• Tidak ada hasil yang ditemukan

CẠNH TRANH LIÊN QUAN ĐÉN QUYÊN SỞ HƯU TRÍ TUỆ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "CẠNH TRANH LIÊN QUAN ĐÉN QUYÊN SỞ HƯU TRÍ TUỆ"

Copied!
12
0
0

Teks penuh

(1)

sức MẠNH THỊ TRƯỜNG ĐÁNG KẾ VÀ HÀNH VI HẠN CHÉ CẠNH TRANH LIÊN QUAN ĐÉN QUYÊN SỞ HƯU TRÍ TUỆ

Bùi Thị Hằng Nga* *

_____

* TS., Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

1 Khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định:

“Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm:

c) Hạn chế sàn xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng”.

Tóm tắt: Bài viết phản tích về sức mạnh thị trường đáng kể và hành vihạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu tri tuệ. Qua đó, bàiviếtchỉ ranhững bấtcập trong việc đánh giá tính viphạm pháp luật cạnh tranh của một hành vi/thỏa thuận cụ thểliên quan đếnquyềnsở hữu trí tuệ trongpháp luật ViệtNam và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.

Abstract: The article analyzes substantial market power and competition restrictions relating to intellectual property rights. Thereby, itpoints out shortcomings in the legal assessment ofcertain acts/agreements in light of Viet Nam’s competition laws andintellectual propertyrightsand makes proposalsfor legal improvement.

1. Đặt vấn đề

Sức mạnh thị trường đáng kể (significant/substantial market power) là một thuật ngữmới được quy định tại khoản Ị 1 Điều 24 Luật Cạnh tranh năm 2018:

“Doanh nghiệp được coi là cỏ vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh thị trường đáng kế hoặc cỏ thị phần từ Ỉ0°/o trở lên trênthị trường liên quan”.

Do đó, việc xác định một chủ thể có đang sở hữu sức mạnh thị trường đáng kể hay không là căn cứ quantrọngđểđánh giá xem hành vi của chủ thể đó có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không. Cụ thể, một chủ thể thực hiện các hành vi được liệt kê tại Điều 27 của Luật Cạnh tranh năm 2018 sẽ bị xem là đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nếu bản thân doanh nghiệp đó có sức mạnh thị trường đáng kể.

Có nhiều yếu tố để xem xét, đánh giá xem một doanh nghiệp có đang sở hữu sức mạnh thị trường đáng kể hay không, trong đó bao gồm cả quyền sở hữu, quyền sử đụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, một doanh nghiệp nếu nắm giữ các sáng chế cơ bàn hay các quyền sở hữu trí tuệ

được xem là điều kiện, cơ sở thiết yếu, cần thiết để gianhập thịtrườngđối với một hoạt động sản xuất kinh doanh thì được xem là có sức mạnh thịtrường đáng kể.

Cách tiếp cận này sẽ không khuyến khích được hoạt động đầu tư, sáng tạo tại Việt Nam. Bởi lẽ, khi một chủ thể bỏ vốn đầu tư để cóđược những kết quả nghiêncứu nổi bật, tạo lợi thế cạnh tranh trong quá trình gia nhập thị trường và phát triển kinh doanh, sản xuấtthì có thể bị xem là đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh khi thực thi quyền của mình trên thực tế.

Trong trường hợp này, với quy định hiện hành, việc chủ thể nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ cơ bản thực hiện hành vitừ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ của mình cho chủ thể khác là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh1. Hay nói cách khác, hành vi từ chối chuyểngiao quyền sờhữu trí tuệ sẽ bị xem là hành vi vi phạm mặc nhiên theo quy định

(2)

NHÀ NƯỚCPHẢPLUẬTSÔ 3/2022

củapháp luật cạnh tranh. Rõ ràng quy định như vậy là bất hợp lý, không xem xét đến yểu tố độc quyền hợp pháp của quyền sở hữutrítuệ.

2. Sức mạnh thị trường đáng kể dựa trên quyền sở hữu trí tuệ

Mặc dù là một yếu tố quan trọng để đánh giá tính bất hợp pháp của hành vi lạm dụng vị trí thốnglĩnh thịtrường của chủ thể theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018, tuy nhiên, ngay trong quy định của luật cũng như các văn bản hướng dẫn, các chuyên gia không đưara một định nghĩa rõ ràng về sứcmạnh thị trường đáng kể mà chỉ đưa ra các tiêu chí cần thiết nhằm xác định sứcmạnh thị trường đáng kể.

Theo đó, sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp được xác định dựa vào một số yếu tố sau đây (khoản 1 Điều 26 Luật Cạnh tranh năm 2018):

... đ) Lợi thế về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật;

e) Quyền sở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng;

g) Quyền sở hữu, quyền sử dụng đoi tượng quyền sở hữu trí tuệ;...

Các yếu tố trên được hướng dẫn cụ thể tại Điều 12 Nghị định số 35/2020/NĐ-CP Quyđịnhchi tiết một số điều của Luật Cạnh tranhnhưsau:

... đ) Lợi thế về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật của doanh nghiệp, nhỏm doanh nghiệp được đánhgiả căn cứ vào ưu thế về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật của doanh nghiệp, nhỏm doanh nghiệp đang sở hữu hoặc sử dimg cho sản xuất, kinh doanh so với đôi thủ cạnh tranh;

e) Quyền sở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng được đảnh giá để xác định ưu thế của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp so với đôi thủ cạnh tranh căn cứ vào mức

độ thiết yếu, khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịchvụ;

g) Quyền sở hữu, quyền sử dụng đổi tượng quyền sở hữu trí tuệ được đảnh giả đế xácđịnh ưu thếcủa doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh căn cứ vào mức độ thiết yếu, khả năng tiếp cận đối tượng quyền sờ hữu trí tuệ của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanhhàng hóa, dịch vụ;...

