NGHIÊN CỨU
RESEARCH
Chính sách chuyển đổi số ở Việt Nam
Vũ Đăng Khoa KUTO Japan., JSC
Hiện nay, Chính phủ đãđề ra nhiều chính sách nhằm thúc đẩy chuyểnđổi số nhanh chóng nhằm nâng caohiệu quả nền kinhtế. Với 3 trụ cột chínhtrong chuyểnđổi số quốc gialàChínhphủsố, kinh tế sốvà xã hội số, Việt Nam là một trong nhữngquốcgiatiên phong trênthế giới đã xâydựngđược một chương trình chuyên đề về chuyển đổi số quốc gia được Chính phủ phê duyệt nhằm đápứng yêu cầu phát triển đấtnước trong thời kỳ mới.
1. Cácchính sách thúc đẩy chuyển đổi sô' ở Việt Nam
1.1. Ban hành các văn bản thúc đẩy chuyển đổi sốở Việt Nam
Chính phủ Việt Nam coiviệc chuyển đổi số trong toànbộ nền kinh tế là rất quan trọngđể tiếptục tăng trưởng và thịnh vượng. Hiệntại, nhiều cơ quanchịu trách nhiệm hỗ trợ và điều chỉnh cácnội dung khác nhau của nền kinhtế số ở Việt Nam. Khung pháplý hiện hành bao gồmcác quyđịnh và nghịđịnh do các bộ ban hành. Hiệnnayđối với các vấn đề liên quan đến viễn thông và ngành CNTT-TT, Bộ Thông tin và Truyềnthônglà cơ quan chủ trì.
Luật An ninh mạng của Việt Nam (CSL) được Quốc hộithôngquangày 12 tháng6năm2018và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Luật quy định các nghĩa vụ đối với các công ty trong vàngoài nướccung cấpdịch vụ cho khách hàngtạiViệt Nam qua mạng viễn thông hoặc Internet. Theo luật, cả nhà cungcấp dịch vụ trựctuyến trong nước vànước ngoài đều phải lưu trữ thông tin của người dùng Việt Namtại Việt Nam trong mộtkhoảng thời gian nhất định. Các chính sách nội địa hóa dữ liệu của Việt Nam là một phần trong nỗ lực nhằm kiểm soát các hoạtđộngtrênInternet, với các mụctiêu đã nêu bao gồm cả mục tiêuan ninh công cộng cũng như mục tiêu thươngmại.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp CNTT, đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển CNTT, Đảngvà ChínhphủViệtNam đã đặc biệt quan tâm xây dựng chính sách phát triển CNTT, đổi mới sángtạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến, tậndụng cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này đã được thể hiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị quyết số 36a/NQ- CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tư;
Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốcgiađến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ngày 27 tháng9năm 2016, Bộ Chínhtrịcũng đã banhành Nghị quyết số52-NQ/TW (Nghị quyết 52) về một số chủtrương, chính sách tích cực tham gia vào cuộc cách mạng côngnghiệp 4.0. Đầu năm 2020, Thủtướng Chính phủNguyễn XuânPhúc đãký ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg về việc đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp công nghệ sốtạiViệt Nam. Tính tớitháng 7năm 2020, đã có 16 tỉnh thànhban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 01/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về thúc đẩy phát triển công nghệ sốtại Việt Nam.
Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chương trìnhchuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn đến năm2030 cũng đãxác định cácnhiệm vụ và giải pháp, trong đó,tập trung vàoứng dụng côngnghệ mới, đặcbiệt là công nghệ AI,thúc đẩy phát triển chính phủđiệntử,kinh tế - xã hội số ở Việt Nam, góp phần đổi mớitoàn diện hoạt động quản lý, điều hành công, hoạtđộng sản xuất kinh doanh và nếp sống, cách làmviệc của doanh nghiệpvàngườiViệt Nam.
Đểhỗ trự cho các doanh nghiệp trongviệc đẩy nhanh tiến độchuyển đổi số, năm 2021, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phê duyệt Chương trình Hỗ trợ doanh nghiệp chuyểnđổi số giai đoạn 2021- 2025.Trong đó, 100%doanh nghiệp tiếpcận thông tin từ chương trình vànâng caokiến thứcvề chuyển đổi số, 100.000 doanh nghiệp được nhận các hỗtrợ từ chươngtrình (sửdụng công cụ tự đánhgiá mức độ sẵn sàng chuyển đổi số, hỗ trợ đào tạo, tư vấn, kết nối giải pháp)...
