CƯỠNG CHÉ THI HÀNH PHÁN QUYÉT TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM
Đỗ Văn Đại*
* PGS.TS., Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 505.01 -2020.02?
Tóm tắt: ơ Việt Nam, phản quyết trọng tài cỏ hiệu lực từ thời điếm đượcban hành.
Tuy nhiên, việc tố chức cưỡng chế thi hànhphán quyết trọng tài bộc lộ mộtsố nhược điêm. Bài viêt tập trungphân tích những nhược điếm về điều kiện tố chức cưỡng chế cũng như về chủ thê tố chức cưỡng chế, kinh nghiệm nước ngoài và đưa ra đề xuất tương ứng để việc thực thi phán quyết trọngtài hiệu quảhơn.
Abstract: In VietNam, an arbitral award takes effect since its issuance. However, the enforcement of arbitral award has faced shortcomings. This article analyzes limitations in the enforcement qualifications and the organizers, international experiences and makes proposals to heighten the effectiveness in the enforcement of arbitral awards.
Dẩn nhập
Theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010 của Việt Nam (Luật TTTM), “phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài” (khoản 10Điều3).
Phán quyết trọng tài có thể là phán quyếtcủa trọng tài nướcngoài, tức “là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn” (khoản 12 Điều 3 Luật TTTM) và phán quyết của trọng tài Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tập trung vào phán quyết của trọng tài ViệtNam. Thực tế,phán quyết của trọng tài Việt Nam có thể là phán quyết của trọng tài quy chế, tức phán quyết được ban hành khi “giải quyết tranh chấp tại
một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó” (khoản 6 Điều 3 Luật TTTM) và phán quyết của trọng tài vụ việc, tức phán quyết được ban hành khi “giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thoả thuận” (khoản 7 Điều 3 Luật TTTM). Kinh nghiệm trọng tài tại Việt Nam cho thấy, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc rất hiếm và có đặc thù riêng, nên việc cường chế thi hành phán quyết trọngtài vụ việc sẽ không được nghiên cứu ở đây.
Theo Luật TTTM, “phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành” (khoản 5 Điều 61). Nội dung này cho thấy, phán quyết trọng tài ở Việt Nam có hiệulực thi hànhngay màkhông cần bất kỳ thủtụccông nhận và cho thi hành nào. Thực tế, rất nhiều phán quyết của trọng tài Việt Namđược tự nguyện thi hành và “Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài” (Điều 65 Luật TTTM). Tuy nhiên, cũng có những trường họp bên phải thi hành phán quyết trọng tài
CƯỠNG CHÉ THIHÀNH...
không tựnguyện thi hành, nên phải tổ chức cưỡng chế và pháp luật hiện hành đang có những bất cập cần hoàn thiện. Trong bối cảnh Chính phủ đã phê duyệt đề án cho phép sửa đổi pháp luật về phương thức giải quyết tranhchấp bằng trọng tài1, bài viếttập trung làm rõ hai vấn đềliên quan đến cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài ở Việt Nam là: Điều kiện để cưởng chế thi hành (1), và chủ thể thực thi việc cưỡng chế thi hành phán quyết của trọngtài (2).
1 Xem Quyết định số 1268/QĐ-TTg ngày 02/10/2019 của Thủ tướng Chính phủ {Phê duyệt Đệ án hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức trọng tài thương mại, hòa giải thương mại).
1. Điều kiện cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài ở Việt Nam
1.1. Trường hợp không có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
1.1.1. Thựctrạng pháp luật Việt Nam Theo Luật TTTM, “phánquyết trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự” (Điều 67). Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 (gọi chung là “Luật THADS”) đã quy định cụ thể về trình tự, thủtục thi hành phán quyếttrọng tài.
Theo khoản 5 Điều 61 Luật TTTM, phán quyết trọngtài “có hiệu lực kể từ ngày ban hành”, nhưng khoản l Điều 66 Luật TTTM lại quy định: “Hếtthời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơnyêu cầu cơ quanthihành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài”.
Với quy định trên, “bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thấm quyền thi hành phán quyết trọng tài” khi bên phải thi hành “không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài” và việc bên phải thi hành
“không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài” đang được hiểu là điều kiện để có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế thi hành phán quyết.
Trong thực tiễn thi hành phán quyết trọng tài, cơ quan thi hànhán dân sự thường xuyên yêu cầu bên được thi hành phán quyết trọng tài, khi nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài, phải nộp tài liệu chứng minh bên phải thi hành phán quyết không yêu cầu hủy phánquyết trọngtài theo quy định tạiĐiều69 của Luật TTTM.
Với yêu cầu này, bên được thi hành phán quyết trọng tài gặp khó khăn trong việc nộp tài liệu chứng minh bên phải thi hành không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Bởi lẽ, pháp luật hiện nay không có quy định về việc xác nhận khôngcó yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và do không có quy địnhrõràng về nội dung này, mộtsố Tòaán chậm xác nhận hoặc không xác nhận phán quyết trọng tài không bị yêu cầu hủy nên dẫn đến việc chậm hoặc không thể nộp đơn yêu cầu thi hành án đối với phán quyết trọng tài, mặc dù chúng ta đã thấy phán quyết trọngtài Việt Nam có hiệu lực từ thời điểm ban hành.
