• Tidak ada hasil yang ditemukan

CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA BỆNH NHÂN LAO ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA BỆNH NHÂN LAO ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN

CỦA BỆNH NHÂN LAO ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Đức Duy1, Ngô Thanh Bình2, Huỳnh Ngọc Vân Anh3

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Việt Nam nằm trong 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao nhất thế giới. Bệnh nhân lao phải đối mặt với nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Nhằm hưởng ứng mục tiêu chấm dứt bệnh lao vào năm 2030, việc tiến hành nghiên cứu chất lượng cuộc sống (CLCS) và các yếu tố liên quan của bệnh nhân lao là cần thiết.

Mục tiêu: Xác định điểm CLCS và các yếu tố liên quan bằng bảng câu hỏi WHOQoL-BREF.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 308 bệnh nhân lao điều trị nội trú tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Chất lượng cuộc sống được đánh giá qua bộ câu hỏi WHOQoL-BREF và các yếu tố liên quan được thể hiện qua mô hình hồi qui đa biến.

Kết quả: Điểm CLCS là 53,7 ± 10,5, điểm số thấp nhất ở lĩnh vực sức thể chất 46,2 ± 15,1, điểm số cao nhất ở lĩnh vực sức khỏe tâm lí 58,5 ± 12,8. Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống (p <0,05) là nhóm tuổi, học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân, tình trạng chung sống, tình trạng kinh tế và bệnh mạn tính.

Kết luận: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao tương đối thấp, thấp nhất là sức khỏe thể chất, vì vây, chú trọng nâng cao sức khỏe của bệnh nhân có các yếu tố liên quan và thiết kế các bài tập vận động kết hợp trong quá trình điều trị.

Từ khóa: chất lượng cuộc sống, bệnh nhân lao

ABSTRACT

QUALITY OF LIFE AND RELATED FACTORS IN TUBERCULOSIS TREATMENT AT PHAM NGOC THACH HOSPITAL, HCM CITY

Le Duc Duy, Ngo Thanh Binh, Huynh Ngoc Van Anh

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No. 2 - 2022: 301 - 307 Background: Vietnam is among the 30 countries with the highest TB burden in the world. TB patients have to experience many Hệ số gócoblems that affect their quality of life. In order to meet the goal of ending TB by 2030, it is necessary to conduct research on quality of life and related factors of TB patients.

Objectives: Determination of quality of life score and related factors using the WHOQoL-BREF questionnaire.

Method: Cross-sectional study on 308 TB patients inpatient treatment at Pham Ngoc Thach hospital.

Quality of life is assessed through the WHOQoL-BREF questionnaire and related factors are shown through a multivariate regression model.

Result: The QoL score was 53.7 ± 10.5, the lowest score in the physical health area was 46.2 ± 15.1, the highest score in the psychological health area was 58.5 ± 12.8. Factors related to quality of life (p <0.05) are age group, education, occupation, marriage, cohabitation status, economic status and chronic disease.

1Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. HCM 2Bộ môn Lao - Khoa Y, Đại học Y Dược TP. HCM

3Bộ môn Thống kê Y học và Tin học - Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. HCM

Tác giả liên lạc: ThS. Huỳnh Ngọc Vân Anh ĐT: 0909 944 845 Email: [email protected]

(2)

Conclusion: The quality of life of TB patients is relatively low, the lowest is physical health, therefore, focusing on imHệ số gócoving the patient's health has related factors and designing combined motor exercises in the treatment course.

Keywords: quality of life, TB patient

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh lao là một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm tác động tiêu cực đến sức khỏe dân số, là 1 trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước có nền kinh tế thấp và trung bình thấp(1). Việt Nam hiện nay vẫn nằm trong 30 nước có gánh nặng bệnh lao cao nhất thế giới, ước tính năm 2019, Việt Nam có 170.000 ca mắc lao và 9.400 người tử vong do lao(2).

Bệnh nhân lao phải đối mặt với nhiều vấn đề gây cản trở quá trình điều trị và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân(3,4). Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao thông qua các bộ công cụ như GHQ 12(5), SF-36(6), WHOQoL-BREF(3,7).