Trong năm 2022, chương trình sẽ triển khai3gói hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số: Start Digital dành cho doanh nghiệp quy mô nhỏ, mới bắt đầu chuyển đổi số - hỗ trự lựa chọn các giải pháp chuyển đổi số đơn giản và phù hợp nhất để bắt đầu thực hiện; GóiGrowDigital (dànhcho doanh nghiệpđang tăng trưởng - hỗ trợ tăng tốc phát triển dựa trên việc ứng dụng các giải pháp chuyển đổi số; Go
74
Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 4/ 2022)Digital - Go Global (dành cho các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩuthông quacác nền tảng số -hỗ trợdoanh nghiệp làm chủ quy trình, công nghệsố, phát triển thương hiệu và sản phẩm trên thị trường quốctế).
Ngoài ra,Bộ Thôngtin và Truyền thôngđang xây dựng dự thảo Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghiệp, công nghệ số, dự kiến trình Quốc hội kế hoạch năm 2023.
1.2. Các điều kiện sẵn sàng để thúc đẩy chuyển đổi số ở ViệtNam
Thứ nhất, tăngtrưởng kinh tế cao trong những thập kỷ gần đây đã và đang tạo ra môi trường tốt hơncho chuyểnđổi số.Đặc biệt, tầng lớptrung lưu ởViệt Nam đang tăngnhanh nhất Đông NamÁ,hứa hẹn tiềmnănglớncho lĩnh vựctài chính, ngân hàng, chăm sóc sức khỏe vàbảo hiểm.
Thứ hai, Việt Nam cũngcó lợi thế lớn về nguồn nhânlực công nghệ.Có nhiều trường đào tạo ngành CNTT, đây là nguồn cung cấp nguồn lao động chất lượng cao, trongđó có chuyên ngành công nghệ và khoa học dữliệu.
Thứ ba, nền tảngcho sốhóa ở ViệtNam gần đây đã đượcpháttriển đáng kể. Dịchvụ Internet tốc độ cao, thiết bị thôngminh và điện thoại diđộng ởViệt Nam đang trở nên phổ biến.Đến đầu năm 2019, Việt Nam đã phóng mộtsố vệ tinh, trong đó cóhai vệ tinh đượcsản xuất tại ViệtNam. Cácvệ tinh này cung cấp Internet cho cácvùng sâu vùngxa, cũng nhưgiám sát biến đổi khí hậu, thiên tai, nông nghiệp, mực nước biển và phát triển đô thị.
Hạ tầng Internet ViệtNam cũng đang phát triển mạnh mẽvà ngày càng hoànthiện.Theo số liệu tại Báo cáo Internet, tàinguyên Internet 2021, có 660 hệ thốngmạngsử dụng IP/ASN độclập kết nối với nhậu hình thành Internet Việt Nam (tăng 20% so với năm 2020),gồm: Các doanh nghiệp ISP(Viettel, VNPT, FPT, CMC, Mobifone, Netnam...); mạng của cáccơ quannhà nước, chính phủ; các doanh nghiệp nội dung CDN, trung tâm dữ liệu IDC, ngân hàng, viện nghiên cứu, trường đại học ... Các mạng trong nước kết nối với nhau thông qua các ISP và qua Trạm trungchuyển Internetquốcgia VNIX. Tại Việt Nam hệ thống DNS quốc gia là một trong các hạ tầng thôngtin quan trọng quốcgia, được xemlà tráitim của mạng Internet ViệtNam. Hệ thốngDNSquốcgia được triểnkhai áp dụngcáctiêu chuẩn, công nghệ mới gồm DNSSEC, Anycast, IPv6, ... Bên cạnh việc ánh xạ tên miền thành địa chỉ IP vàngược lại, giúp kết nối và truycậpcácdịch vụ trênmạng Internet.
Hệ thống DNS còn là nềntảng để triển khaicácgiải pháp xác thực, bảo mật thư điện tử (SPF, DKIM, DMARC),giúp chặn lọc thư rác (spam mail)và thư giả mạo (phishingmail). Ngoài ra, năm 2021, VNNIC
triển khai 03 cụm máy chủ tên miền gốc(DNS Root) tại Việt Nam,kết nối với VNIX, giúp hỗtrợ truy cập dịchvụ tên miền khôngphụ thuộc vào các máy chủ DNS gốc đặt tại nước ngoài và tăng tốcđọ truy vấn tên miền ".vn” nhanh gấp 5-10 lần.