Để tạo điều kiện cho bên được thi hành phán quyết trọng tài cũng như để tháo gỡ phần nào khó khăn trên, sau khi nhận đơn yêu cầu của người được thi hành phán quyết trọng tài, có cơ quanthi hành án đôikhi đã chủ động gửi văn bản đề nghị Tòa án nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết xác nhận có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hay không. Trong thực tế, cũng có Tòa án cung
NHÀ NƯỚCVÀ PHÁPLUẬTSÓ 3/2022
Cấp cho cơquan thihành án xác nhận không có yêu cầu hủy nhưng hướng thực hiện đó không đượcghi nhận ởbấtkỳ quy định nào.
1.1.2. Kinh nghiệm nước ngoài
Thi hành phán quyết trọng tài là vấn đề cũng được quan tâm ở nước ngoài và kinh nghiệm của Thụy Sỳ rất đáng lưu tâm về chủ đề này. Theo khoản 1 và 2 Điều 193 Luật Tư pháp quốc tế Thụy Sỹ năm 1987:
“1. Bằng chi phí của mình, mỗi bên có thể gửi giữ phán quyết trọng tài tại Tòa án nơi của địa điểm trọng tài. 2. Trên cơ sở yêu cầu của một bên, thẩm phán nơi địa điểm trọng tài xác nhận rằng phán quyết trọng tài có hiệu lực thi hành”. Ở đây, chúng ta tập trung vào khoản 2 vì mục đích cùa khoản 1
“chỉ đon giản là phán quyết trọng tài được lưu giữ an toàn tạiTòa án”2.
2 Lise Bosman (chủ biên), ICCA International Handbook on Commercial Arbitration, ICCA &
Kluwer Law International 2019, Supplement No.
104, February 2019, tr.69.
3 Lise Bosman (chủ biên), sđd, tr.69.
4 Manuel Arroyo (chủ biên), Arbitration in Switzerland: The Practitioner's Guide, Kluwer Law International 2018, tr.395.
5 Manuel Arroyo (chủ biên), sđd, tr.395.
6 Roger Ph. Budin, La nouvelle loi suisse sur I'arbitrage international, Revue de 1'Arbitrage 1988, tr. 65.
Ở Thụy Sỹ, phán quyết trọng tài của Thụy Sỹ có hiệu lực thi hành mà không cần thù tục công nhận và cho thi hành giống như phán quyết trọng tài của Việt Nam hiện nay. Với khoản 2 nêu trên, bên được thi hành phán quyết trọng tài có thể (nhưng không bắt buộc) nhận được hồ trợ của Tòa án trongviệc xác nhậnhiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài. Ở đây, “Luật không quy định giới hạn thời gian để yêu cầu xác nhận phán quyết trọng tài có hiệu lực thi hành”3 và “mục đích của xác nhận hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài chỉ là để đơn giản hoá hay trợ giúp việc thi hành phán quyết bằng việc cung cấp chứng cứ rằng phán quyết trọng tài có hiệu lực thi
hành”4. Trong hệ thống này, “không cần phán quyết trọng tài đã đượcgửi giữtại Tòa án để được yêu cầu xác nhận hiệu lực của phán quyếttrọng tài. Tuy nhiên, Tòa án xác nhận sẽ yêu cầu cung cấp bản gốc hay bản sao có chứng thực của phán quyết để phục vụ cho việc xác nhận”5. Thụy Sỳ giải quyết vấn đề theo hướng yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không có hệ quả trì hoãn thi hành phán quyết, nhưng vì một số lý do đặc biệt, Tòa án có thểban hành quyết địnhtạmhoãn việc thi hành phán quyết. Với quy định như khoản 2 trên, “trên cơ sở yêu cầu, Tòa án xác định phánquyết trọng tài có hiệu lực thi hành sau khi kiểm tra ràng không có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đang được xử lý vàtrong trường hợp có yêu cầu hủy, việc hoãn thi hành chưa được Tòa áncho phép”6.
Nội dung trên cho thấy, Luật Tư pháp quốc tế Thụy Sỹ đã có quy định về thủ tục hỗ trợ thi hành phán quyết trọng tài, theo đó bên được thi hành có thể (nhưng không bắt buộc) yêu cầu Tòaánxác nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài, tức là xác nhận không có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đang được xử lý và trong trường hợp có yêu cầu hủyphán quyết trọng tài, việc hoãnthi hành phán quyết trọng tài chưa được Tòa án cho phép. Quy định trên tập trung vào trợ giúp thi hành phán quyết trọng tài quốc tế (tức tranh chấp có yếu tố nước ngoài), nhưng hướng tương tự cũng tồn tại đối với phán quyết trọng tài quốc nội của Thụy Sỳ. Bởi lẽ, “trường hợp các bên tiến hành trọng tài
CƯỠNGCHÉTHI HÀNH...
Thụy Sỹ trong nước, việc gửi giữ và xác nhận hiệulực của phánquyết trọng tài được điều chỉnh bởi khoản 2 và 3 Điều 386 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Quy định tại Điều 386 BLTTDS và Điều 193 Luật Tư pháp quốc tếlà tương tự nhau”7.
7 Manuel Arroyo (chủ biên), sđd, tr.392.
1.1.3. Hướnghoàn thiện pháp luật Việt Nam
Không yêucầu hủy phán quyết trọng tài đangđược cơ quan thi hành án dân sự hiểu như một điều kiện để yêu cầu cơ quan này tổ chức cường chế thi hành phán quyết trọng tài và yêu cầu này đang được hiểu là cần có xác nhận của Tòa án về thực trạng yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Đối chiếu các quy định của Luật TTTM, chúng ta thấy, Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành không có bất kỳ quy định nào yêu cầu phải có xác nhận của Tòa án thì mới đủ điều kiện để thi hành phán quyết trọng tài. Việc cơ quan thi hành án yêu cầu phảicó xácnhận củaTòa ánlà không có cơ sở pháp lý, đẩy bên yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài vào tình thế khó khăn do việc xin được xác nhận của Tòa án là một thủ tục chưa được quy định và làm mất thời gian trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài.
