIII nói riêng về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn có tác dụng to lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, ngăn chặn tình trạng xuống cấp và lạm dụng, lợi dụng các di tích lịch sử, di sản văn hóa của dân tộc.
Đồng thời, chủ trương, đường lối đó đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đang tạo
sức mạnh nội sinh, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là ngành du lịch - “một ngành công nghiệp không khói” mang lại lợi nhuận kinh tế cao cho đất nước.
3. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị di sản
văn hóa ở nước ta hiện nay
Việt Nam là quốc gia có nhiều di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể rất đa dạng, phong phú. “Hiện trên cả nước có trên 4 vạn di tích đã được kiểm kê; trong đó có gần 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố; 3.463 di tích quốc gia; 95 di tích quốc gia đặc biệt; 08 Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới được UNESCO ghi danh. Theo thống kê, cả nước hiện có 61.669 di sản văn hóa phi vật thể của 63 tỉnh/thành được kiểm kê, trong đó, có 249 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và 12 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh.
Ngoài ra, theo Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO, tính đến nay, Việt Nam đã có 7 Di sản Tư liệu được UNESCO ghi danh (gồm 3 Di sản Tư liệu Thế giới và 4 Di sản Tư liệu Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương)”20. Đe đẩy mạnh hoạt động bảo tồn, phát huy các giá
NGỌ VĂN NHÂN
trị di sản văn hóa ở nước ta hiện nay, cần triển khai một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, đấy mạnh công tác phô biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa, về bảo tồn, phát huy các giá trị dỉ sản văn hóa cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân.
Phổ biến, giáo dục pháp luật di sản văn hóa, về bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa là hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch thông qua các phương pháp và bằng những hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người dân những tri thức, hiểu biết pháp luật về di sản văn hóa, về bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa; từ đó hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi pháp luật phù hợp với các yêu cầu của pháp luật về di sản văn hóa, về bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Mục đích của việc phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa, về bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân là cung cấp, trang bị cho các đối tượng này những thông tin, kiến thức, hiểu biết pháp luật về di sản văn hóa, về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong cuộc sống, lao động, sinh hoạt của cộng đồng.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa cần tập trung vào việc cung cấp, trang bị cho cán bộ, công chức, viên chức và
các tầng lóp nhân dân những tri thức, hiểu biết các nguyên tắc, quy định về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành xây dựng, ban hành; các văn bản pháp quy của các cấp chính quyền địa phương nhằm cụ thê hóa các nguyên tắc, quy định về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa sao cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể ở từng địa phương. Chẳng hạn, Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành khác.
Hai là, tăng cường vai trỏ, trách nhiệm của cấp ủy các cấp, các ngành trong bảo tồn, phát huy các giả trị di sản văn hóa.
Công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa trên phạm vi cả nước nói chung, ở từng địa phương nói riêng có đạt được chất lượng, hiệu quả cao hay không phụ thuộc chủ yếu vào sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng. Ngoài ra, cũng vẫn là sự lãnh đạo, song phương thức lãnh đạo khác nhau thì dẫn đến kết quả thực hiện bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa cũng khác nhau. Bởi vậy, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa hiện nay là một giải pháp hết sức quan trọng.
BẢO TÒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA...
Trên bình diện chung, trước hết, phải luôn đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, cấp ủy các cấp đối với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa. Đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng chính là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cấp ủy các cấp, các ngành thông qua chủ trương, đường lối về giữ gìn, phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống của dân tộc.
Trên cơ sở định hướng chung của Đảng, các cấp ủy địa phương, cơ sở phải định hướng các nội dung, chương trình, kế hoạch cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa của địa phương; cấp ủy phâi lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trong việc thanh tra, kiêm tra và xử lý những vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân có hành vi xâm hại đến các giá trị di sản văn hóa.
Tăng cường giám sát, kiểm tra việc triển khai thực hiện các chi thị, nghị quyết của Đảng, của câp ủy các câp, các ngành, các địa phương về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; chỉ đạo xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về di sản vãn hóa.