2. Kết quả thực hiện chính sách thúc đẩy chuyển đổi sô'
2.1. Nhóm người tiêu dùng kỹ thuậtsố tăng mạnh
Số người sử dụng các dịch vụ kỹ thuật số tăng mạnh trongthời gian qua, đặc biệt là trong khoảng thời gian diễn ra đại dịchCovid 19. số lượngngười sửdụng các dịch vụ kỹthuật số trước đại dịch Covid 19 tạiViệt Nam đã ở mức cao do nỗ lực tăngtrưởng chuyển đổi số trong nhiều ngành khác nhau giai đoạn 2015 - 2019, chiếm 60,5%. Tuy nhiên, riêng năm 2020,với những đợt dãn cách xã hộivà hạn chế tiếp xúc, làmviệc từ xa đã khiếnsố người dùngmới các dịch vụ kỹ thuật số tăng lên 7,4% và chỉ quý I năm 2021 tăng tiếp 2,9%. Cho đến nay, số người không sử dụng các dịch vụ kỹ thuật số chỉ còn 29,3%, rơivào nhómngườilớn tuổi hoặc trẻ em.
Số lượng dịch vụ kỹ thuật số trung bình một người tiêudùng cũng tăng lên rõ rệt so sánh ở thời điểm trước khi xảy ra đại dịch vàthời gian diễn ra đại dịch. Trướckhi dịch Covid 19,consố này là 4,5 nhưng sang năm 2020 đã tăng lên 2,2 và tiếp tục tăng1,8 vào năm2021. Như vậy, đến nay, số lượng dịchvụ kỹ thuật số trung bìnhmột người ViệtNam sửdụng là8,5.
72%số người Việt Nam có thể dùngnhiều hơn các công vụ tiếpthị kỹ thuật số và 19% sẽ duy trì mứcsửdụng.Có 33% đến39%sẽ tăng sử dụng dịch vụ về trangweb, dịchvụ phân tích kỹthuật số, phần mềm vận hành, bộ nhớ trên đám mây, phần mềm cộng tác. Nhìn chung, tỷ lệ sử dụng các công cụ internet là rấtlớntrên 80% vào năm 2021.
2.2. Chuyểnđổi số trongmột số lĩnh vực kinh tế
Phát triển nhanhnhất là ngành thương mại điện tử, đặc biệt trong giai đoạn diễn ra dịch Covid 19.
Năm 2019, thương mại điện tử mới mang lại tổng giá trị hàng hoá là 5 tỷ USD thì năm 2020,consố này đã tăng lên là 8tỷUSD.Năm2021, tổng giátrị hàng hoá (GMV) ở lĩnh vực thươngmại điện tử tăng 53%
lên 13 tỷ USD và dự kiến năm 2025 sẽ tăng tiếp 32%.
Ngành vận tải và thực phẩm cũng có mức tăng trưởng tổng giá trị hàng hoá khá cao. Năm 2019, GMVcủangành là 1,1 tỷ USD nhưngsang năm 2020 đã tănglên là 1,8 tỷUSD.Năm2021tăng 35% sovới 2020và dự báo năm 2025, mức tăngtrưởng cũngsẽ đạt 24%.
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (Tháng 4/ 2022)
75
NGHIÊN CỨU
RESEARCH
Lĩnh vựcnghe nhìn trực tuyếncó mức tăng GMV 30%trongnăm2021 so với 2020và dự kiến sẽ thu về 7 tỷ USD vàonăm 2025.
Chỉ cóngànhdulịch trực tuyếncósự giảm sút về tổng giá trịhàng hoábán rado chịuảnh hưởngtiêu cực từđại dịch Covid 19. Năm 2020, GMV giảm 1,5 tỷUSD so với 2019 và tiếp tục giảm 45% vào năm 2021. Tuy nhiên, dự đoán về tăngtrưởng GMV của ngành này vẫn rất khả quan vào năm 2015 (tăng 44%) khi dịch bệnh được kiểm soát
Như vậy, nền kinh tễ internet đã đạt giá trị tới 21 tỷ USDvàonăm 2021, tăng 31% so với năm 2020và dự kiến sẽ tăng tiếp 29% vào năm 2025.
Có thể thấy, với những chính sách thúc đẩy chuyển đổi số thì nền kinh tế số củaViệt Nam đang có những thay đổi nhanh chóng. Việt Nam là một trong nhữngnền kinhtếsố tăngtrưởng nhanh nhất khuvực Đông NamÁ vớitốc độ 38% một năm.Theo đó, khu vực số được kỳ vọng sẽ đóng góp khoảng 30% GDP vàonăm 2030.