Thực tế, yêu cầu chứng minh một thứ không tồn tại là một phương án không thực sự thuyếtphục về mặt logic và việc cơ quan thi hành án yêu cầu bên được thi hành chứng minh rằng, bên phải thi hành không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài có điếm không thuyết phục vì đó là yêu cầu chứng minh một sự việc không tồn tại, trong khi đó yêu cầu này chưa được quy định trong bất kỳ văn bản nào hiện nay. Do đó, chúng ta nêntheophương án không buộc bên được
thi hành phán quyết trọng tài phải chứng minh bên phải thi hành phánquyết trọng tài
“không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài” để được thi hành phán quyết trọng tài; ở đây, nếu bên phải thi hành không muốn thi hành phán quyếttrọng tài đã có hiệu lực từ thời điểmban hành, chính họ là bêncần chủ động chứng minh điều kiện thi hành phán quyết trọng tài chưa hội đủ (theo pháp luật hiện hành, là có yêu cầu hủy phán quyết trọngtài).
Trong tương lai, để hỗ trợ cho việc thi hành phán quyết trọng tài của Việt Nam, chúng ta cũng nênhọc hỏi kinh nghiệm của Thụy Sỹ nêu trên để ghi nhận một thủ tục đơn giản (không bắt buộc mà hoàn toàn tự nguyện), theo đó một bên được quyền yêu cầu Tòaán xác nhận không có yêu cầu hủy phán quyếttrọng tài.
1.2. Trường hợp có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
1.2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam Khoản 1 Điều 66 Luật TTTM quy định:
“Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầuhủy phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyềnlàm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài”.
Với quy định trên, nếu có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69, bên phải thi hành không phải thi hành phán quyết trọng tài. Như vậy, hệ quả của việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là phán quyết trọng tài không phải thi hành trong giaiđoạn Tòa án xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài cho dù khoản 5 Điều 61 Luật TTTM đã khẳng định phán quyết trọng tài “có hiệu lực kể từ ngày ban hành”.
NHÀ NƯỚCVÀ PHẢP LUẬT SÔ 3/2022
Bên cạnh đó, khoản 10 Điều 71 Luật TTTM quy định: “Quyết định củaTòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành”. Điều đó có nghĩa là, khi Tòa án ra quyết định hủy quyết định trọng tài, bên phải thi hành sẽ không phải thi hành nữa, còn nếu Tòa án ra quyết định không hủy phán quyết trọng tài thì quyết định này có hiệu lực ngay và lúc đó bên được thi hành mới có thể yêu cầucưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài. Như vậy, từ khi có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đến khi Tòa án có quyết định về yêu cầu này, người phải thi hành phán quyết trọng tài không phải thi hành phán quyết trọngtài.
Tác giả cho rằng, quy định như trên sẽ thúc đấy bên thua kiện yêu cầu hủy phán quyết trọng tài nhằm kéo dài thời gian không phải thi hành phán quyết trọng tài.
Đồng thòi, thời gian Tòa án xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài càng lâu thì thời gian để bên thua kiện không phải thi hành phán quyết càng dài.
Đehiểu rõ hơn bất cập nêu trên, chúng ta nghiên cứu một trong rất nhiều vụ việc tương tự để minh họa. Đólà tranh chấpgiữa một công ty HànQuốc vàmộtdoanh nghiệp Việt Nam. Tranh chấp này đã được Hội đồng trọng tài của VIAC giải quyết với phán quyết ngày 04/1/2014 theo hướng doanh nghiệp Việt Nam phải trả cho doanh nghiệp Hàn Quốc hơn 65 tỷ đồng. Trên cơ sở quy định nêu trên, phán quyết trọng tài có hiệu lực kể từ ngày 04/1/2014. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam đã yêu cầu Tòa án hủyphán quyết trọng tài. Đến ngày 03/10/2014, Tòa án nhân dân thànhphố Hà Nội mới ra quyết định “không hủy phán quyết trọng tài”8. Ở đây, bên phải thi hành
8 Quyết định số 09/2014/QĐ-PQTT ngày 03/10/2014 cùa Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
phán quyết trọng tài yên tâm không phải thi hành phán quyếttrọng tài trong khoảng thời gian khoảng 10 tháng mà không bị coi là trái luật vì quy định trên trao cho họ
“quyền” không phải thi hành phán quyết trọngtài thôngqua cơ che yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Chính yếu tố này đã thúc đẩy bên thua kiện thường xuyên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, cho dù biết rằng phán quyết sẽ không bị hủy (như vụ việc nêu trên) và thực trạng này rất bất lợi cho bên thắng kiện vì họ chưa thể yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài khi có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Thực trạng này đồngthời cũng vô hiệu hoá khoản 5 Điều61 Luật TTTM, theo đó phán quyết trọng tài
“có hiệulựckể từngày ban hành”.
