TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN LAO ĐANG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH NĂM 2021
Danh Thanh Đồng1, Lê Nữ Thanh Uyên1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lao là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới, để lại nhiều hậu quả nặng nề cho bản thân bệnh nhân, gia đình và xã hội. Để thực hiện mục tiêu chấm dứt bệnh lao vào năm 2030 thì tuân thủ điều trị là vấn đề tiên quyết.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tuân thủ điều trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân lao đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2021.
Đối tượng và hương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 04/2021 đến tháng 05/2021 trên bệnh nhân lao đang điều trị tại Khoa Khám và điều trị ngoại trú bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Bệnh nhân lao từ đủ 18 tuổi trở lên đang điều trị ngoại trú tối thiểu 01 tháng được phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt dựa trên bộ câu hỏi soạn sẵn. Thông tin thu thập bao gồm: đặc điểm nền, tình trạng bệnh, gắn kết gia đình, tuân thủ điều trị.
Kết quả: Tổng cộng có 198 bệnh nhân lao tham gia nghiên cứu. Tỉ lệ tuân thủ điều trị ở mức cao theo thang đo MMAS-8 là 43,4%. Các yếu tố liên quan bao gồm: nhóm tuổi, nhóm nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, tình trạng sử dụng rượu bia, tình trạng hút thuốc lá, tác dụng phụ và gắn kết gia đình.
Kết luận: Tỉ lệ tuân thủ điều trị ở mức cao theo thang đo MMAS-8 còn thấp. Cần quan tâm nhiều hơn đến việc dùng thuốc của bệnh nhân lao, đặc biệt ở những bệnh nhân lớn tuổi, làm các nghề tự do/buôn bán, đã kết hôn, đang hoặc đã sử dụng rượu bia, thuốc lá, gặp tác dụng phụ khi dùng thuốc, có gia đình gắn kết không tốt hoặc không gắn kết.
Từ khóa: tuân thủ điều trị, bệnh lao, Morisky, MMAS-8
ABSTRACT
ADHERENCE AND ASSOCIATED FACTORS AMONG OUT-PATIENTS WITH TUBERCULOSIS AT PHAM NGOC THACH HOSPITAL, HO CHI MINH CITY, IN 2021
Danh Thanh Dong, Le Nu Thanh Uyen
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No. 2 - 2022: 242 - 248 Backgrounds: Tuberculosis (TB) is one of the leading causes of death worldwide, with severe consequences for themselves, their families and society. To achieve the goal of ending TB by 2030, adherence is a prerequisite.
Objectives:To identify the proportion of adherence and associated factors among out-patients with tuberculosis at Pham Ngoc Thach Hospital.
Methods: A cross-sectional survey was conducted from April to June 2021 on 198 TB patients being treated at Department of Examination and Out-patient treatment at Pham Ngoc Thach Hospital. All eligible subjects to participate in the study will be collected by face to face interviews through structured questionaire. Tuberculosis adherence was measured by using the MMAS-8 scale and the cut-off > 8 was identified with high adherence.
Results:The results showed that the proportion of high adherence by MMAS-8 scale was 43.4%,. The prevalence of high adherence was associated with age group, educational level, occupational, marital status,
1Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Nữ Thanh Uyên ĐT: 0903313539 Email: [email protected]
alcohol use status, smoking status, side effects and family bonding.
Conclusions: The prevalence of TB high adherence was still low by the MMAS-8 scale. More attention should be interested to the drug use of TB patients, especially in patients who were elderly, self-employed, married, used alcohol, smoking, had side effects, poor family bonding or non-bonding.
Keywords: adherence, tuberculosis, morisky, MMAS-8
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ nhiều năm nay, lao luôn là một trong mười nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới. Theo báo cáo từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong năm 2019 thế giới có khoảng 10 triệu người đang bị bệnh lao, 1,4 triệu người tử vong vì bệnh lao và 500 nghìn người mắc lao kháng thuốc. Việt Nam vẫn là nước có gánh nặng bệnh lao cao. Trong năm 2019, Việt Nam ghi nhận khoảng 170 nghìn người mắc bệnh lao, 11,4 nghìn người tử vong do bệnh lao, và 8,4 nghìn người là lao kháng thuốc(1). Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất Việt Nam và là trung tâm điều hành lao và lao kháng thuốc khu vực phía Nam Việt Nam. Trong 9 tháng đầu năm 2020, số người xét nghiệm đàm phát hiện lao là 130.172 người (chiếm 1,55% dân số). Nguồn lây được phát hiện toàn thành phố là: 10.047 người(2).