Bộ công cụ WHOQoL-BREF (đánh giá CLCS theo tổ chức Y tế Thế giới- Bản rút gọn) sẽ hữu ích nhất trong các nghiên cứu yêu cầu đánh giá ngắn gọn về chất lượng cuốc sống. Tính đến năm 2020, bộ công cụ đã được chuẩn hóa cho 76 quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam(8). Tại Việt Nam, bộ công cụ WHOQoL-BREF đã được sử dụng để đánh giá chất lượng cuộc sống trên nhiều lĩnh vực cho thấy độ tin cậy của công cụ trong việc đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao .

Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là một trong những bệnh viện được phân công khám và chữa bệnh chuyên khoa Lao và Bệnh Phổi các tỉnh Miền Nam. Trong 9 tháng đầu năm 2020, số người xét nghiệm đàm phát hiện lao tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là 130.172 (chiếm 1,6%

dân số cả nước)(9). Là một trong những bệnh viện hàng đầu trong việc khám và điều trị bệnh lao, chúng tôi nghĩ việc tiến hành nghiên cứu chất lượng cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân lao tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là điều cần thiết để góp phần vào việc nâng cao hiệu quả điều trị.

Mục tiêu

Xác định điểm CLCS theo thang đo WHOQoL-BREF và các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao điều trị nội trú tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.

ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng nghiên cứu

Bệnh nhân lao từ 18 tuổi trở lên đang điều trị nội trú tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.

Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang.

Cỡ mẫu

Được tính dựa vào công thức thức ước lượng giá trị trung bình Dựa theo nghiên cứu của tác giả Sartika I(7) tiến hành tại Indonesia năm 2015, điểm chất lượng cuộc sống là 45,3 ± 23,3, chúng tôi chọn sai số biên d là 2,6 và kết quả ước lượng cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 308. Chúng tôi thực hiện phương pháp chọn mẫu liên tiếp. Sau khi tiếp cận và giải thích mục tiêu của nghiên cứu, những bệnh nhân đang điều trị nội trú tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được ký văn bản đồng ý tham gia và được hỏi những câu hỏi liên quan đến chất lượng cuộc sống bằng thang đo chất lượng sống theo Tổ chức y tế Thế giới (WHOQoL BREF).

Bộ công cụ

Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn bao gồm những thông tin về đặc điểm dân số (11 câu), tình trạng bệnh lí của bệnh nhân (6 câu) và những câu hỏi về chất lượng cuộc sống theo WHOQoL-BREF. Bộ câu hỏi về chất lượng cuộc sống gồm 26 câu ở 4 lĩnh vực bao gồm: thể chất, tâm lí, quan hệ xã hội và môi trường sống.

Thang điểm đánh giá sẽ được qui đổi qua thang điểm 100 theo bảng chuyển đổi của WHO, điểm

(3)

càng cao thì chất lượng cuộc sống càng tốt(10). Phân tích thống kê

Sử dụng tần số và tỉ lệ phần trăm để mô tả cho các biến về đặc điểm dân số xã hội (như nhóm tuổi, giới tính, dân tộc, nơi sinh, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, tình trạng chung sống, tình trạng kinh tế), bệnh mạn tính đi kèm, phân loại chẩn đoán lao, chất lượng cuộc sống tự đánh giá và mức độ hài lòng sức khỏe của bản thân. Điểm chất lượng cuộc sống được mô tả bằng trung bình và độ lệch chuẩn.

Mô hình hồi qui tuyến tính đa biến được sử dụng trong nghiên cứu để xác định các yếu tố thực sự có liên quan đến CLCS. Các phép kiểm được xem là có ý nghĩa thống kê khi p <0,05.

Y đức

Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số: 107/ĐHYD-HĐĐĐ ngày 4/02/2021 và của bệnh viện Phạm Ngọc Thạch số 458/PNT-HĐĐĐ ngày 16/4/2021.

KẾT QUẢ

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 4/2021 đến tháng 5/2021 tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Có 309 bệnh nhân tiếp cận được và tất cả đều đồng ý tham gia nghiên cứu, tuy nhiên có 1 bệnh nhân chưa đủ 18 tuổi nên kết quả nghiên cứu được phân tích trên 308 bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu.