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nội hàm của thuật ngữ sứcmạnh thị trường đáng kể. Tại Hoa Kỳ, theo quan điểm của Tòa án tối cao, sức mạnh thị trường đáng kể hay vị trí thống lĩnh là khả năng doanh nghiệp có sức mạnh để có thể tăngvà duy trì mức giá sản phẩm hoặc dịch vụ của họ cao hon giá được xác định trong điều kiện thị trường cạnh tranh thông thường2. Tại Anh, Cơ quan thương mại công bằng (Office of Fair Trading - OFT) xác định: Một chủ thể kinh doanh trên thị trường không thể đạt được vị trí thống lĩnh trừ khi nó nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể3. Đồng thời theo cơ quan này, sức mạnh thị trường đáng kể haythống lĩnh thị trường là khả năng có thể thu lợi nhuận từ việc tăng và duy trì mức giácao hơn so với mức giá trên thị trường cạnh tranh hoặc từ việc hạn chế sản lượng hoặc chất lượng dưới mức của thị trường cạnh tranh. Còn theo Tổ chức Họp tác và phát triển kinh tế (OECD), sức mạnh thị trường đáng kể hay

2 Thomas G. Krattenmaker, Robert H. Lande, Steven c. Salop, Monopoly power and market power in Antitrust Law, Georgetown Law Journal, Vol. 76, No. p. 241, 1987.

3 Office of Fair Trading, Market definition­

understanding Competition law, https://assets.publis hing.service.gov.uk/govemment/uploads/system/upl oads/attachment_data/file/284423/oft403 .pdf, truy cập ngày 03/12/2021.

(3)

sứcMẠNHTHỊTRƯỜNG...

vị trí thống lĩnh là khả năng của chủ thể kinh doanh có thể tăng và duy trì giá cao hom giá được xác định trong điều kiện thị trường cạnh tranh thông thường hoặc từ việc kiểm soát sản lượng hay loại trừ cạnh :ranh đểtănggiá4.

4 Jeremy West, Identifying dominance and its abuse, https://www.oecd.org/competition/abuse/35911017.p df, !truy cập ngày 02/9/2021.

5 Phùng Văn Thành, Sức mạnh thị trường đáng kể từ lý thuyết kinh tế đến quy định của pháp luật cạnh tranh, Bàn tin Cạnh tranh và người tiêu dùng, số 36/2012, tr. 22.

6 Phùng Văn Thành, Sức mạnh thị trường đáng kế từ lý thuyết kinh tế đến quy định của pháp luật cạnh tranh, Bản tin Cạnh tranh và người tiêu dùng, số 36/2012, tr. 23.

Nói tóm lại, sức mạnh thị trường đáng Ỉể thường được hiểu làsức mạnh thị trường

một mức độ mà doanh nghiệp nắm giữ nó hông phải, hoặc ít phải đối mặt với áp lực éạnh tranh từ các đối thủ khác trên thị trường, hoặc ít chịu sức ép cho việc gia phậpthị trường từ các đối thủtiềm năng. Do đó, doanhnghiệp có thểhoạt động mộtcách độc lập, không chịu ràng buộc từ đối thủ cạnh tranh cũng như từ phía người tiêu cùng. Qua đó, giúp doanh nghiệp có khả năng giatăng lợi nhuận từ việc tăng giá và duy trì mức giá cao hom giá đã được xác định trong thị trường cạnh tranh hoặc chất lượng dướimức của thị trường cạnh tranh5.

Hiện nay, theo quan điểm của các nhà Ighiêncứu, đề hiểumột cách đầy đủ thì sức tiạnh thị trường đáng kể nên được xem xét dướihai khía cạnh:

(ỉ)Sức mạnh về giả: Đó là khả năng doanh nghiệp có khả năng tăng và duy trì mức giá cao hom giáthị trường hoặc hạn chế sản lượng, chất lượng thấp hom giá thị trường nhằm gia tăng lợi nhuận đạt được.

Hay nói cách khác, trong trường hợp này, doanh nghiệp có sứcmạnh thị trườngcó khả năng dễ dàng “trục lợi”khách hàng dựa trên sực mạnh, ưuthế của mình.

n

(2 )Sức mạnh loại trừ: Là sức mạnh mà thông qua đó, doanh nghiệp có khả năng vượt trội trên thị trường để có thể ngăn cản, kìm hãm; thậm chí loại trừ đối thủ cạnh tranh gia nhập vào thị trường, tác động đến cấu trúc cạnh tranh hiện có trên thị trường, từ đócó thể tăng giá.

Mục đích của pháp luật cạnh tranh là loại bỏcác hành vi hạn chế cạnh tranh nhằm xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Do đó, việc các chủ thể lạm dụng sức mạnh thị trường của mình để thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh cần được ngăn cấm nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Vậy nên, việc xác định liệu một doanh nghiệp cụ thể có đang nắm giữ sức mạnh thị trường hay không là một việc làmquan trọng nhằmđánh giá tính bất hợp pháp của các hành vi do chính doanh nghiệp đó thực hiện. Sức mạnh thị trường trướchết được biểu hiện thông qua thị phần, là yếu tố quan trọng mà cơ quan quản lý cạnh tranh cần xác định nhằm đánh giá sức mạnhthịtrường đáng kể hoặc xác địnhvị trí thốnglĩnh của doanh nghiệp6. Hay nói cách khác, việc nắm giữ quyền sở hữu, quyền sử dụng đói tượng quyền sở hữu trí tuệ không thể là căn cứduynhấtđể xácđịnh sứcmạnh thị trường của chủ thể ngay cả trongtrường hợp quyền sở hữu trí tuệ đó là thiết yếu và khó có khả năng tiếp cận. Vì vậy,phần lạm dụng sáng chế trong Đạo luật Sáng chế (1988) của HoaKỳ sau đó đã bổ sung thêm quy định tạiĐiều271, cụ thể:

Điều 271(d)yêu cầu bị đơn phải chứng minh rằng người được cấp bằng sáng chế cỏ sức mạnh thị trường thay mặc nhiên

(4)

NHÀ NƯỞC PHÁP LUẬT 3/2022

giả định rằng bằng sáng chế trao cho chủ sởhữusứcmạnh thịtrường như trước đổ1.

7 Thomas F. Cotter (2007), Misuse, Scholarship Repository University of Minnesota Law School, tr.

911.

8 4.V.F. Intellectual Property Issues, p. 92.

