Hiểu biết về sinh thái học xuất hiện từ rất sớm, ngay từ khi con người ra đời, nhưng sinh thái học chỉ mới trở thành một ngành khoa học thực sự trong khoảng 100 năm trở lại đây. Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, đặc biệt là từ cuối thế kỷ 19, sinh thái học nhanh chóng tiếp cận việc nghiên cứu cấu trúc và hoạt động chức năng của các cấp độ tổ chức cao hơn như quần xã sinh vật và hệ sinh thái. Thái.
ÁNH SÁNG
Nhóm động vật biến nhiệt (ectotherms) trong đó nhiệt độ cơ thể dao động theo sự thay đổi nhiệt độ của môi trường. ĐẤT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẤT ĐẾN SỰ SỐNG CỦA SINH VẬT SỐNG TRONG ĐẤT.
KHÍ QUYỂN VÀ CÁC QUÁ TRÌNH C ỦA NÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
Nói chung, hành vi bẩm sinh dựa trên phản ứng phản xạ vô điều kiện được mã hóa trong hệ thần kinh trung ương và mang tính di truyền. Sự hoàn thiện hành vi gắn liền với sự phát triển của hệ thần kinh và hoạt động của các chất nội tiết. Nhiều loài động vật có xương sống có những hành vi xã hội khác liên quan đến lãnh thổ mà chúng chiếm giữ.
Phản xạ có điều kiện là trạng thái ban đầu của quá trình làm quen với phản xạ hành vi. Đối với nhóm động vật có hạch thần kinh, hành vi của chúng là hoạt động “tự phát”.
ĐỊNH NGHĨA
CÁC TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA QUẦN THỂ
Giá trị tối đa, tức là số lượng quần thể có thể tiếp cận được (K), tương ứng với khả năng chịu đựng của môi trường (V). Nó còn cho biết khoảng cách trung bình giữa các cá thể trong vùng phân bố của quần thể. Mối quan hệ giữa các nhóm tuổi trong dân số tạo nên cơ cấu tuổi.
Tháp tuổi được xây dựng theo 3 nhóm tuổi sinh thái biểu thị tình trạng phát triển dân số (Hình 17). Cơ cấu giới tính được hiểu là tỷ lệ giữa nam và nữ trong một dân số.
Động thái học của quần thể
Tỷ lệ tử vong (tử vong), trái ngược với khả năng sinh sản, làm cho số lượng cá thể trong quần thể giảm đi. Đó là số lượng cá thể trong quần thể chết đi trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ số này rất hữu ích cho việc nghiên cứu biến động dân số.
Tỷ lệ sinh sản là số lượng cá thể mới được tạo ra bởi một quần thể trong một khoảng thời gian. Sự tăng trưởng về số lượng của dân số là không giới hạn nhưng bị giới hạn bởi khả năng sống của môi trường.
Định nghĩa
Tên gọi của quần x ã
Thành phần cấu trúc của quần x ã
Mối quan hệ giữa thành phần loài và số lượng cá thể của mỗi loài. Sống trong một sinh cảnh xác định, mối quan hệ giữa số lượng và số lượng cá thể của mỗi loài là mối quan hệ nghịch đảo: số lượng loài càng đa dạng thì số lượng cá thể của mỗi loài càng ít và ngược lại. Trong quá trình phát triển quần xã, số lượng loài tăng lên nhưng số lượng cá thể của mỗi loài lại giảm đi.
Khi di chuyển từ cực đến xích đạo hoặc từ biển vào bờ, số lượng loài tăng lên nhưng số lượng cá thể của mỗi loài lại giảm đi. Khi đi từ thấp lên cao hoặc từ mặt biển đến đáy biển, số lượng loài cũng như số lượng cá thể của mỗi loài đều giảm đi.