3. Những rào cận trong thực hiện chính sách thúc đây chuyển đổi so ở Việt Nam
Thứ nhất, thiếu vốn và thông tin được cho là những rào cản chính để thúc đẩysố hóaở mức độ doanh nghiệp tại khuvực công nghiệp sản xuất và nông nghiệp của Việt Nam. Đặc biệt, lợi ích kinh tế chưa rõ ràng và thiếu chắc chắn của việc áp dụng công nghệ, và mứcđầu tư cao lànhững thách thức quan trọng nhất đối với số hóa ở Việt Nam, nhất là đốivới các doanh nghiệp nhỏ và vừa (Cameron A và cộng sự, 2019) .
Thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNW) vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản trong chuyển đổi số như thiếu nhận thức về vai trò của chuyển đổi số. Báocáo chỉ ra rằng, DNNW mặcdù chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp Việt Nam, nhưng cótrìnhđộđổimới và công nghệ thấp. Theo khảo sát của Bộ Công Thương, có tới 16 trong 17 ngành nghề được khảo sát có mức độ sẵn sàng để tham gia vào chuyển đổi số thấp. Đáng chú ý, hơn 80%doanh nghiệp mới bắt đầu tìmhiểu về chuyển đổi số. Gần đây, các khái niệm về "kinh tế số" và
“chuyển đổi số" đã được đề cập rẩt nhiều, nhưng nhiềuDNNW vẫn chưathựcsự hiểu vàáp dụng vào thực tiễn.
Thứ ba, thiếu hụtlao động có kỹ năngchochuyển đổi số cũng là thách thức chính đối với Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Theo Bộ Giáodục và Đào tạo, hiệnnay, tỷ lệ các trường đại học và cao đẳng trên cả nước có chương trình đào tạo công nghệ thông tin (IT) chiếm 37,5%, mỗi năm có khoảng 50.000 sinh viên ngành IT tốt nghiệp. Chỉ có khoảng 27% nhânviên IT có khả năng đáp ứngcácyêu cầu
công việc, cònlại 72% cầnđào tạo bổ sungít nhất 3 tháng. Sự thiếu hụt này tới từ nhiều nguyên nhân, trong đóchủ yếu làthiếuchuyêngia cókỹ năngcao để đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường, trong khi sinh viên mớitốtnghiệpthìthiếu kỹ năng thực tiễn vàkỹ năng mềm (làmviệc nhóm, quản lý thời gian, kỹ nănggiao tiếp,etc.).
Thứ tư, một trong những thách thức của chuyển đổi số là thiếu sự phối hợp giữa các bộ, cơ quan ban, ngành nhà nước trong việcthựchiệncácchiến lược quốc gia về kinh tế số.Ví dụ, trong khi Hải quan Việt Namvà Bộ Tài chính đã và đang cùng làm việc trên một hệ thống thanh toán để thu thuế và hóa đơn điệntử, tuy nhiên vẫn còn những bất cậptrong việc gắn kết với Chiến lược chung củaChínhphủ về Kinh tế số. Nguyên nhân chính củasự thiếu sự phối hợp là vắng mặt sự lãnh đạo chung về các vấn đề liên quan tớikinhtếsố.
4. Kết luận
Cácchính sáchthúc đẩy chuyển đổi số của Việt Nam đã được các cơ quan chức năng, các tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế tích cực thực hiện.
Kết quả làsự tăng trưởngnền kinh tế sốkhá mạnh mẽ, tạo ra giá trị lớn cho nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, trong thựchiện chính sách thúc đẩy chuyển đổi số vẫn còn nhiều rào cản như thiếu vốn, thiếu thông tin,nhận thức của các tổ chức doanh nghiệp vềchuyển đổi số cònthấp, sự thiếuhụt lao động có kỹ năng phù hợp hay thiếu phối hợp giữa các cơ quan chức nănglàm giảm khả năng chuyển đổi số thờigian qua./.
Tài liệu tham khảo
Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22tháng 3 năm 2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triểncông nghiệp quốc giađếnnăm 2030, tầmnhìn đến năm 2045.
Cameron A, Pham T H, Atherton J, Nguyen D H, Nguyen T p, Tran s T, Nguyen T N, Trinh H Y &
Hajkowicz s (2019).Vietnam’s future digital econo my - Towards 2030 and 2045. CSIRO, Brisbane.
Quốc Hội (2018), Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14 ban hành ngày 12 tháng 6 năm 2018 và có hiệu lực từ ngày 01tháng 01 năm 2019.
Thủ tướng Chínhphủ (2020), Chỉthị số 01/CT- TTg ban hành ngày 14 tháng01 năm 2020 về thúc đẩy pháttriển doanh nghiệpcôngnghệsố Việt Nam.
Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng chính phủphêduyệtChương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướngđến năm 2030