9 Xem chú thích 1.

10 Mức thị phần được xác định dựa trên quy định tại khoản 3 Điều 24 Luật Cạnh tranh năm 2018.

Thêm vào đó, hướng dẫn về Sở hữu trí tuệ của Bộ Tư pháp và ủy ban Thương mại Liênbang Hoa Kỳ đã tuyênbố rằng, tài sản trí tuệchỉlà một hìnhthức sở hữu và chủ thê sở hữu các sáng chế có sức mạnh thị trường hoặc độc quyền chỉkhi họ kiểm soát một thị phần đángkểtrên thị trường liên quan6.

Do vậy, nếu mặc nhiên cho rằng, việc sở hữu quyền sở hữu trí tuệ thiết yếu đã khiến cho chủ sở hữucóđược sức mạnh thị trường đáng kể, mà không cần quan tâmđến yếu tố thị phần là quy định cứng nhắc, không phù hợp. Bởi lẽ, với quy định này, chỉ cần chủ thể đó từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ của mình cho chủ thể khác thì sẽ mặc nhiên bị xem là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh7 89 10. Điều này sẽ tác động tiêucực đến hoạt độngđầu tưsáng tạo tại Việt Nam. Chúng ta cần phải thừa nhận rằng, việc nắm giữ đối tượng quyền sờ hữu trí tuệ và tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp chứ không mặc nhiên tạo nên sức mạnh thị trường đáng kể.

Vì lí do đó, theo tác giả, Luật Cạnh tranh năm 2018 và các văn bản hướng dẫn nhất thiết phải quy định rằng, yếu tố thị phần là một tiêu chí quan trọng, bắt buộc phải có bên cạnh sự cần thiết, quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ khi xác định sức mạnh thị trường đáng kể của chủ thể nắm giữ nó. Theo đó, chỉ trường hợp doanh nghiệp nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ cần thiếtcó mức thịphần ít nhất từ 10% trởlên

trên thị trường liền quanỉ(i thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh được liệt kê tại Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018 mới bị xem làchủ thể có sức mạnh thịtrường đáng kể để tiếp tục thực hiện hoạt động điều tra, xem xét tính bất hợp pháp của các hành vi ấy theo nguyêntắc lập luận hợp lý; còn nếu mức thị phần thấp hơn mức này thì không cần thiếtphải mởcuộcđiềutra.

3. Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ

3.1. Tác động của quyền sở hữu trí tuệ đối với môi trường cạnh tranh

Cạnh tranh là yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển cùa doanh nghiệp. Có nhiều cách thức để các doanh nghiệp cạnh tranh lẫn nhau nhằm giành lấy các lợi thế cạnh tranh cho mình. Trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, các doanh nghiệpphải khai thác, tận dụng tối đa các nguồn lực hiện có để tạo ra sức mạnhtổng hợp, hướng tới pháttriển ổn định và bền vững, tạo nên thương hiệu khác biệt... Đe tạo dựng được điều này, ứng dụng khoa học công nghệrất quan trọng. Để tăng năng lực cạnh tranh phải tăng được năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.

Năng suất lao động và chất lượng sảnphẩm phụ thuộc nhiều vào công nghệ và dây chuyền thiết bị đang sử dụng, nghĩa là yếu tố khoa học kỹ thuật.

Cùng với cách mạng công nghiệp 4.0 và thời đại của trí tuệ thôngminh, khoa học công nghệ nói chung và các phát minh, sáng chế nói riêng trở thành nhân tố quan trọng, tích cực thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp và phát triển kinhtế quốc gia.

(5)

sứcMẠNHTHỊ TRƯỜNG...

Tuy vậy, xuất phát từ bản chất đặc trưng cũng như lợi thế mà quyền sở hữu trí tuệmang lại cho chù sởhữu, trong quá trình thực hiện quyền năng được pháp luật thừa nhận, chủ sở hữu có khuynh hướng lạm dụng cũng như kéo dài độc quyền sởhữutrí ptệ nhằm gia tăng lợi ích cho mình. Do đó, ừong mối tương quan với cấu trúc thị 1rường, tính cạnh tranh của nềnkinhtế,hoạt lộng thực thi quyền sở hữu trí tuệ ngoài tác lộng tích cực, còn có ảnh hưởng tiêu cực tến môi trườngcạnh tranh.

Trên thực tế, hoạt động thực thi quyền Sơ hữutrí tuệ trong nhiều trường hợp có thể dẫn đến tình trạng độc quyền, hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Bởi lẽ, bản chất của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là đảm bảo độc quyền của chủ sở hữu đối với tài sản trí tụệ. Vì thế, dù không phải là mục đích của Luật Sở hữu trí tuệ, nhưng hoạt động bảo hộ qluyền sởhữu trí tuệ ở nhữngkhía cạnh nhất định có khả năng ảnh hưởng đến sự tự do cạnh tranh giữa các chủ thểkinh doanh trên thị trường. Tác động tiêu cực của quyền sở hưu trí tuệ có thểxuấtpháttừ:

(1) Các quy định của pháp luật liên quan đến việc thừa nhận và bảo vệ sự độc quyền của nó

Dưới góc độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tác động tiêu cực của quyền sở hữu trí tulệ đối với môi trường cạnh tranh dựa trên chính các quy định của pháp luật có thể đựợcthểhiện trong nhữngtrường họp sau:

(a) Quy định về cơ chế hết quyền đổi với quyền sở hữu trí tuệ

Cơ chế hết quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ được cả pháp luật quốc gia lẫn pháp luạt quốc tế ghi nhận vì đó là phương tiện cần thiếtnhằm cân bằng quyền lợi giữachủ sở hữu tài sản trí tuệ và người tiêu dùng, cộpg đồng nói chung. Cơ chế hết quyền đối VỚI tài sản trí tuệ quy định rằng, một khi mọt sản phẩm gắn với tài sản trí tuệđã được

đưa vào lưu thông bởi chính chủ sở hữu hoặc người được chủ sởhữu cho phép, chủ sở hữu sẽ mất quyền kiểm soát và khai thác thương mại đối với sản phẩm mang tài sản trí tuệ đó. Cơchế hết quyền có ba dạng phổ biến hiện nay được áp dụng trên thế giới:

- Cơ chế hết quyền quốc gia: Chủ sở hữu sẽ mất quyền kiểm soát và khai thác thươngmạiđốivới sản phẩm gắn với tài sản trí tuệđăđược chínhchủ sở hữuhoặcngười được chủsởhữu cho phép đưara thị trường nộiđịa. Tuy nhiên, chủsở hữu sẽkhông mất quyền đối với các sản phẩm mang tài sản trí tuệ đã được đưa ra thị trường nước ngoài.