Cấu trúc về không gian
Vì vậy, ở một số nơi loài trở nên quá đông đúc, ở nơi khác loài lại thưa thớt hơn, tạo nên những vùng đặc trưng của nhiều loài. Trong đời sống tập thể, các loài đương nhiên phải cạnh tranh với nhau về không gian và nguồn thức ăn, nhưng chúng cũng giành được những lợi thế cho cuộc sống của mình, chẳng hạn như dựa vào nhau để chống chọi với những bất lợi của môi trường (cơ khí, hóa học, v.v.), và nhờ nhờ mối quan hệ đa dạng giữa các loài, chất dinh dưỡng được tích lũy nhiều hơn và các loài khai thác tài nguyên sống hiệu quả hơn. Hơn nữa, trong quá trình tiến hóa trong quần xã, các loài đã tạo ra khả năng phân chia các ổ sinh thái ở những mức độ có thể, nhằm giảm sự cạnh tranh giữa các loài khi điều kiện sống phổ biến.
Sự phân bố theo chiều dọc của loài được thể hiện ở hiện tượng phân tầng, phân lớp, liên quan đến các kiểu phân bố khác nhau của các yếu tố môi trường. Trong tầng nước cũng xảy ra hiện tượng tương tự đối với thực vật và động vật.
Cấu trúc dinh dưỡng trong quần x ã
Chuỗi thức ăn thẩm thấu: Chuỗi này đặc trưng cho môi trường nước và chất lỏng trong đất có chứa nhiều chất hữu cơ hòa tan. Tất nhiên, điểm khởi đầu của chuỗi thức ăn này là chất hữu cơ hòa tan (CHCHT). Chuỗi thức ăn dư thừa và chuỗi thức ăn thẩm thấu là dẫn xuất của chuỗi thức ăn "chăn thả".
Tập hợp các chuỗi thức ăn của các loài trong quần xã hỗn hợp tạo thành một lưới thức ăn, trong đó một số loài có phổ thức ăn rộng (ăn nhiều loại) đóng vai trò là mắt xích nối các chuỗi thức ăn lại với nhau (ảnh 21). Trường hợp đầu tiên được tìm thấy trong mối quan hệ vật chủ - ký sinh trùng, trong khi trường hợp thứ hai đặc trưng cho chuỗi thức ăn trong nước, bắt đầu từ thực vật nổi hoặc vi sinh vật.
Các mối quan hệ khác loài trong qu ần xã
Mối quan hệ động vật ăn thịt-con mồi là mối quan hệ toàn diện nhất tồn tại trong các quần xã và hệ sinh thái. Trong mối quan hệ kẻ săn mồi - con mồi này, con mồi luôn có kích thước nhỏ nhưng số lượng lớn. Trong quần xã, các loài có quan hệ mật thiết với nhau tạo nên cấu trúc ổn định.
Mối quan hệ giữa các loài trong quần xã bao gồm tương tác tích cực và tương tác tiêu cực. Chủ nghĩa tương sinh là sự phát triển cao nhất của các tương tác tích cực (cộng sinh, hợp tác đơn giản, cộng sinh hoặc tương hỗ), trong đó các loài buộc phải dựa vào nhau để tồn tại.
ĐỊNH NGHĨA VÀ CÁC KHÁI NI ỆM
CÁC THÀNH PH ẦN CẤU TRÚC CỦA HỆ SINH THÁI
Trong khi sử dụng nguồn thức ăn làm năng lượng, chúng biến đổi các vật chất có cấu trúc phức tạp thành các chất vô cơ đơn giản nhất. Về cơ bản, ba thành phần đầu tiên là cộng đồng sinh học và ba thành phần cuối cùng là môi trường vật chất nơi cộng đồng sinh sống. Năng lượng cung cấp cho hai hệ là bức xạ mặt trời (và các dạng thứ cấp khác); Nước ; Các chất dinh dưỡng (chủ yếu là các hợp chất hữu cơ và vô cơ từ môi trường) trong đất, trầm tích đáy và nước; Các sinh vật tự dưỡng và dị dưỡng tạo nên lưới thức ăn.