Trên cơ sở khung pháp lý được quy định tại Luật TTTM, kinh nghiệm ở VIAC cho thấy, thời gian trung binh để giải quyết một vụ tranh chấp là khoảng 4 tháng. Tuy nhiên, pháp luậttrọng tài cũng như cố gắng của các trungtâm trọng tài để cóphán quyết trọng tài sớm đã bị vô hiệu hoá với việc hoãn thi hành phán quyết trọng tài do có yêu cầu hủy: Vụ việc trên cho thấy, người được thi hành phán quyết trọng tài có thể phải đợi thêm một thời gian dài nữa như khoảng 10 tháng sau khi phán quyết trọng tài được ban hành (gấp hơn 2 lần thời gian giải quyết tranh chấp). Nhìn một cách tổng thể, quy định cho phép “hoãn” thi hành phán quyết trọng tài như nêu trên đi ngược lại với tinh thần của pháp luậttrọng tài, theo đó, Luật TTTM yêu cầu giải quyết nhanh tranh chấp. Ở đây, dù phán quyết nhanh mà thi hành phán quyết trọng tài chậm thì không khác gì có phán quyết chậm.
1.2.2. Kinh nghiệm nướcngoài
Việc trì hoãn thi hành phán quyết trọng tài xuấtphát từcơ chế xem xét yêu cầuhủy
CƯỠNGCHÊ THI HÀNH...
phán quyết trọng tài được quan tâm nhiều trong pháp luật nước ngoài. Một tài liệu khẳng định “phần lớn các hệ thống pháp luật không gắn việc hoãn thi hành phán quyết trọng tài khi có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”9. Thực ra, rất khó để khẳng định hướng không hoãn thi hành phán quyết trọng tài bị yêu cầu hủy là giải pháp trong đa số hay thiểu số các hệ thống pháp luật trên thế giới. Tuy nhiên, chúng ta có thê viện dẫn ở đây một số hệ thống theo hướng không để yêu cầu hủy trì hoãn thihành phán quyết trọngtài.
9 Jerome Ortscheidt, L'octroi et 1'arrêt de 1'exécution provisoire des sentences arbitrales en France, Revue
de 1'Arbitrage 2004, tr. 18.
'° Roger Ph. Budin, tldd, tr. 65.
11 Jean-Franẹois Poudret, Exception d’arbitrage et litispendance en droit suisse Comment départager le juge et I 'arbitre?, ASA Bulletin 2007, tr.240.
12 Manuel Arroyo (chủ biên), sđd, tr. 16.
13 Manuel Arroyo (chủ biên), sđd, tr.269.
14 Jean-Franẹois Poudret, Les recours au Tribunal federal suisse en matière d'arbitrage international (Commentaire de Tart. 77 LTF), ASA Bulletin 2007, tr.683.
15 Xem Nouvelle loi hollandaise sur Tarbitrage, ASA Bulletin 1986, tr. 234.
16 Jan c. Schultsz, Les nouvelles dispositions de la legislation néerlandaise en matière d'arbitrage, Revue de 1'Arbitrage 1988, tr. 215.
17 Gerard J. Meijer và Marike R. p. Paulsson, National Report for The Netherlands (2012 through 2014), in Lise Bosman (chủ biên), ICCA
Thực tế, khoản 1 Điều 190 Luật Tư pháp quốc tế của Thụy Sỳ quy định phán quyết trọng tài là “cuối cùng/chung thẩm” (“sentence definitive”) kể từ lúc nó được thông báo. Từ quy định này, các luật gia Thụy Sỹ theo hướng “trong trường hợp có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, không có việc trì hoãn nào được chấp nhận”10 11, “việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không có hệ quả trì hoãn thực thi phán quyết trọng tài”11 và “Tòa án tối cao Liên bang Thụy Sỹ không ghi nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài làm hoãn thi hành phán quyết”12. Điều đó có nghĩa là “phán quyết trọng tài tiếp tục cóhiệu lực thi hành mặc dù có yêu cầuhủy phán quyết trọng tài”13. Tuynhiên, ở Thụy Sỹ, thẩm phán vẫn có thể ra quyết định hoãn thi hành phán quyết trọng tài, nhưng phải có điềukiện. Theo mộttài liệu,
“trong lĩnh vực trọng tài quốc tế, việc hoãn
thi hành phán quyết trọng tài rất hiếm khi được chấp nhận. Người yêu cầu hoãn thi hành phán quyết trọng tài phải chứng minh được rằng, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài có nhiều cơ hội được chấp nhận và việc thi hành ngay phán quyết trọng tài có thể gây cho họ một thiệt hại không thể khắc phục được”14.
Pháp luật Hà Lan cũng quy định theo hướng tương tự. Ở hệ thống này, “thủ tục hủy phán quyết trọng tài không có hệ quả hoãn thi hành phán quyết trọngtài”15. Thực tế, khoản 1 Điều 1066 BLTTDS Hà Lan quy định: “Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không hoãn việc thực thi phán quyết trọng tài”. Với quy định vừa nêu, “yêu cầu hủy phán quyết trọng tài một phần hay toàn bộ không trì hoãn việc thi hành phán quyết”16. Ở đây, trong một số trường hợp, Tòa án có thể chấp nhận cho hoãn thihành phánquyết trọng tài, nhưng việc hoãn này là có điều kiện, tức khi có yêu cầu và người yêu cầu cung cấp biện pháp bảo đảm (khoản 2 và 5 Điều 1066 BLTTDS Hà Lan). Như vậy, trongpháp luật Hà Lan, “yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không có hệ quả đương nhiên là hoãn thi hành phán quyết trọng tài (khoản 1 Điều 1066 BLTTDS). Tuy nhiên, một bên có thể yêu cầu Tòa án, được yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, hoãn thủ tục thi hành (khoản 2 Điều 1066 BLTTDS)”17^
NHÀ NƯỚC VÀ PHẢP LUẬT SỐ 3/2022
Trước việc lạm dụng yêu cầu hủy phán quyết trọng tài để trì hoãn thi hành phán quyết trọng tài, có hệ thống phápluật đã sửa đổi quy định để chống lại thực trạng này.