Vậy nên, nếu một quốc gia áp dụng cơ chế này thì hoạt động nhập khẩu song song không được chấp nhận.

11 - Cơ chế hết quyền khu vực: Cơ chế này tương tự như cơ chếhết quyền quốc gia, tuy nhiên phạm vi địa lý mà chù sở hữu bị mất quyền kiểm soát và khai thác thương mại đối với sản phẩm mang tài sản trí tuệ là trong một khu vục bao gồm một số quốc gia nhất định (ví dụ như thị trường của Liên minhchâu Âu). Nhập khẩu song song trong khu vực này cũng không đượcchấp nhận.

- Cơ chế hết quyền quốc tế: Cơ chế này ghi nhận rằng, chủ sở hữu quyền sẽ mất đi quyền kiểm soát và khai thác thương mại đổi với sản phẩm mang tài sản trí tuệ đã được chủ sởhữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép đưa ra thị trường trong nướchoặc nước

11 Nhập khẩu song song là việc tổ chức, cá nhản nhập khẩu sản phẩm do chinh chủ sở hữu hoặc tổ chức, cá nhân được chuyến giao quyển sử dụng, kế cả chuyển giao quyền sử dụng theo quyết định bắt buộc, người có quyền sử dụng trước đối tượng sở hữu công nghiệp đã đưa ra thị trường trong nước hoặc nước ngoài một cách hợp pháp, mặc dù không được sự đồng ý của chủ thế quyền sở hữu công nghiệp. Điều 18 Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điêu của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

(6)

NHÀ NƯỚC PHẢP LUẬT 3/2022

ngoài. Trong trường hợp này, nhập khẩu songsong là hoàntoànđược phép.

Như vậy, mặc dù thuyết hết quyền đối với tài sản trí tuệ có xuất phát điểm nhằm hạn chế sự độc quyền thái quá của chủ sở hữu, gián tiếp bảo vệ quyền tự do cạnh tranh, nhưng vấn đề tác động đến môi trường cạnh tranh vẫn xuất hiện khi một quốc gia không áp dụng cơ chế hết quyền quốc tế, mà thay vào đólà cơchế hết quyền quốc gia hoặc hếtquyền khu vực.

(b) Hạn chế cạnh tranh thông qua việc ngăn cảncác nghiền cứuphát triển tiếp theo

Trên thực tế, Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành của Việt Nam có quy định bắt buộc phải chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho một người kháctrong trường hợpngười đócần vận dụng sáng chế đang được bảo hộ (sáng chế cơ bản) để nghiên cứu tạo ra một sáng chế mới (sáng chế phụ thuộc). Tuy nhiên, trường hợp này chỉ cóthể diễn ra nếu người tạorasángchế phụ thuộc chứngminh được sáng chế của mình ‘7ạơ ra một bước tiến quan trọng về kỹthuật so với sáng chế bản và có ý nghĩa kinh tế lớn” như yêu cầu của Điều 137 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành. Vấn đề là, nếu một người chỉ tạo ra được những sáng chếmới, mặc dù có cơ chế hoạt động khác với sáng chế cơ bản, có khả năng cạnh tranh ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn (nếu như sáng chế mới có cùng kênh phân phối khai thác thương mại với sáng chế cơ bản), nhưng không mang tính đột phá và giá trị kinh tế lớn thì người đó không thể buộc chủ sở hữusáng chế cơ bản chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Đây cũng là một yểu tố tăng độc quyền cho chủ sở hữu sáng chế và làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường.

(2) Hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệcủachủ sởhữu

Tác động tiêucực đến môi trường cạnh tranh của quyền sở hữu trí tuệ còn có thể

xảy rabởi ý chí chủ quan của chính chủ sở hữu thôngqua các thỏa thuậnhạn chế cạnh tranh hoặc các hành vi lạm dụng quyền sờ hữutrí tuệ gây hạn chế cạnh tranh.

Dưới góc độ điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh, việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu sẽ bị xem là viphạmnếu rơivàomột trong 3 nhóm:

- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh;

- Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền;

- Hành vi cạnhtranh không lành mạnh.

Tuy nhiên, liên quan đến sức mạnh thị trường đáng kể gắn liền với quyền sởhữu trí tuệ dưới góc độ cạnh tranh là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền gây cản trở cạnh tranh; hay nói cách khác, là hành vi lạm dụng quyền của chủ sở hữu.

Theo đó, chủ sờhữu quyền sở hữu trí tuệ có hành vi cố gắng mở rộng việc khaithác vượt quá giới hạn được chophép bởipháp luật sở hữu trí tuệvàgây hạn chế cạnh tranh.

Đây không phải làviệc làm dễdàng, nó cần phải cócác quy địnhrõràng,tạo căn cứ để các cơ quan nhànước có thẩm quyền áp dụng khi có những vụ việc cụ thể diễn ra trên thực tế12 * * *.

12 Herbert Hovenkamp (2005), IP And Antitrust Policy: A Brief Historical Overview, University of Iowa Legal Studies Research Paper Number 05-31, tr. 3.

3.2. Xác định hành vi lạm dụng quyển sở hữu tri tuệ

Việc xemxét nhằm chứngminh hành vi của chủ thể là kết quả của lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện dựa trên học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ (A misuse doctrine).

Được thừa nhận và phát triển bời Tòa án tại Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ XX, học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ được đề cập đến như một cáchthức bảo vệ các bên bị cáo

(7)

sứcMẠNHTHỊ TRƯỜNG...

3UỘC CÓ hành vi vi phạm độc quyền sáng chế khi họ chứng minh được chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đã cố gắng mở rộng tính độc quyền của quyền sờhữu trí tuệvượt quá giới hạn cho phép của pháp luật và gây hạn chế cạnhtranh13. Dưới góc nhìn củaTòa án,học thuyết Lạm dụngquyền sở hữu trí tuệ được xem như một công cụchống lại các hành vi sử dụng quyền sở hữu trí tuệ gây hạn chế cạnh tranh14.

16 Thomas F. Cotter (2007), Misuse, Scholarship Repository University of Minnesota Law School, tr.

905.