Đặc tính chung của mẫu nghiên cứu

Trong số 308 bệnh nhân, tỉ lệ tham gia của nam giới cao hơn nữ giới, độ tuổi trung bình tham gia nghiên cứu là 47,7 ± 15,8 tuổi, tuổi nhỏ nhất 19 và tuổi lớn nhất là 91 tuổi. Phần lớn đối tượng nghiên cứu tập trung trong độ tuổi <60 tuổi, chiếm tỉ lệ 74,0%. Dân tộc kinh chiếm 89,6%. Về tôn giáo, có 58,4% đối tượng không theo tôn giáo nào, 26% đối tượng theo Phật giáo, 15,6% theo tôn giáo khác. Dân số trong nghiên cứu chủ yếu sống ở thành thị, chiếm 64,9%, đối tượng sống ở vùng nông thôn chiếm 35,1% (Bảng 1).

Bảng 1. Một số đặc điểm dân số của bệnh nhân lao (n=308)

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Giới tính Nam

Nữ

220 88

71,4 38,6

Tôn giáo Không tôn giáo

Phật giáo Khác

180 80 48

58,4 26,0 15,6 Nhóm tuổi

<60 tuổi

≥60 tuổi

228 80

74,0 26,0

Nơi sinh sống Thành thị Nông thôn

200 108

64,9 35,1 Dân tộc

Kinh Khác

276 32

89,6 10,4

Bảng 2. Đặc điểm kinh tế xã hội của bệnh nhân lao (n=308)

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Trình độ học vấn Dưới cấp I/mù chữ

Cấp I/cấp II Từ cấp III trở lên

68 89 151

22,1 28,9 49,0

Sống với người thân

Không

265 43

86,0 14,0 Nghề nghiệp

Nghỉ hưu/Nội trợ/Thất nghiệp Nông dân/Công nhân

Tự do/Buôn bán Nhân viên văn phòng

98 86 82 42

31,8 27,9 26,6 13,7

Người chăm sóc Không

214 94

69,5 30,5 Tình trạng hôn nhân

Kết hôn Độc thân /Li hôn/Góa

211 97

68,5 31,5

Tình trạng kinh tế Khó khăn Không khó khăn

43 265

14,0 86,0

(4)

Người bệnh có trình độ học vấn từ cấp III trở lên chiếm tỉ lệ cao nhất là 49,0%. Nhóm nghề nghiệp nghỉ hưu/nội trợ/thất nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất (31,8%) trong nhóm nghề nghiệp. Các đối tượng tham gia nghiên cứu chủ yếu đã kết hôn với tỉ lệ 68,5%. Nhóm đối tượng sống chung với người thân chiếm 86,0%. Bệnh nhân có người chăm sóc chiếm 69,5%. Về tình trạng kinh tế, nhóm có tình trạng kinh tế khó khăn chiếm tỉ lệ thấp nhất với 14,0% (Bảng 2).

Bảng 3. Quá trình điều trị bệnh lao (n=308)

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ

(%) Đặc điểm Tần số Tỉ lệ

(%) Phân loại chẩn

đoán Lao phổi Lao ngoài phổi

244 64

79,2 20,8

Tình trạng lao ABF (+)

Không

122 186

39,6 60,4 Giai đoạn điều trị

Bắt đầu điều trị Giai đoạn tấn công

Giai đoạn cũng cố 52 252

4 16,9 81,8 1,3

Lao kháng thuốc

Không

38 270

12,3 87,7

Tỉ lệ đối tượng được chẩn đoán lao phổi chiếm tỉ lệ đa số với 79,2%, lao ngoài phổi chiếm 20,8%. Đối tượng trong nhóm giai đoạn bắt đầu điều trị chiếm tỉ lệ 16,9%, nhóm giai đoạn tấn công chiếm tỉ lệ cao nhất với 81,8%, nhóm đối tượng trong giai đoạn cũng cố chiếm 1,3%.

Nhóm đối tượng có kết quả xét nghiệm AFB(+) chiếm tỉ lệ 39,6%. Nhóm đối tượng có tình trạng lao kháng thuốc chiếm tỉ lệ 12,3% (Bảng 3).

Bảng 4. Các bệnh mạn tính tìm thấy trong nghiên cứu (n=158)

Đặc điểm Tần số

Tỉ lệ

(%) Đặc điểm Tần số

Tỉ lệ (%) Các bệnh kèm

Tăng huyết áp Đái tháo đường Bệnh xương khớp Bệnh phổi mạn tính

95 43 28 20

30,8 14,0 9,1 6,5

HIV/AIDS Viêm gan Suy thận

16 13 7

5,2 4,2 2,3

Trong bệnh mạn tính kèm theo, các bệnh lí chiếm đa số là: tăng huyết áp, đái tháo đường, HIV/AIDS, bệnh phổi mạn tính với tỉ lệ lần lượt là 30,8%, 14,0%, 9,1% và 6,5% (Bảng 4).