Chẳng hạn, Pháp đã tiến hành sửa đổi pháp luật trọng tài vào năm 2011 thông qua một Nghị định trong đó có cải cách quan trọng vềhệ quả của yêu cầu hủy phánquyết trọng tài tới việc thi hành phán quyết trọng tài.
Thực tế, trước năm 2011, yêu cầu hủyphán quyết trọng tài kéo theo hệ quả là phán quyết này không phải thi hành trong giai đoạn xem xét hủy phán quyết trọng tài (tức người thua kiện được hoãn thi hành phán quyết trong giai đoạn này giống như pháp luật hiện hành của Việt Nam). Trước thực trạng này, có hai quan điểm trái ngược nhau. Cụ thể, “quanđiểmthứnhấtcho rằng, hệ quả hoãn thi hành khi có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là hợp lý. Bởi lẽ, ghi nhận hiệu lực thi hành tức thì có nguy cơ làm phát sinh thiệt hại đáng kể không thể khắc phục được trong trường hợp hủy phán quyết trọng tài. Quan điểm thứ hai theo hướng, cần thay đổi trật tự nguyên tắc. Ở quan điểm thứ hai này, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không có hệ quả trì hoãn việcthi hành phán quyết trọng tài”18.
International Handbook on Commercial Arbitration, ICC A & Kluwer Law International 2019, Supplement No. 78, March 2014, tr. 70.
18 Eric Loquin, Perspectives pour une reforme des voles de recours, Revue de rArbitrage 1992, tr.348.
19 Jacques Pellerin, La suppression de I'effet suspensif des recours contre les sentences internationales et étrangères en droit fran^ais, in Liber Amicorum Ahmed El Kosheri, Kluwer Law International 2015, tr. 145.
20 Thomas Clay, «Liberté, Ègalité, Efficacité»: La devise du nouveau droit fran^ais de I'arbitrage- Commentaire article par article (Premiere partie), Journal du droit international (Clunet) n° 2, Avril 2012, doctr. 4.
21 Philippe Leboulanger, Arrêt de I’execution d une sentence arbitrale Internationale et risque de lesion grave, Revue de 1'Arbitrage 2015, tr.l 14.
22 Xem Cahiers de 1'arbitrage, 01 juillet 2012 n° 3, tr.735.
23 Thomas Clay, tldd, doctr. 8.
24 Elie Kleiman và Julie Spinelli, La reforme du droit de I'arbitrage, sous le double signe de la lisibilité et de I'efficacite, Gazette du Palais, 27 janvier 2011 n° 27, tr.9.
Từ năm 2011, đối với trọng tài quốc nội (tức không có yếu tố nước ngoài), hoãn thi hành phán quyết do có yêu cầu hủy vẫn được duy trì tại Điều 1496 BLTTDS Pháp.
Ở hệ thống này, “đổi với phán quyết trọng tài quốc nội, văn bản mới vẫn giữ hệ quả hoãn thi hành khi có yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài”19. Tuynhiên, đối với trọng tài quốc tế, khoản 1 Điều 1526 BLTTDS Pháp theo hướng “yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không có hệ quả hoãn thi hành”. Với quy địnhnày, “yêu cầu hùy phán quyết trọng tài không còn hệ quả hoãn thi hành nữa, đây rõ ràng là một trong những cải cáchcủa Nghị định mới”20. Ởđây, mục đích của việc cải cách là “làm cho pháp luật Pháp hiệu quả hơn và làm cho Paris trở thành địa điểm trọng tài ngày càng hấp dẫn hơn”21. Theo các nhà bình luận, quy định mới “củng cố sự hiệu quả của phán quyết trọng tài”22 và “việc bỏ hệ quả hoãn thi hành này đương nhiên sẽ loại trừ một phần những yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, có nghĩa là tất cả nhữngyêu cầu không có mục đích nào khác là kiếm thêm thời gian”23, vẫn theo các nhà bình luận, giải pháp này
“đã được mong đợi từ lâu như một thay đổi quyết định đối với các khiếu nại nhằm đẩy nhanh việc thi hành các phán quyết trọng tài tạiPháp”24.
CƯỞNG CHÉ THI HÀNH...
Để cân đối quyền lợi giữa các bên, khoản 2 Điều 1526 BLTTDS Pháp còn quy định Tòa án “có thể dừng hay điều chỉnh việc thi hành phán quyết trọng tài, nếu việc thi hànhnày có thể gây tổn hại ngiêm trọng quyền lợi củamột trong các bên”. Nhưvậy, Pháp đã sửa đôi pháp luật giống Hà Lan hay Thụy Sỹ nêu trên. Ngày nay, yêu cầu hủy phánquyết trọngtài khôngcó hệ quả làm trì hoãn thi hành phán quyết trọng tài và việc trì hoãn này chỉ được ghi nhận bởi Tòa án khi có yêu cầu và khi đáp ứng một số điều kiện nhất định. Nói cách khác, Pháp đã thay đổi cách tiếp cận, theo đó nguyên tắc hoãn thi hành phán quyết trọng tài trước đây nay trở thành nguyên tắc không hoãn thi hành phán quyết trọng tài khi có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài (nguyên tắc này có ngoại lệ là khi Tòa án được yêu cầuxem xét hoãn và Tòa án xét thấy một số điều kiện được đápứng).