17 Daryl Lim - John Marshall Law School (2014), Patent Misuse and Antitrust: Rebirth or False Dawn?, Michigan Telecommunications and Technology Law Review, Volume 20 I Issue 2, tr. 314.

Học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí uệđượchình thành và phát triển từ một loạt các quyếtđịnhcủa Tòa án tối cao tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ XX nhằm tra lời cho câu hỏi:

'lLiệu chủ sởhữu quyền sở hữu tri tuệ (bằng sáng chế) có quyền thực thi bằng sáng chế chốnglại những chủthểkhác hay không?”'5.

Học thuyết nàylần đầu tiênđược đề cập vào năm 1917 trong vụ việc Motion Picture Patents Co. V. Universal Film Mfg. Co.

Công ty Motion Picture Patents (MPP) là chủ thể được trao quyền khai thác các sáng chế liên quan đến máy ảnh và máy chiếu hình ành chuyển động (máy chiếu phimtheo nguyên tắc chuyển động của các tấm ảnh). Công ty MPP cho phép công ty precision Machine Company (PMC) được sản xuất và bán máy móc chứa được sáng chế này, nhưng kèm theo điều kiện: Tất cả các mảyđược công ty PMC sản xuấtvà bản

1! Thomas F. Cotter (2007), Misuse, Scholarship Repository University of Minnesota Law School, tr.

902.

14 “Tại Hoa Kỳ, trong giai đoạn từ 1983-2008 có khoảng 300 vụ việc liên quan đên hạn chê cạnh tranh, nhưng chi có 21 vụ việc được Tòa án kết luận Ỉ lạm dụng quyền sớ hữu trí tuệ" theo Daryl Lim -

hn Marshall Law School (2014), Patent Misuse id Antitrust: Rebirth or False Dawn?,Michigan Telecommunications and Technology Law Review, ialume 20 I Issue 2, tr. 313.

Thomas F. Cotter (2006), The Procompetitive terest in Intellectual Property Law, University of innesota Law School, tr. 499.

phải kèm theo một thông báo: Việc mua và bán mảy này chi được phép sử dụtng để chiếu các bức ảnh chuyên động là sản phâm của các sáng chế đã được bảo hộ bởi văn bằng sổ 12.ĩ 92 và được chophép sử dụng bởiMPP. Hay nói cách khác,MPP đã đặt ra yêu cầu máy chiếu phim này chi được phép sử dụng để chiếu các phim do phía MPP cho phép hoặc chỉ định16 17.

PMC đã sản xuất và bán một trong những máy được cấp bằng sáng chế chochủ sở hữu của Playhouse Seventy-Second Street (một rạp hát trên đường 72 New York), kèm theo thông báo cần thiết như trên. Vào ngày 2/11/1914, công ty giải trí Prague (Prague) đãthuê rạphát này và mua lại chiếc máy nàynhư một phần thiếtbị của rạp hát được cho thuê. Vào thời điểm đó, công ty sảnxuấtphim Universal (Universal) đã sản xuất hai bộ phimđược cung cấp cho Prague. Prague đã sử dụng máy này để chiếu phim do công ty Universal sản xuất.

MPP đã gửi thư phản đối, cáo buộc Prague vi phạmbằng sáng chế của mình, và sau đó kiện Universal, Prague, cũng như chủ sở hữu rạp hát. Tuy nhiên, phía công ty Universal đã phảnbácyêu cầu củaMPP với lập luận việc sừ dụng máy chứa đựng sáng chế không thề bị giới hạn bởi các điều khoản trong thông báo được dán trên máy bởi chủsởhữubằng sáng chế.

Tòa án đã bác bỏ yêu cầu của MPPvới lập luận,- Không thểsử dụngsảng chế trên công nghệmáy chiếu đế kiếm soát việc mua bán phim. Ràng buộc này nằm ngoàiphạm vi của bằng sáng chế'1. Phán quyết này đã

(8)

NHÀNƯỚC PHẢPLUẬTSÓ3/2022

đặt nền móng cho học thuyết Lạm dụng (đầu tiên ápdụng đốivới bằng sáng chế, sau đómở rộng cho các đối tượng sởhữu trí tuệ khác) như một cách thiết lập “giớihạn” độc quyềnđốivới sáng chế của chủ sở hữu.

Tuy nhiên, phải đến năm 1942, thông qua phán quyết của vụ việc Morton Salt Co.

V. G.s. Suppiger Co. thì Tòa án tối cao mới chính thức đưa ra tuyên bố liên quan đến các khíacạnhcụ thể của học thuyết này18.

18 Daryl Lim - John Marshall Law School (2014), Patent Misuse and Antitrust: Rebirth or False Dawn?, Michigan Telecommunications and Technology Law Review, Volume 20 I Issue 2, tr. 315.

19 Daryl Lim - John Marshall Law School (2014), Patent Misuse and Antitrust: Rebirth or False Dawn?, Michigan Telecommunications and Technology Law Review, Volume 20 I Issue 2 tr. 317.

20 Thomas F. Cotter (2006), The Procompetitive Interest in Intellectual Property Law, University of Minnesota Law School, tr. 499.

Theo đó, phía công ty Suppiger - chủ thể được cấp bằng sáng chế đối với thiết bị sản xuất muối viên - được sử dụng rộng rãi trong ngành thực phâm đóng hộp. Sau đó, phía công ty Suppiger chỉ đồng ý cho các nhà máy đóng hộp thực phẩm thuê hệthống thiết bị này với điều kiện các nhà máy đó phải mua muối từ công ty Suppiger.

Công ty Morton cũng là một doanh nghiệp sản xuất và cho thuê máy làmmuối viên. Đồng thời, phía công tyMorton cũng chỉ cho các công ty đóng hộp thực phẩm thuê máy này với điều kiện họ phải mua muối được sản xuất bởi các công ty con của Morton.

Công ty Suppiger đã kiện Morton vi phạm bằng sáng chế vì đã bán muối cho khách hàng của họ. Tòa án đã bác bỏ cáo buộc đóvới các lý do:

(1) Bản thân bị đơn (công ty Morton) không phải là một bên trong thỏa thuận cấp phép hạn chế;

(2) Việc sử dụng bằng sáng chế đó không vi phạm đạo luật Clayton về chống độc quyền vì chúng không làm giảm đáng kể sựcạnh tranh hoặc có xu hướngtạo ra sự độc quyền trên thị trường muối viên;

(3) Máy của bị đon không được sản xuất trong phạm vi cho phép của bằng sáng chế19.