Hoạt động chức năng của hai hệ thống là như nhau, điểm khác biệt duy nhất là thành phần loài cấu trúc nên hệ thống. Nếu một bộ phận nào đó bị hỏng thì hệ thống sẽ bị hỏng, còn nếu một bộ phận cơ bản nào đó bị tước bỏ thì hệ thống sẽ bị phá hủy hoàn toàn.
HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG CỦA HỆ SINH THÁI
Chu trình vật chất là con đường vòng tròn của sự di chuyển vật chất thông qua chuỗi thức ăn của quần xã sinh vật và môi trường. Diễn thế là quá trình tiến hóa phát triển của một hệ sinh thái từ dạng ban đầu (tiên phong), trải qua các giai đoạn trung gian để đạt đến trạng thái ổn định cuối cùng hoặc giai đoạn cao trào. Những thay đổi về chỉ số sinh thái xảy ra trong quá trình diễn thế.
Hệ sinh thái là sự kết hợp giữa một quần xã sinh học và môi trường vật lý nơi nó tồn tại, trong đó các sinh vật tương tác với nhau và với môi trường để tạo ra các chu trình sinh địa hóa và chuyển hóa năng lượng. Năng lượng từ mặt trời đi vào hệ sinh thái theo dòng và kênh chứ không phải theo chu kỳ.
SINH QUYỂN
CÁC KHU SINH HỌC
Đồng cỏ ôn đới có đặc điểm là lượng mưa thất thường quanh năm và thường xuyên xảy ra cháy rừng; Thảm thực vật chủ yếu là cỏ và cây hàng năm (loài hoàn thành vòng đời và hình thành hạt trong mùa sinh trưởng). Thảm thực vật kiểu Địa Trung Hải phân bố ở những nơi có mùa hè dài, nóng và khô, còn mùa đông ôn hòa với lượng mưa ổn định. Thực vật là loài cây bụi phân bố rộng rãi, phần lớn là loài thích nghi với chế độ khô hạn (giữ nước, tránh hạn hán,...).
Hệ thực vật đa dạng nhất với các loài điển hình như gỗ lim, gỗ gụ, gỗ cẩm lai, gỗ tếch và lat. Động vật, thực vật thủy vực nội địa là loài nước ngọt điển hình và rất đa dạng về chi, thành phần loài.
CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ C ỦA NÓ TRONG SINH QUY ỂN
Kể từ khi ra đời, con người đã dựa vào tài nguyên sinh vật dựa trên việc khai thác tự nhiên và trồng trọt các vật thể có giá trị. Do dân số ngày càng tăng và nhu cầu ngày càng tăng, sự khai thác của con người đang gây ra những hậu quả sinh thái rất nghiêm trọng đối với nguồn tài nguyên tái tạo này. Cùng với sự suy giảm diện tích rừng, hệ sinh thái đất ngập nước và ô nhiễm môi trường, con người đã mất đi nhiều nguồn gen động thực vật, trước hết là mất đi về loài (bảng 5).
Ô nhiễm môi trường đang trở thành mối nguy hiểm cho sự sống trên thế giới và cho con người. Dẫn đến chất lượng cuộc sống của con người bị giảm sút.
CHIẾN LƯỢC CHO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Trong sinh quyển có hàng triệu loài thực vật, động vật và sinh vật, chúng sống ở những môi trường sống, hệ sinh thái khác nhau và thích nghi với những điều kiện môi trường đặc biệt để tạo nên nguồn gen, phong phú về loài. Con người sống trong sinh quyển đã tạo ra nền văn minh của riêng mình nhưng cũng để lại cho sinh quyển những hậu quả sinh thái vô cùng nghiêm trọng. Suy thoái và phá hủy các môi trường sống, hệ sinh thái trên cạn và dưới nước, - Ô nhiễm môi trường nước, đất và không khí,.
Con người gây ra sự suy thoái cho chính cuộc sống của mình Cuộc sống của con người ngày càng xấu đi do Phát triển bền vững không chỉ bao gồm các khía cạnh kinh tế và sinh thái mà còn bao gồm các khía cạnh đạo đức, tức là sự bình đẳng giữa con người với nhau và giữa con người với thế giới sinh học.