1.2.3. Hỉỉớng hoàn thiện pháp luật Việt Nam
Việc pháp luật của chúng ta theo hướng yêu cầu hủy phán quyết trọng tài kéo theo hệ quả đưong nhiên là bên yêu cầu hủy phán quyết không phải thi hành phán quyết trọng tài cho đến khi Tòa án ra quyết định không hủy phán quyếttrọng tài.
Pháp luật nước ngoài có giải pháp để chống lại những yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với mục đích trì hoãn thi hành phán quyết trọng tài và sự thay đổi trong pháp luật của Pháp thời gian gần đầy cho thấy điều đó. Ở đây, sự thay đổi pháp luật xuất phát từ nhận thức rằng “việc hoãn thi hành do có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không phù hợp nữa; không thực sự bảo vệ
quyền lợi của các bên, nó đã mở ra khả năng làm chậm thi hành phán quyết trọng tài và tạo ra một công cụ để bên phải thi hành gây áp lực chobênđược thi hành”25.
25 Jacques Pellerin, tlđd, tr. 145.
Thiết nghĩ, chúng ta cũng nên học hỏi kinh nghiêm trên để loại bỏ những yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với mục đích làm chậm việc thi hành phán quyết. Theo tác giả, chúng ta nên thêm quy định, theo đó, việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không làm trì hoãn thi hành phán quyết trọng tài, ngoại trừ Tòa án quyết định khác khi được yêu cầu và khi bên yêu cầu hoãn cung cấp biện pháp bảo đảm. Neu làm được như vậy, chúng ta sẽ tăng hiệu quả của phán quyết trọng tài và tạo điều kiện cho trọng tài phát triển, tránh tìnhtrạng phán quyết trọng tài bị yêu cầu hủy chỉ với mục đích làm trì hoãn việc thihành.
2. Cơ quan cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài ờ Việt Nam
2.1. Cơ quan thi hành án có thẩm quyền đối với phản quyết trọng tài
2.1.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam Luật THADS hiện nay xác định thẩm quyền của cơ quan thi hành án chủ yếu căn cứ vào địa điểm của Tòa án ban hành bản án, quyết định có nhu cầu thi hành. Cụ thể, theo Luật THADS hiện hành, “cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có thẩmquyền thi hành các bản án, quyết định sau đây: Bản án,quyết định sơthẩm của Tòaán nhân dân quận, huyện,thị xã, thành phố thuộctỉnh và tương đương nơi cơ quanthi hành án dân sự có trụ sở” (điểm a khoản 1 Điều 35) và “cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau
NHÀ NƯỚC VÀPHẢP LUẬTSÓ 3/2022
đây: Bản án, quyếtđịnh sơ thẩm củaTòaán nhân dân tinh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cùng địa bàn” (điểm a khoản 2 Điều 35).
Luật TTTM cũng quy định tương tự như Luật THADS khi xác định cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 8 Luật TTTM, “cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quanthi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phản quyết”. Ở đây, tinh thần của Luật TTTM và Luật THADS cơ bản là giống nhau vì đều tập trung vào nơi Tòa án/Trọng tài ban hành bản án, quyết định/phán quyết trọng tài để xác định cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Việc Luật THADS căn cứ vào nơi Tòa án có bảnán/quyết định để xác định cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành bản án/quyết định của Tòa án là một phương án chấp nhận được. Bởi lẽ, Tòa án có thẩm quyền thông thường làTòa án nơi cư trú/trụ sở của bị đơn26 hay nơi có bất động sản27 nên đây cũng thường là nơi người phải thi hành án (thường là bị đơn) có điều kiện/tài sản phục vụ cho việc thi hành án. Thực tế, có thể xảy ra trường hợp nơi Tòa án ban hành bàn án/quyết định không là nơi người phải thi hành án có tài sản hay thuận lợi để thi hành nhưng lúc này, Luật THADS đã có
26 Điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 quy định: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, to chức có thấm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”.
27 Điểm C khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đối tượng ưanh chấp là bất động sản thì chi Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”.
28 Khoản 1 Điều 11 Luật TTTM năm 2010 quy định:
“Các bên có quyền thoả thuận địa điểm giãi quyết tranh châp; trường hợp không có thoả thuận thi Hội đồng trọng tài quyết định”.
quy định theo đó, “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở”(khoản 1 Điều 55).
Nội dung trên cho thấy, việc Luật THADS căn cứ vào nơi Tòa án có bản án/quyết định để xác định cơ quan thi hành án có thẩm quyền là phương án chấp nhận được vì thông thường đó cũng là nơi thuận tiện cho việc thi hành án (do người phải thi hành án có cư trú/trụ sở, tài sản ở đó). Tuy nhiên, vận dụng tư duy này vào lĩnh vực trọng tài như khoản 2 Điều 8 Luật TTTM nêutrênlại có nhượcđiểm. Bởi lẽ, “nơi Hội đồng trọng tài ra phánquyết” thường không phải là nơi bị đơn có cư trú/trụ sở hay tài sản. Thực tế, xác định địa điểm giải quyết tranh chấp tại trọng tài không theo triết lý của xác định địa điểm giải quyết tranh chấp tại Tòa án: Địa điểm này của Tòa án chù yếu do văn bản quy định và tập trung vào nơi cư trú/trụ sở hay nơi có tài sản như chúng ta đã thấy, còn địa điểm giải quyết tranh chấp của trọng tài (cũng là nơi ban hành phán quyết trọng tài) lệ thuộc vào ý chí của cácbênhay của Hội đồngtrọng tài28 và ý chí này lại không tập trung vào nơi bị đơn có cư trú/trụ sở hay có tài sản. Thực tế, địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cũng là địa điểm Hội đồng trọng tài ban hành phán quyết trọng tài hiện nay tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp.