Đồng thời, Tòa án cũng chỉ ra rằng, bằng sáng chế không thể được sử dụng nhằm hạn chế cạnhtranh trong việc tiếp cận các mặt hàng không liên quan đến sáng chế.

Điều đó sẽ bị xem là lạm dụng và vi phạm chính sách công. Do đó, nếu công ty Suppiger vẫnmuốn kiểm soát việc muabán muối trên thị trường thì họ không có quyền ngăn cản chủ thê khác bán hoặc cho thuê máy đóng muối viên dù họ đang là chủ sở hữu bằng sáng chế. Bởi lẽ, độc quyền từ quyền sởhữu trí tuệ là độc quyền trong giới hạnvà chủ sởhữu không thể sử dụng nó để hạnchếthươngmại.

Cuối cùng, dựa trên nguyên tắc công bằng, Tòa án đã lập luận rằng: ‘Têtt cầucủa nguyên đcm bị từ chối bởi họ đã thực hiện quyền (dù quyền đó đượcpháp luật bảo vệ thông qua việc cấp bằng sảng chế) trái với lợi ích công cộng". Đồng thời, Tòa án cũng tuyên bố rằng: “Việc sử dụng bằng sáng chế nhằm mục đích loại bỏ sự cạnh tranh đổi vớicác sản phấm không liên quan đến bang sáng chế có thếbị tước quyền đối với sáng chế đã được bảohộ ”20.

Sau phán quyết đó, học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ được thừa nhận và được sử dụng để chống lại các cáo buộc vi phạm độc quyền sáng chế hoặc các đối tượng sở hữu trí tuệ khác. Theo đó, khi một chủ thể bị khởi kiện (bị đơn) về hành vi vi phạm độc quyền đối với bằng sáng chế từ chủ sở hữu sáng chế đó (nguyên đơn) và không muốn gánh chịu các chế tài (chấm

(9)

SỬCMẠNH THỊ TRƯỜNG...

dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại cho nguyên đon), bị đon cần chứng minh rằng nguyên đon đã có hành vi lạm dụng quyềnsởhữu trí tuệ như sau21:

21 Daryl Lim (2013), Patent Misuse and Antitrust Law: Empirical, Doctrinal and Policy Perspectives, Published By Edward Elgar Publishing Limited, tr.

38-40.

22 Lê Net (2006), Quyền sở hữu trí tuệ (Tài liệu bài giảng), Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, ử 210.

(i) Thực hiện quyền sở hữu trí tuệ vượt quáphạm vỉ cho phépcủa pháp luậtsởhữu trí tuệ (chủ thể đã cóhành vỉ lạm quyền)

vềnguyên tắc, chủ thể quyền sởhữu trí tuệchỉ đượcphép thực hiệnquyền củamình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của pháp luật. Đồng thời,việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ cũng không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp củatổ chức, cá nhân khác cũng như không được vi phạm các quyđịnhkhác củapháp luật có liên quan (Điều 7 LuậtSởhữu trí tuệhiện hành).

. .lạm dụngquyền sở hữu trí tuệ được hiểu làviệc sửdụng quyền sởhữu trí tuệ sai với nguyên tẳc, mục tiêu mà quyển sở hữu trí tuệ đề ra ”22.

Dođó, để chứng minh chủ thể có hành vi lạm quyền, cần phải chứng minh được rằng, chủsở hữu đã thực hiện quyền sởhữu trí tuệ vượt quá phạm vỉ cho phép và hành vi đó đã xâm phạm đến quyền vàlợiíchhợp pháp của chủ thể khácbên cạnh lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Đây là một việclàmkhông phải dễ dàng vìquyền vả lợi ích hợp pháp của người khác là một thuật ngữ rất rộng. Hơn nữa, cũng không loạitrừ người khác ở đây chính là người trực tiếp sử dụng, đồng thời là đối thủ cạnh tranh của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ.

Vậy nên, việc xem xét, đánh giá hành vi của chủ thể cóbị xem là lạm quyền sở hữu

trí tuệ haykhông phải được đánh giá trong bối cảnh cụ thể với mối tương quan giữa quyền tài sản của chủ sởhữu với quyền và lợi ích của cácchủ thể khác.

(ii)Tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh

Tiêu chí thứ hai để xem xét hành vi cụ thể của chủ thể là hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ nếu nó gây ra các tác động loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Các hành vi này bao gồm: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thốnglình thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền (khoản2 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2018).

Tuy nhiên, xét dưới khía cạnh ýchí của chủ sở hữu, hành vi bị xem là hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ chính là các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có được từ quyền sở hữu trí tuệ gây hạn chế cạnh tranh. Do vậy, xác định sức mạnh thị trường của chủ thể là một trong nhữngyêu cầuquan trọng để xác định hành vilạm quyền.

Vậynên, việc áp dụng học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ phải được thực hiện theo nguyên tắc lập luận hợp lý cho từng vụ việc, hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Tòa án, các thẩm phán không thể đặt ra cácnguyên tắc cứng nhắc trong việc xem xétmột hành vi của chủ sở hữu sẽ bị xem là lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ. Để chứng minh được điều đó thì các chủ thể cần phải phân tích, đánh giá4 yếu tố:

- Có sự mở rộng quyền sở hữu trí tuệ quá mức: Chủ sở hữu tài sản trí tuệ đã thực hiện các hànhvi vượt quá giới hạn đãđược thừa nhận bởivăn bằng bảo hộ và pháp luật sở hữu trí tuệ;

- Áp đặt điều kiện: Chủ sở hữu đãđưa ra cácyêu cầu như là điều kiện chuyểngiao (cấp phép) quyền sở hữu trí tuệ;

(10)

NHÀNƯỚC PHẢPLUẬTSÔ3/2022

- CÓ hành vi ép buộc: Chủ sở hữu sử dụng sức mạnh thị trường, vị trí độc quyền có được từ quyền sở hữu trí tuệ để ép buộc người nhận chuyển giao (được cấp phép) bất đắc dĩ phải chấp nhận các yêu cầu đó nếumuốnđược chuyển giao;

- Không có sự biện minhhợp lý: Chủsở hữu đã không thể chứng minh được lý do hợp lý khi đặt ra các yêu cầu đó trong hợp đồng chuyểngiao (cấp phép)23.