Lao kháng thuốc (MDR-TB) tiếp tục là vấn đề đe dọa đến sức khỏe cộng đồng. Trong khi 85% trường hợp lao trên thế giới có thể điều trị khỏi, nhưng chỉ 57% trường hợp lao đa kháng thuốc được điều trị thành công(1). Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng vi khuẩn lao đề kháng với thuốc là sự không tuân thủ điều trị từ người bệnh. Không tuân thủ điều trị còn dẫn đến nguy cơ thất bại điều trị, thời gian điều trị kéo dài, tái phát bệnh và thậm chí là tử vong(3). Tỉ lệ không tuân thủ điều trị qua các nghiên cứu trên thế giới dao động từ 24,7% đến 58,2%(4,5,6,7,8); còn tại Việt Nam, tỉ lệ không tuân thủ điều trị dao động từ 20,2% đến 63,6%(9,10,11,12,12).
Để thực hiện mục tiêu chấm dứt bệnh lao vào năm 2030 trong Hội nghị “Hưởng ứng ngày thế giới phòng chống Lao 24/3/2020” thì việc tuân thủ điều trị là vấn đề tiên quyết góp phần đạt được mục tiêu đó. Bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch là bệnh viện hạng I, trực thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, đây là bệnh viện đầu ngành, phụ trách chỉ đạo trong lĩnh vực chữa bệnh cho chuyên khoa Lao và bệnh phổi tại miền Nam Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch nhằm xác định tỉ lệ tuân thủ điều trị và các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị ở bệnh nhân lao năm 2021.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuNghiên cứu được thực hiện tại Khoa Khám và điều trị ngoại trú bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ tháng 04 năm 2021 đến tháng 05 năm 2021. Tất cả các bệnh nhân lao từ đủ 18 tuổi trở lên đang điều trị tối thiểu 01 tháng có mặt tại thời điểm nghiên cứu; không gặp các vấn đề về trí nhớ, ngôn ngữ và các bệnh lý rối loạn nhận thức được mời tham gia nghiên cứu.
Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỉ lệ:
Trong đó:
N: cỡ mẫu nghiên cứu; Z(1–α/2)=1,96; α=0,05;
d=0,07; p=0,457 (Dựa vào nghiên cứu của Chen X(8) có tỉ lệ người bệnh tuân thủ điều trị cao theo thang đo MMAS-8 là 45,7%). Thay vào công thức tính cỡ mẫu, ta được N ≈ 195.
Vậy cỡ mẫu tối thiểu là 195 người.
Phương pháp thực hiện Chọn mẫu thuận tiện.
Nghiên cứu viên sẽ tiếp cận bất kỳ bệnh nhân lao đến điều trị tại khoa Khám và điều trị ngoại trú bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Sau khi giới thiệu bản thân, mục đích nghiên cứu, tính bảo mật. Nếu bệnh nhân thỏa tiêu chí đưa vào và đồng ý tham gia nghiên cứu thì nghiên cứu viên bắt đầu phỏng vấn mặt đối mặt theo bảng câu hỏi soạn sẵn. Nếu bệnh nhân không đồng ý tham gia, người phỏng vấn sẽ tiếp cận bệnh nhân khác trong cùng khoa cho đến khi đạt cỡ mẫu đã tính.
Bộ câu hỏi dùng để phỏng vấn gồm 4 phần:
Đặc điểm nền (gồm: giới tính, năm sinh, dân tộc, tôn giáo, nơi ở hiện tại, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, tình trạng chung sống, tình trạng kinh tế, sử dụng rượu bia, hút thuốc lá); Tình trạng bệnh (gồm: bệnh kèm theo, chẩn đoán lao hiện tại, tiền căn lao, tình trạng lao kháng thuốc, tác dụng phụ, thời gian điều trị lao); Gắn kết gia đình (dùng thang đo gắn kết gia đình APGAR, gồm 3 giá trị: Không gắn kết, gắn kết không tốt, gắn kết tốt); Tuân thủ điều trị (Dùng thang đo tuân thủ dùng thuốc MMAS-8, gồm 3 giá trị: tuân thủ điều trị cao, trung bình, thấp). Tổng điểm MMAS-8 dao động từ 0 – 8 điểm. Các tiêu chí chấm điểm được lấy từ chủ sở hữu thang điểm và các điểm cắt được xác định trước bởi tác giả thang đo: Morisky, mức độ tuân thủ có thể được phân loại là cao (=8 điểm), trung bình (6 – <8 điểm) và thấp (<6 điểm)(7). Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu tập trung vào việc đo lường tuân thủ điều trị cao; vì vậy, tuân
thủ thuốc được xếp vào hai nhóm mức độ: cao và không cao (gồm trung bình và thấp)(10).