Hồ Chí Minh. Trong khoảng 15 năm giải quyết tranh chấp tại VIAC, tác giả thống kê việc giải quyết và ban hành phán quyết
CƯỠNGCHÉTHIHÀNH...
trọng tài chỉ ở Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh;
trong khi đó, thường xuyên người phải thi lành phán quyết trọng tài không có cư trú/trụ sở hay tài sản ở Hà Nội hay Tp. Hồ Chí Minh, mà ở nhiều tỉnh/thành phố khác như BìnhDương, Long An, Cà Mau...
Với thực trạng nêu trên, cơ quan thi hành phán quyết trọng tài hiện nay theo Luật TTTM thường là Cục thi hành án dân sự Hà Nội hay Tp. Hồ Chí Minh, nhưng nơi này lại thường xuyên không là nơi người phải thi hành phán quyết có cư trú/trụ sở hay tài sản. Vì vậy, cơ quan thi hành án ở hai khu vực vừa nêu thường phải uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi khác thực hiện.
Từ đỏ, việc thi hành phán quyết trọngtài trở thành kém hiệu quả và phát sinh nhiều khó khăn (như cơ quan nào yêu cầu trọng tài giải thích phán quyết), cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật TTTM để tổ chức cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài và cơ quan thực sự áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài thườnglà khác nhau. Chẳng hạn, cơ quan có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài củaVIAC thường làCục thi hành án dân sự Hà Nội hay Tp. Hồ Chí Minh, nhưng cơ quan thực sự tiến hành cường chế thi hành phán quyết lại thường lại là Cục thi hànhán tỉnh/thành phố khácnhư Khánh Hoà trên cơ sở uỷ thác.
2.1.2. Kinh nghiệm nước ngoài
Trên thế giới có hệ thống pháp luật không theo hướng xác định cơ quan có thẩm quyền tiến hành thi hành phán quyết trọng tài căn cứ vào nơi trọng tài ban hành phán quyết như Việt Nam, mà theo hướng xác định, thẩm quyền này trên cơ sở nơi cư trú/trụ sở hay tài sản để thi hành của bên phải thi hành phán quyết trọng tài.
Chẳng hạn, ở Romania khoản 1 Điều 651 BLTTDS xác định cơ quan có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài căn cứ vào “nơi người phải thi hành có cư trú hay trụ sở”29. Ở hệ thống này, tiêu chí nơi trọng tài ban hành phán quyết không được sử dụng. Ở Trung Quốc, tiêu chí nơi trọng tài ban hành phán quyết cũng không được sử dụng để xác định cơ quan tổ chức thi hành phán quyết trọng tài và Trung Quốc đi xa hơn Romania trong tạo điều kiện cho việc thi hành phán quyết trọng tài bằng cách ghi nhận thêm cơ quan có thẩm quyền ở nơi thuận lợi cho việc thi hành phán quyết. Bởi lẽ, ở Trung Quốc, yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài được gửi đến cơ quan tổ chức thi hành án “nơi bên thua kiện có cư trú/trụ sở hay có tài sản”30. Điều đó có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài, không là cơ quan nơi Hội đồng trọng tài ban hành phán quyết trọng tài, mà lànơi bên phải thi hành có cư trú/trụ sở hay là nơi họ có tài sản để thi hành phán quyết trọng tài.
29 Crenguta Leaua và Flavius-Antoniu Baias (chủ biên), Arbitration in Romania: A Practitioner's Guide, Kluwer Law International 2016, tr.267.
30 Li Hu, Enforcement of the International Commercial Arbitration Award in the People's Republic of China, Journal of International Arbitration 1999, tr.l 1.
31 Xem ICCA Reports No. 5, Compendium of Chinese Commercial Arbitration Laws, ICCA
Thực tế, tại Điều 29 Hướng dẫn năm 2006 của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc, nêu rằng: “Yêu cầu của một bên để thi hành một phán quyết trọng tài được gửi đến Tòa án nhân dân trung cấp nơi mà bên phảithi hành phánquyếttrọng tài có nơi cư trủ/trụ sở hay nơi có tài sản để thi hành phán quyết trọng tài”31. Ở đây, nơi trọng tài ban
NHÀNƯỚCVÀ PHẢPLUẬTSÓ3/2022
hành phán quyết không được sử dụng và không chỉ Tòa án nơi bên phải thi hành phán quyết trọngtài có cư trú/trụsở có thẩm quyền, mà Tòa án nơi bên này có tài sản cũng có thể có thẩm quyền để tổ chức thi hành phán quyết trọng tài.
2.1.3. Hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam
Nội dung trên cho thấy, tiêu chí xác định cơ quan thi hành đối với bản án/quyết định của Tòa án tương đồng với tiêu chí xác định cơ quan thi hành đối với phán quyết trọng tài. Nhìn qua, sự tương đồng này là thuyết phục, nhưng thực trạng nêu trên cho thấy quy định như vậy có bất cập, cơ quan được Luật trao thẩm quyền cưỡng chế thi hành phán quyết thường lại không là cơ quan thực sự tiến hành cưỡng chế thi hành phán quyết do nơi cơ quan thi hành án có thẩm quyền theo Luật TTTM không là nơi người phải thi hành phán quyếttrọng tài có cư trú/trụ sở hay có tài sản nên thường xuyên phải khai thác cơ chế uỷ thác.