23 Jeffery B. Fromm and Robert A. Skitol (2003), Harmonization of the IP Misuse Doctrine and Antitrust Law: A Call for Help from the Agencies and Congress, tr. 7.

Rõràng, học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranhcủa chủsở hữu trong quá trình thựcthi quyền sở hữu trí tuệ. Nhưng, điều đó không có nghĩa là bất kỳ hành vi vi phạmpháp luật cạnh tranh của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đều bị xem là hành vi lạmquyền sở hữu trí tuệ để tước bỏ quyền độc quyền của chủ sở hữu. Điều này cần được phân tích, đánh giá một cách cẩn trọng trong mối tương quan giữa bảo vệ môitrườngcạnh tranh lành mạnh và độc quyềnmặc nhiên củaquyền sở hữu trí tuệ. Để đảm bảo việc đó, nhất thiết trong hệ thống pháp luật quốc gia cần phải ghi nhận hainguyên tắc sau:

Một là, cần thừa nhậnrằng: Chủsở hữu mặc nhiên có quyền độc quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ. Đe bảo vệ sự độc quyền đó, pháp luật cần cho phép chủ sở hữu được phép thực hiện một số hành vi nhấtđịnh nhằm loạitrừcác hành vi có nguy cơ xâm phạm đến sự độc quyền hợp pháp đó của các chủ thể khác, đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh.

Hai là, việc đánh giá hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệphải được xemxét theo nguyên tắc lập luận hợp lý thay vì nguyên tắc vi phạm mặcnhiên.

3.3. Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ

Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018 nghiêm cấmtrường hợp doanh nghiệp có vị trí thốnglĩnh, vị trí độc quyền thực hiện các hànhvi bị xem là lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, một doanhnghiệp có thị phần từ 30% trở lênhoặc có sức mạnh thị trường đảng kể khi thực hiện các hành vi cụ thể (ấn định giá bán lại, ràng buộc bán kèm, yêu cầu chuyển giao ngược...) sẽ bị xem là vi phạm pháp luậtvì đã thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh và phải gánh chịu các chế tài theo quyđịnh của pháp luật.

Cách tiếp cận như trên làkhônghợp lý, bởi lẽ trong mối tương quan của quyền sở hữu trí tuệ, việc xác định hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của một hành vi cụ thể của chủ sở hữu thông quamứcthị phần xác định hoặc sức mạnh thị trường đáng kể là không phù hợp. Với đặc thù là độc quyền, khó thay thế, doanh nghiệp sởhữu quyền sở hữu trí tuệ dễ dàng có được vị trí thốnglĩnh, thậm chí độc quyền trên thị trường công nghệ, thị trường sảnphẩm được sản xuất từ công nghệ đó. Đồng thời, với tầm quan trọng của sáng chế và khả năng thay thế các yếu tố kỳ thuật thì chủ sở hữu cũng mặc nhiên có được sức mạnh thị trườngđáng kể theo cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam.

Hay nói cách khác, với quy định này của Luật Cạnh tranh năm 2018, hành vi ấn định giá bán lại, ràng buộc bán kèm hay chuyển giao ngược trong hợp đồng chuyển giao quyền sởhữu trí tuệ sẽ mặc nhiên bị xem là vi phạmpháp luật cạnh tranh. Quy định này khá cứng nhắc, chưa tính đến đặc thù cùa quyềnsở hữu trí tuệ cũngnhư quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu. Do đó, để đảm bảo quyền hợp pháp của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, sự phù hợp và hiệu quảthực thi của

(11)

sửc MẠNHTHỊ TRƯỜNG...

phápluật, cần phải xem xét, đánh giá sựcần thiết và hợp lý của việc thực hiện các hành vi cụ thể trong mối tương quan với bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu, cũng như bảo vệ sựthống nhất, hiệu quả của sáng chế, kỹ thuật.

Theo đó, dù chù sởhữu quyềnsở hữutri tuệ có vị trí thống lĩnh, thậm chí là độc quyền trên thị trườngkhi thực hiện các hành vi nêu trên, hànhvi củahọ không mặc nhiên bị xem là vi phạm pháp luật cạnh tranh mà chỉ bị xem làcó khả năng gây hạn chế cạnh tranh. Để kết luận một hành vi có vi phạm pháp luật cạnh tranh và áp dụng các chế tài hay không, cơ quan quản lý cạnh tranh cần phải đánh giá khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các hành vi đó trong mối tương quan với sự cần thiết thực hiện hành vi, cũng như các lợi ích (có thể) mà hành vi đó sẽ mang lại cho thị trường công nghệ, cho người tiêu dùngtrên nguyên tắc lậpluận hợp lý. Trườnghợp chứngminh hành vi đó là cần thiết để bảo vệ độc quyền của chủ sở hữu hoặc cần thiết để bảo vệ sự đồng bộ, thống nhất của dây chuyền công nghệ, hành vi này phải được xem là họp pháp, được phép thực hiện bất chấp vịtríthống lĩnh, độc quyền hay sức mạnh thịtrường của chủsở hữu.

Tóm lại, đặt trong mối quan hệ với quyền sở hữu trí tuệ, việc sử dụng tiêu chí thị phần liên quan hay sức mạnh thị trường đáng kể làm tiêu chí duy nhất để đánh giá các hànhvi cụ thể của chủ sởhữu là viphạm pháp luật cạnh tranh hay không theo quy định tại Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018 là không phù họp. Vậy nên, để đảm bảo quyền hợp pháp của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật Việt Nam có thề học tập cách tiếp cận của các quốc gia pháttriển như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, theo đó:

- Đối với các hành vi có khả năng gây hạn chế cạnh tranh được thực hiện bởi các

doanhnghiệp không có vị trí thống lĩnh (thị phần thấp hơn 30% hoặc không có sức mạnh thị trường đáng kể) thì mặc nhiên được thực hiệnmà không bị xem là vi phạm phápluật cạnhtranh.