Chất lƣợng cuộc sống của bệnh nhân lao Bảng 5. Chất lượng cuộc sống tự đánh giá của bệnh nhân lao (n=308)

Đặc điểm Tần số

Tỉ lệ

(%) Đặc điểm Tần số

Tỉ lệ (%) CLCS

Rất kém Kém Bình thường

Tốt

23 76 183

26 7,5 24,7 59,4 8,4

Mức độ hài lòng về sức khỏe Rất không hài lòng

Không hài lòng Bình thường

Hài lòng

41 170

96 1

13,3 55,2 31,2 0,3

Có 59,4% đối tượng tham gia nghiên cứu đánh gía CLCS của mình bình thường chiếm tỉ lệ cao nhất, tỉ lệ bệnh nhân đánh giá CLCS tốt chỉ đạt 8,4%. Đa số đối tượng đều không hài lòng về sức khỏe bản thân, chiếm tỉ lệ 55,2%. Tỉ lệ bệnh nhân hài lòng với sức khỏe của mình chỉ đạt 0,3% (Bảng 5).

Bảng 6. Điểm thang đo CLCS theo thang đo WHOQoL-BREF (n=308)

Đặc tính TB ± ĐLC Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

Thể chất 46,2 ± 15,1 6,0 75,0

Tâm lí 58,5 ± 12,8 31,0 94,0

Quan hệ xã hội 53,0 ± 11,3 25,0 75,0 Môi trường sống 57,1 ± 11,3 31,0 81,0

Điểm CLCS 53,7 ± 10,5 29,5 78,3

Kết quả cho thấy, điểm CLCS chung của bệnh nhân lao trong nghiên cứu là 53,7 ± 10,5.

Trong đó, lĩnh vực sức khỏe thể chất có điểm thấp nhất là 46,2 ± 15,1 và lĩnh vực sức khỏe tâm lí có số điểm cao nhất là 58,5 ± 12,8. Số điểm của các lĩnh vực quan hệ xã hội và môi trường sống lần lượt là 53,0 ± 11,3 và 57,1 ± 11,3 (Bảng 6).

Bảng 7. Các yếu tố liên quan đến CLCS và các lĩnh vực (n=308)

Đặc điểm

Thể chất Tâm lí Quan hệ xã hội Môi trường sống CLCS Hệ số hồi qui

(KTC 95%)

Hệ số hồi qui (KTC 95%)

Hệ số hồi qui (KTC 95%)

Hệ số hồi qui (KTC 95%)

Hệ số hồi qui (KTC 95%) Nhóm tuổi

≥60 tuổi

-8,7 (-12,4 – -5,0)***

-6,7

(-10,0 – -3,3) *** -2,1 (-6,1 – 1,9) -2,7 (-5,9 – 0,5) -5,0 (-7,7 – -2,4)***

Học vấn Dưới cấp I/mù chữ

Cấp I/cấp II Từ cấp III trở lên

5,1 (1,7 – 8,6)**

8,6 (5,0 –12,2)***

4,1 (0,9 – 7,2)*

6,9 (3,6 – 10,2)***

1,9 (-1,8 – 5,6) 6,7 (2,8 – 10.6)**

2,6 ( -0,3 – 5,6) 7,9 (4,7 –11,1)***

3,4 (1,0 – 5,9)**

7,5 (4,9 – 10,1)***

(5)

Đặc điểm

Thể chất Tâm lí Quan hệ xã hội Môi trường sống CLCS Hệ số hồi qui

(KTC 95%)

Hệ số hồi qui (KTC 95%)

Hệ số hồi qui (KTC 95%)

Hệ số hồi qui (KTC 95%)

Hệ số hồi qui (KTC 95%) Nghề nghiệp

Nhân viên văn phòng Nông dân/Công nhân Nghỉ hưu/nội trợ/thất

nghiệp Tự do/buôn bán

-2,6 (-6,2 – 1,1) -7,0 (-11,0 – -

3,0)***

-3,2 (-6,9 – 0,5)