Việc tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp ủy các cấp, các ngành trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa hiện nay còn phải được thực hiện thông qua sự tiên phong, gương mẫu của các cán bộ, đàng viên và các Đảng bộ, chi bộ, tổ chức cơ sở đảng trong việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các nghị quyết
cua Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Định kỳ tổ chức sơ kết, đánh giá, chỉ ra những mặt được và chưa được trong quá trình bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; biểu dương, khen thưởng đối với những tập thể, cá nhân làm tốt;
nhắc nhở, phê bình, rút kinh nghiệm kịp thời đối với những hạn chế, yếu kém trong quá trình bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
Ba là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp chinh quyền địa phương trong báo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Đe nàng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa hiện nay, cần tập trung vào những nội dung cụ thể sau:
Tập trung đẩy mạnh công tác xây dựng, hệ thống hóa các văn bản pháp quy về chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn thực hiện pháp luật về bảo tổn, phát huy các giá trị di sản văn hóa nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về lĩnh vực này.
Các cấp chính quyền địa phương cần có cơ chế, chính sách ủng hộ, động viên các hình thức sinh hoạt vãn hóa mang tính chất tự nguyện giữ gìn, khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa do nhân dân địa phương tổ chức, như sưu tầm ngữ văn dân gian, dịch thuật cố văn, nghệ thuật diễn xướng dân gian, lễ hội truyền thống...;
phải đảm bảo và phát huy vai trò tích cực
NGỌ VĂN NHÂN
của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hội nghề nghiệp, như Hội Văn nghệ dân gian, Hội Di sản văn hóa... trong việc nâng cao nhận thức cho các thành viên, hội viên và đông đảo các tầng lóp nhân dân về các chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan đến công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, nhất là người đứng đầu, phải nêu cao tính tiên phong, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; chú trọng công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác văn hóa nói chung, quản lý, bảo tồn các di sản văn hóa nói riêng, trang bị cho họ các kỹ năng nghiệp vụ quản lý, bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Các cấp chính quyền địa phương phải thường xuyên tiến hành việc thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ quan chức năng để phát hiện những sai sót, lệch lạc, kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm nhằm bảo đảm cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa được thực hiện theo đúng những nguyên tắc, quy định của pháp luật. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật do chính cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện thì nhất thiết phải xử lý nghiêm minh, triệt để, đảm bảo
nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, dù đó là người dân bình thường hay cán bộ, công chức nhà nước; góp phần khẳng định tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
Bôn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc bảo tồn, phát huy các giả trị dì sản văn hỏa.
Đối với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần thực hiện tốt những biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện những quy định của pháp luật; chủ động tham gia phản biện xã hội, đóng góp ý kiến vào việc xây dựng, hoàn thiện các chính sách, pháp luật; đề xuất, kiến nghị với Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan, chính quyền địa phương về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi sai phạm, tiêu cực trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc, như Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cần tích cực động viên các thành viên, hội viên thuộc tổ chức của mình tham gia đóng góp ý kiến xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật;
tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, việc thực thi công vụ của cán
BAO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA...
bộ, công chức; phối hợp thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch công tác trọng tâm của các cấp chính quyền, trong đó có việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sán văn hóa.
Thứ hai, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên các cấp cần triển khai một cách đa dạng những biện pháp tuyên truyền, động viên đoàn viên, hội viên, quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, phản ánh, tố cáo, cung cấp thông tin về những hành vi vi phạm xảy ra trong quá trình bảo tồn, khai thác, phát huy các giá trị di sản văn hóa; giáo dục, vận động đoàn viên, hội viên cương quyết không tiếp tay cho những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Thứ ba, Mặt trận Tô quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên chủ động, tích cực tham gia giám sát việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; yêu cầu cơ quan, tồ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa những hành vi sai phạm, tiêu cực; yêu cầu các cơ quan chức năng xử lý nghiêm minh, kịp thời, dứt điểm những vi phạm trong bảo tồn, pháp huy các giá trị di sản văn hóa.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần làm tốt vai trò giám sát, kiểm tra việc thực hiện các chính sách về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa của địa phương, gôm các nguôn lực đâu tư tôn tạo, tu bô, phục dựng, bảo tồn các di tích lịch sử -
văn hóa, danh lam thắng cảnh, việc tổ chức những hoạt động lễ hội truyền thống, nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo, những hình thức diễn xướng dân gian..., việc thu, bảo quản và sử dụng kinh phí có được từ các nguồn thu phí, lệ phí, tiền công đức của khách thập phương thông qua các loại hình hoạt động kể trên.
Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp, nhất là tại các địa phương có di sản văn hóa, cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan thực hiện tốt việc tuyên truyền, động viên chị em phụ nữ, hội viên tích cực phát huy vai trò của phụ nữ trong công tác giữ gìn, bảo vệ các di sản văn hóa của địa phương; chủ động lồng ghép các nội dung về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trong các hội nghị, cuộc họp, sinh hoạt của Hội Phụ nữ.
Hội Nông dân các cấp, nhất là cấp xã, cần lồng ghép các nội dung thực hiện bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trong hoạt động của hội, vận động hội viên nông dân chủ động, tích cực tham gia các hoạt động bào tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa của địa phương; thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
Hội Cựu chiến binh các cấp tiếp tục phát huy phâm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong xây dựng và phát triển quê hương, quán triệt cho hội viên nâng cao nhận thức về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; tích cực tham gia các hoạt động tu bổ, tôn tạo, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm đảm bảo hiệu quả
NGỌ VĂN NHÂN
cao của việc phát huy vai trò của các giá trị di sàn văn hóa.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chi Minh triền khai lồng ghép các nội dung về bào tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trong các buổi sinh hoạt đoàn, tổ chức tốt các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao nhằm tạo không khí phấn khởi cho các đoàn viên thanh niên - những chủ thể có vai trò xung kích, hăng hái, nhiệt tình trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; qua đó, góp phần thiết thực, trực tiếp phát huy vai trò của các giá trị di sản văn hóa đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Năm là, nâng cao ỷ thức chủ động, tự giác, tích cực của các cộng đồng dân cư, các tầng lớp nhãn dán trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Đe nâng cao ỷ thức chủ động, tự giác, tích cực của các cộng đồng dân cư, các tầng lớp nhân dân trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa, bên cạnh việc tuyên truyền giá trị của các di sản văn hóa, thông tin về những mặt trái, những nguy cơ đe dọa hủy hoại di sản văn hóa, cộng đồng dân cư và các tầng lớp nhân dân còn phải chung tay bảo vệ, giữ gìn các giá trị di sản văn hóa, ứng xừ một cách văn minh với việc bảo vệ môi trường cảnh quan xung quanh các di sản văn hóa. Cộng đồng dân cư cần kịp thời phát hiện, phản ánh những việc chưa tốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; thực hiện lồng ghép tuyên truyền
bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa với việc xây dựng nông thôn mới;
tuyên truyền, giáo dục về di sản văn hóa và Luật Di sàn văn hóa; phát hiện, lên tiếng kịp thời với chính quyền, các cơ quan quản lý về văn hóa nhằm bảo vệ, đầu tư phục hồi những di tích văn hóa bị hư hỏng, xuống cấp hoặc bị mất hiện vật, cũng như những vụ việc xâm hại đến di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Cộng đồng dân cư địa phương cũng phải kiên quyết phê phán mạnh mẽ, ngăn chận những hiện tượng lợi dụng lễ hội văn hóa truyền thống để hoạt động mê tín, dị đoan, tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn đê du khách thập phương tham gia lễ hội văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng một cách lành mạnh, bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội trong các lề hội.
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản vô giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được hun đúc, kết tinh trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa là vấn đê nhât quán, xuyên suốt trong chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện tập trung ở Văn kiện Đại hội XIII. Trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện đồng bộ, mạnh mẽ nhiều giải pháp, như đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa; tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, đoàn thể nhân dân, cộng đồng dân cư và người dân trong bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. □