- Đối với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thực hiện các hành vi có khả năng gây hạn chế cạnh tranh chỉ bị xem là có nguy cơ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh và cần được điều tra, xem xét. Việc xác định hành vi đó có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không chỉ được khẳng định sau khi có kết quả điều tra, đánh giá hậu quả gây hạn chế cạnh tranh của hành vi đó trong mối tương quan với việc bảo vệ độc quyền hợp pháp của chủ sở hữu bởi nguyên tắc lập luận hợp lý.

Cụ thể, cơ quan quản lý cạnh tranh cần thực hiện hoạt động điều tra hai bước: (1) Hành vi/thỏa thuận đang xem xét có tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh hay không; và (2) Hành vi/thỏa thuận đó có mang lại lợi ích thúc đẩy cạnh tranh hay không và liệu tác động thúc đẩy cạnh tranh của nó có lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh do nó mang lại hay không.

Một hành vi củachủ sởhữu sẽ bị xem là có tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể trên thị trường nếu hành viđó dẫn đến các hệ quả:

(i) Người nắm quyền (chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ) có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan;

(ii) Quyền sở hữu trí tuệ là hoàn toàn cần thiết để thựchiện hoạt động kinh tếtrên thị trường thứcấp;

(iii) Hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ có tác động bópméo thị trườngthứcấp;

(iv) Hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ không có cơ sở khách quan cũng như không nhằm bảo vệ hợp lý độc quyền sở hữu trí tuệ của chủsởhữu;

(12)

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 3/2022

(v) Hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ có tác động tiêucực đối với việc khuyến khích đầu tư lâudài và sáng tạo24.

24 Để xem xét, đánh giá một hành vi/thỏa thuận có tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ, năm (05) câu hỏi khác có thể được phân tích để bổ sung thêm vào quá trình điều tra bao gồm:

1. Liệu răng hành vi hạn chế cạnh tranh có hạn chế số lượng đầu ratảng giá cả hay không;

2. Liệu hành vi hạn chế này là có mục đích hoàn toàn rô ràng, hay có liên quan tới việc thúc đẩy cạnh tranh thòng qua việc hợp nhất các nguồn lực kinh tế hay không;

3. Liệu hành vi hạn chế này có hạn chế số lượng đầu ra và tăng giá bán hoặc tạo điều kiện cho việc thực thi sức mạnh thị trường của chủ thể hay không;

4. Liệu hành vi hạn chế này có cần thiết để đạt được những mục tiêu ùng hộ cạnh tranh đã đặt ra hay không;

5. Liệu những lợi ích mà hành vi hạn chế này mang lại trong thúc đẩy cạnh tranh có vượt quá được những nguy cơ phản cạnh tranh mà chúng có thể gảy ra hay không.

Trong trường hợp đa số các câu trà lời là không thì hành vi ấy không bị xem là gây hạn chế cạnh tranh hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh đáng kể để bị ngăn cấm theo CỊuy định của pháp luật cạnh tranh, ngược lại nếu đa số câu trả lời là có thì hành vi đó sẽ bị xem là vi phạm pháp luật cạnh tranh.

(Theo Khemanit, R. Shyam - 2003, Khuôn khổ cho việc trỉến khai việc xây dựng chinh sách và luật cạnh tranh, Ngân hàng Thế giới và OECD, ký tại In Rai, Qureshi & Saroliya, tr. 20).

Đồng thời, hành vi/thỏa thuận của chủ thể sẽ được xem là có tác động thúc đẩy cạnh tranh, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của chủ sởhữu khi:

- Góp phần nâng cao sản xuất hoặc phân phối hàng hóa, hoặc thúc đẩy sự phát triển kỳ thuật, kinh tể.

- Chia sẻ lợi íchđạt được cho người tiêu dùng: Các lợi ích kinh tế đạt được phải có lợi không chỉ cho các bên tham gia thỏa thuận, mà phải được chia sẻ một cách công bằng cho người tiêu dùng. Phần lợi ích chuyển cho người tiêu dùng có thể được đánh giáthông qua việc đánh giálợi íchcắt

giảm chi phí, môi trường cạnh tranh, các yếu tố cung cầu có lợi cho cạnh tranh.

- Không ápđặtcho các doanh nghiệpcó liên quan các hạn chế không cần thiết để đạt được các mục tiêu trên. Theo đó, các hạn chế (nếu có) do thỏa thuận gây ra là cần thiết để đạtđược các lợi íchkinh tế.

- Không tạo cho các doanh nghiệp này khả năng loạitrừ cạnh tranh đángkể đốivới các sản phẩm liênquan.

Sau khi đánh giá, cân nhắc các tác động tiêu cực và tích cực của hành vi đối với môi trườngcạnh tranh và lợi ích của các chủ thể liên quan, hành vi của chủ sở hữu sẽ được xem là họp pháp và được phép thực hiện nếu nỏ mang lại nhiều lợi ích tích cực horn dựa trên sự hợp lý của hành vi.

4. Kết luận

Sức mạnh thị trường đáng kểlà mộtyếu tố quan trọng nhằm xác định xem hành vi của một chủ thể được thựchiện trên thực tế liệu có phải là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh cần được ngăn cấm và loại trừ.

Tuynhiên, sức mạnh thị trường đáng kểcần phải được xác định gắn liền với yếu tổ thị phần của chủ thể chứ không thể chi dựa vào một hoặc một số yếu tố bao gồm cả việc sở hữu, quyền sừ dụng quyền sở hữu trí tuệ như quy định của pháp luật hiện hành. Hay nói cách khác, đặttrong mối tương quan với quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu, quyền sởhữu, sử dụng quyền sở hữu trí tuệchỉnên xem là lợi thế cạnh tranh thay vì sức mạnh thị trường đáng kể. Do đó, việc xem xét đánh giá tính vi phạm pháp luật cạnh tranh của một hành vi/thỏa thuậncụ thể liênquan đến quyền sở hữu trítuệ cầnđặt trongsự so sánh giữa tác độngtíchcực và khả năng gây hạn chế cạnh tranh của hành vi/thỏa thuận đóthay vì chỉ dựa trênyếu tố thị phầnhoặc sức mạnh thị trường đáng kể như quy định hiện hành của Luật Cạnh tranh năm 2018.

Referensi

Dokumen terkait