-4,3 (-7,7 – -0,9)*

-4,3 (-7,9 – -0,6)*

-3,4 (-6,8 – 0,0)

-8,1 (-12,1 – - 4,1)***

-3,9 (-8,2 – 0,4) -5,2 (-9,2 – -1,2)**

-7,4 (-10,6 – -4,2)***

-4,7 (-8,1 – -1,1)*

-2,4 (-5,6– 0,8)

-5,6 (-8,2 – -3,0)***

-5,0 (-7,8 – -2,1)**

-3,6 (-6,2 – -0,9)**

Tình trạng hôn nhân

Độc thân/li hôn/góa -4,3 ( -7,6 – -1,1)* -4,4 (-7,4 – -1,4)** -2,7 (-6,2 – 0,9) -3,8 ( -6,7 – -0,9)** -3,8 (-6,1 – -1,5)**

Sống chung với người thân

-6,3 (-10,9 – -1,7)**

-7,4

(-11,7 – -3,2)** 2,0 (-3,0 – 6,9) -6,8 (-10,8 – -2,7)** -5,6 (-8,9 – -2,3)**

Tình trạng kinh tế

Khó khăn -1,6 (-4,7 – 1,5) -4,9 (-7,8 – 2,0)** -4,2 (-7,7 – -0,8)* -11,0 (-13,7 – -8,2)***

-5,4 (-7,7 – -3,2)***

Bệnh mạn tính

-7,5

(-10,1 – -4,9)*** -6,8 (-9,1 – -4,4)*** -0,7 (-3,5 – 2,1) -1,5 (-3,8 – 0,7) -4,1 (-6,0 – -2,3)***

*: p <0,05 **: p <0,01 ***: p <0,001 Mô hinh hồi qui tuyến tính đa biến chỉ ra các yếu tố liên quan đến CLCS và các lĩnh vực, các yếu tố liên quan bao gồm: nhóm tuổi, học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, sống chung với người thân, tình trạng kinh tế và bệnh mạn tính. Tuổi càng cao CLCS càng giảm. Trình độ học vấn tỉ lệ thuận với CLCS.

Những bệnh nhân trong nhóm độc thân/li hôn/góa có CLCS giảm. Những bệnh nhân có kinh tế khó khăn hoặc mắc bệnh mạn tính kèm theo có CLCS giảm (Bảng 7).

BÀN LUẬN

Kết quả điểm CLCS trên cả 4 lĩnh vực của thang đo WHOQoL-BREF mà nghiên cứu thu được là 53,7 ± 10,5. Nhìn chung kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Sartika I thực hiện ở Indonesia trên cùng đối tượng bệnh nhân lao được đánh giá trên thang đo WHOQoL-BREF (45,3 ± 25,3)(7).

Xét trong 4 lĩnh vực, lĩnh vực có điểm số cao nhất là sức khỏe tâm lí (58,5 ± 12,8) và điểm lĩnh vực thấp nhất là sức khỏe thể chất (46,2 ± 15,1).

Kết quả sức khỏe thể chất có điểm thấp nhất phù hợp với kết quả của nghiên cứu Sartika I(7), nghiên cứu của Aggarwal AN(11). Sự tương đồng của các nghiên cứu cho thấy việc mắc lao ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe thể chất của người

bệnh. Mặt khác, lĩnh vực sức khỏe tâm lí có điểm số cao nhất, kết quả này tương tự với kết quả của nhóm tác giả Sartika I(7), tuy nhiên lại khác với 2 nghiên cứu của tác giả Adeyeye OO(3) và tác giả Aggarwal AN(11). Nghiên cứu của Adeyeye OO trên 260 bệnh nhân lao cho thấy điểm số trên lĩnh vực quan hệ xã hội cao nhất trong 4 lĩnh vực (70,8 ± 18,1)(3). Còn nghiên cứu của tác giả Aggarwal AN cũng cho thấy điểm lĩnh vực quan hệ xã hội cao nhất trong 4 lĩnh vực (59,0 ± 17,3)(11). Sự khác biệt này có lẽ là do mỗi quốc gia có một mức sống, môi trường sống khác nhau, nền kinh tế và sự phát triển khác nhau. Vì vậy, sẽ gây ra sự khác biệt trong phân bố điểm số CLCS khi đánh giá trên 4 lĩnh vực riêng biệt.