Có phán quyết trọng tài chưa đủ để bảo vệ bên thắng kiện và việc cưỡng chế thi hành phán quyết cũng có vai trò quan trọng đối với họ. Đe cải thiện việc cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài đang có những rào cản nhất định về mặt pháp lý như nêu trên, chúng ta nêncó sự thay đổi trong việc xác định cơ quan có thẩm quyền tổ chứcthi hành phán quyết trọngtàivà sựthayđổi này nên theo hướng, xác định cơ quan thi hành án có thấmquyền căn cứ vào nơi người phải thi hành phán quyết có điều kiện thi hành (nhưnơi cư trủ/trụ sở hay có tài sản) thay vì
“nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết” như hiện nay. Hướng như vừa nêu đã có tiền lệ
trong lĩnh vực trọng tài ở nước ta là tại khoản 2 Điều 8 Luật TTTM, theo đó, “cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài là cơ quan thi hành án dân sựtỉnh, thànhphốtrực thuộc trung ương /207' biện pháp khẩn cấp tạm thờicần được áp dụng".
Từ phân tích trên, chúng ta nên sửa khoản 1 Điều 8 Luật TTTM thành “cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươngnơiphản quyết trọng tài cần được thi hành/bênphải thi hành có nơi cư trú/trụ sở hay có tài sản đế thỉ hànhphán quyết trọng tài". Đoạn in nghiêng là nội dung được đề xuất sửa đổi và nơi này có thể là nơi người phải thi hành án có cư trú/trụ sở hay tài sản.
2.2. Khả năng cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài của Thừa phát lại
2.2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam Tuỳ từng hệ thống pháp luật, việc thi hành phán quyếttrọng tài cũng như bản án, quyết định của Tòa án có thể được trao cho Tòa án, cơ quan thi hành án độc lập với Tòa án hay Thừa phát lại. Ở Việt Nam, bên cạnh cơ quan thi hành án dân sự (cơ quan nhà nước) như nêu trên, pháp luật hiện hành còn ghi nhận vai trò của Thừa phátlại trong việc thi hành án dân sự. Cụ thể, theo Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, “Thừa phátlại là người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án dân sự, tô chức thi hành án dãn sự theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan” (khoản 1 Điều 2). Nội dung vừa nêu cho thấy hiện nay chúng ta có hai đối
Reports Series, Volume 5, ICCA & Kluwer Law International 2019, tr. 159.
CƯỠNG CHÉ THI HÀNH...
tượng được trao quyền tổ chức việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án là cơ quan thi hành án dân sự và Thừa phát lại.
Tuy nhiên, Điều 51 của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP không có quy định về khả năng Thừa phát lại được thi hành phán quyết trọng tài. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 51 nêu trên: “Thừa phát lại được quyền tổ chức thi hànhántheo yêu cầu của đươngsự đối với các bản án, quyết định sau đây: a) Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực phápluật của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh vàtương đương (sau đây gọi là Tòa án nhân dân cấp huyện);
bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở; b) Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm, chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừaphát lại đặt trụsở;
c) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tinh nơi Vănphòng Thừa phát lại đặt trụ sở”. Trong nội dung quy định vừa nêu về quyền tổchức thi hành án của Thừaphátlại, chúng ta không thấy đề cập tới phán quyết trọng tài.
Do đó, theo quy định hiện hành, chỉ có cơ quan thi hành án dân sự mới có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài và Thừa phát lại không có vai trò trong tổ chức thi hành phán quyết trọng tài.
2.2.2. Kinh nghiệm nước ngoài
Thực tế, Thừa phát lại là một thiết chế đã được ghi nhận ở Pháp và đã tồn tại ở Việt NamởthờikỳPháp thuộc32.
32 Xem Nguyền Đức Chính (chủ biên), Tổ chức thừa phát lại, Nxb. Tư pháp, 2006, tr.5.
33 Nathalie Casal, Fasc. 450 : Agents de 1'exécution - Attributions, JurisClasseur Votes d'execution, 2018, phần so 58.
Ở Pháp hiện nay, khi phán quyết trọng tài có hiệu lực thi hành, Thừa phát lại Pháp có thẩm quyền trong việctổ chức thi hành phán quyết trọng tài bên cạnh khả năng tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án33.
Nói cách khác, theo pháp luật Pháp, Thừa phát lại không chỉ có thẩm quyền tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án, mà còn có thẩm quyền để tổ chức thi hành phán quyết trọng tài.
2.2.3. Hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam
Trong tương lai, chúng tacũng nên thừa nhậnthêm khả năng triển khai việc thi hành phán quyết trọng tài cho Thừa phát lại bên cạnh việc trao quyền này cho cơ quan thi hành án dân sự. Việc ghi nhận thêm vai trò của Thừa phát lại trong việc tổ chức thi hành phán quyết trọng tài sẽ tạo ra sự linh hoạt trong việc thực thi phán quyết trọng tài, tạo ra sự bình đẳng giữa phán quyết trọng tài và quyết định của Tòa án đê từ đó tạo thêm niềm tin cho người quan tâm tới phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Với hướng như vừa nêu, người được thi hành phán quyết trọng tàicó quyền lựa chọn cơ quan thi hành án dân sự hay Thừa phát lại tuỳ vào hiệu quả mà hai đối tượng này có thểmang lại chongườiđượcthi hành.