Ở phần câu hỏi tự đánh giá bản thân, có 59,4% đối tượng đánh giá CLCS của mình ở mức độ bình thường và có 55,2% không hài lòng về sức khỏe của bản thân. Kết quả này phù hợp với điểm số ở lĩnh vực sức khỏe thể chất thấp nhất trong tất cả lĩnh vực.

Các yếu tố liên quan đến CLCS

Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa nhóm tuổi của người bệnh và các lĩnh vực của thang đo như sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm lí và CLCS. Cụ thể điểm số ở nhóm dưới 60 tuổi cao hơn nhóm từ 60 trở lên. Nghiên cứu của

(6)

Darvishpoor KA(12) và Kittikraisak W(13) nói về bệnh lao cũng nhận thấy tuổi càng lớn chất lượng cuộc sống của bệnh nhân càng giảm.

Trình độ học vấn của người bệnh càng cao, CLCS của người bệnh càng tốt. Trình độ học vấn càng cao, con người có ý thức hơn trong việc chăm sóc bản thân dẫn đến việc tăng cường sức khỏe thể chất. Mặt khác, giáo dục dẫn đến cải thiện về tình trạng việc làm, các vấn đề xã hội và tài chính làm giảm bớt tâm lí lo lắng của người bệnh, tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế(12,14,15).

Nghề nghiệp của bệnh nhân có mối liên quan với CLCS ở mọi lĩnh vực. Cụ thể là nhóm nghỉ hưu/nội trợ/thất nghiệp có điểm CLCS thấp nhất ở hầu hết các lĩnh vực. Có thể giải thích rằng sự suy giảm sức khỏe thể chất làm giảm khả năng lao động của người bệnh đồng thời mắc bệnh truyền nhiễm khiến họ ít có cơ hội được tuyển dụng(3,11,14,15).

Tình trạng hôn nhân, tình trạng chung sống tác động đến CLCS ở hầu hết các lĩnh vực ngoại trừ lĩnh vực quan hệ xã hội. Cụ thể là nhóm độc thân/li hôn/góa có điểm chất lượng cuộc sống thấp hơn nhóm đã kết hôn. Kết quả này có thể giải thích là do những người trong nhóm độc thân/li hôn/góa là người già nên điểm chất lượng cuộc sống trung bình thấp hơn nhóm kết hôn(3,6,16).

Nghiên cứu cũng chỉ ra có mối liên quan giữa tình trạng kinh tế với CLCS ở hầu hết các lĩnh vực, ngoại trừ lĩnh vực sức khỏe thể chất.

Kết quả tương đồng với các nghiên cứu(3,15). Mặc dù được cấp thuốc miễn phí nhưng do quá trình điều trị kéo dài nhiều chi phí phát sinh, việc này ảnh hưởng đến những người có tình trạng kinh tế khó khăn do vừa điều trị bệnh vừa phải suy nghĩ cách trang trải cuộc sống. Những người này thường dành thời gian cho việc để trang trải cuộc sống và công việc của họ thường nặng nhọc hơn nên có thể giải thích vì sao lĩnh vực quan hệ xã hội và môi trường sống của họ thấp hơn nhóm khác.

Bệnh mạn tính có liên quan hầu hết với các

lĩnh vực của thang đo CLCS. Những người mắc bệnh mạn tính kèm theo có CLCS thấp hơn những người không mắc bệnh mạn tính. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Đỗ Phúc Như Nguyện(14). Các bệnh mạn tính cùng tồn tại, có nhiều khả năng làm CLCS(17).

Điểm mạnh trong nghiên cứu của chúng tôi là sử dụng thang đo chuẩn hóa, có độ tin cậy cao và tính giá trị cao. Nghiên cứu góp phần khẳng định lại các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS của bệnh nhân lao. Tuy nhiên, đây chỉ là một nghiên cứu cắt ngang nên không thể suy luận ra quan hệ nhân quả giữa các yếu tố liên quan với CLCS của bệnh nhân và nghiên cứu chưa có nhóm chứng để so sánh. So với nghiên cứu của tác giả Đỗ Phúc Như Nguyện(14) cùng tiến hành tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch thì cỡ mẫu của chúng tôi lơn hơn và sử dụng thang đo WHOQoL-BREF.

Ngoài những điểm giống nhau trong mối liên quan giữa CLCS với các đặc điểm dân số, kinh tế xã hội và bệnh mạn tính kèm theo, chúng tôi chưa tìm ra được mối quan hệ giữa CLCS với quá trình điều trị bệnh lao như trong nghiên cứu của tác giả Như Nguyện.

KẾT LUẬN

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao còn thấp. Các yếu tố có liên quan đến CLCS và các lĩnh vực là nhóm tuổi, học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, chung sống với người thân, tình trạng kinh tế và bệnh mạn tính.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. World Health Organization (2020). The top 10 the causes of death, https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/the- top-10-causes-of-death, accessed on 24 Nov 2021.

2. World Health Organization (2020). Global tuberculosis report 2020, https://www.who.int/publications/i/item/9789240013131, accessed on 24 Nov 2021.

3. Adeyeye OO, Ogunleye OO, Coker A, et al (2014). Factors Influencing Quality of Life and Predictors of Low Quality of Life Scores in Patients on Treatment for Pulmonary Tuberculosis: A Cross Sectional Study. J Public Health Afr, 5(2):366

4. Datta S, Gilman RH, Montoya R, et al (2020). Quality of life, tuberculosis and treatment outcome; a case-control and nested cohort study. Eur Respir J, 56(2):1900495.

5. Aydin IO, Uluşahin A (2001). Depression, anxiety comorbidity, and disability in tuberculosis and chronic obstructive pulmonary disease patients: applicability of GHQ-12. Gen Hosp Psychiatry, 23(2):77-83.

(7)

6. Mamani M, Majzoobi MM, Ghahfarokhi SM, Esna-Ashari F, Keramat F (2014). Assessment of Health-related Quality of Life among Patients with Tuberculosis in Hamadan, Western Iran.

Oman Med J, 29(2):102-105.

7. Sartika I, Insani WN, Abdulah R (2019). Assessment of Health- Related Quality of Life among Tuberculosis Patients in a Public Primary Care Facility in Indonesia. J Glob Infect Dis, 11(3):102- 106.

8. World Health Organization (2020). WHOQOL: Measuring

Quality of Life. URL:

https://www.who.int/tools/whoqol/whoqol-bref.

9. Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (2020). Chương trình phòng chống lao: Hội nghị Sơ kết hoạt động 9 tháng đầu năm 2020.

URL: https://hcdc.vn/category/van-de-suc-khoe/chuong-trinh- phong-chong-lao-hoi-nghi-so-ket-hoat-dong-9-thang-dau-nam- 2020-82312cafef8d971131463ff3454aebbc.html.

10. World Health Organization (1996). Whoqol-Bref Introduction, Administration, Scoring And Generic Version Of The

Assessment. URL:

https://www.who.int/mental_health/media/en/76.pdf.

11. Aggarwal AN, Gupta D, Janmeja AK, Jindal SK (2013).

Assessment of health-related quality of life in patients with pulmonary tuberculosis under programme conditions. Int J Tuberc Lung Dis, 17(7):947-953.

12. Darvishpoor KA, Masjedi MR (2015). Factors Associated with Health-Related Quality of Life in Tuberculosis Patients Referred to the National Research Institute of Tuberculosis and Lung Disease in Tehran. Tuberc Respir Dis, 78(4):309-314.

13. Kittikraisak W, Kingkaew P, Teerawattananon Y, et al (2012).

Health related quality of life among patients with tuberculosis and HIV in Thailand. PLoS ONE, 7(1):e29775.

14. Đỗ Phúc Như Nguyện (2019). Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao đang điều trị tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2017. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 23(5):490.

15. Chung WS, Lan YL, Yang MC (2012). Psychometric testing of the short version of the world health organization quality of life (WHOQOL-BREF) questionnaire among pulmonary tuberculosis patients in Taiwan. BMC Public Health, 12:630.

16. Louw J, Peltzer K, Naidoo P et al (2012). Quality of life among tuberculosis (TB), TB retreatment and/or TB-HIV co-infected primary public health care patients in three districts in South Africa. Health Qual Life Outcomes, 10:77.

17. Megari K (2013). Quality of Life in Chronic Disease Patients.

Health Psychol Res, 1(3):e27.

Ngày nhận bài báo: 28/11/2021

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022

Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022

Referensi

Dokumen terkait