Phân tích thống kê
Số liệu được nhập từ phần mềm Epidata 3.1 và xử lý bằng STATA 14.2.
Xác định mối liên quan của đặc điểm nền, tình trạng bệnh, gắn kết gia đình với tuân thủ điều trị: dùng kiểm định chi bình phương (χ2).
Nếu có trên 20% các ô có vọng trị dưới 5 hoặc bất kỳ ô nào có vọng trị dưới 1 thì dùng kiểm định chính xác Fisher.
Ước lượng mối liên quan bằng tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR), có ý nghĩa thống kê với p <0,05 và khoảng tin cậy 95% không chứa giá trị 1.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, số 102/HĐĐĐ- ĐHYD kí ngày 17/02/2021 và của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, số 449/PNT-HĐĐĐ kí ngày 15/04/2021.
KẾT QUẢ
Có 200 bệnh nhân lao được tiếp cận, 2 bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu, số mẫu được thu thập và phân tích là 198 bệnh nhân. Đặc điểm nghiên cứu của các bệnh nhân lao và các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê được trình bày ở các Bảng 1, 2, 3.
Bảng 1. Đặc điểm nền của bệnh nhân lao (N=198)
Đặc tính Tần số Tỉ lệ % Đặc tính Tần số Tỉ lệ %
Giới tính Nam 111 56,1
Tình trạng kinh tế
Khá giả 15 7,6
Nữ 87 43,9 Đủ sống 163 82,3
Nhóm tuổi
18 – 29 tuổi 44 22,2 Khó khăn 20 10,1
30 – 60 tuổi 125 63,1
Tình trạng chung sống
Gia đình 181 91,4
Trên 60 tuổi 29 14,7 Một mình 9 4,6
Dân tộc Kinh 188 94,9 Khác 8 4,0
Tôn giáo Không 121 61,1
Tình trạng kết hôn
Đã kết hôn 133 67,2
Có 77 38,9 Độc thân 39 19,7
Nơi ở Thành thị 115 58,1 Có bạn tình 6 3,0
Nông thôn 83 41,9 Ly hôn/ly thân 13 6,6
Trình độ học vấn ≤ THCS 111 56,1 Góa 7 3,5
> THCS 87 43,9 Tình trạng sử dụng Chưa từng 83 41,9
Đặc tính Tần số Tỉ lệ % Đặc tính Tần số Tỉ lệ %
Nghề nghiệp
Nông dân 31 15,7 rượu bia Đang uống 51 25,8
Công nhân 48 24,2 Đã từng hút 64 32,3
Viên Chức 24 12,1
Tình trạng hút thuốc lá
Chưa từng 133 67,2
Tự do/buôn bán 41 20,7 Đang hút 32 16,2
Khác 54 27,3 Đã từng hút 33 16,6
Bảng 2. Tình trạng bệnh của bệnh nhân lao (N=198)
Đặc tính Tần số Tỉ lệ % Đặc tính Tần số Tỉ lệ %
Bệnh kèm theo Có 85 42,9
Tiền căn lao Đã từng 23 11,6
Không 113 57,1 Chưa từng 175 88,4
Các loại bệnh kèm theo (n=85)
HIV/AIDS (Có) 9 10,6 Chẩn đoán lao hiện tại
Lao phổi 143 72,2
ĐTĐa (Có) 23 27,1 Ngoài phổi 55 27,8
THAb (Có) 26 30,6
Lao kháng thuốc Có 13 6,6
Dạ dày, ruột (có) 17 20,0 Không 185 93,4
Gan (có) 16 18,8
Tác dụng phụ Có 110 55,6
Tim mạch (có) 9 10,6 Không 88 44,4
Xương khớp (có) 17 20,0
Thời gian điều trị < 3 tháng 68 34,3
Khácc (có) 26 30,6 ≥ 3 tháng 130 65,7
a: Đái tháo đường. b:Tăng huyết áp
c: Hen, COPD, bệnh thận, đục thủy tinh thể, viêm xoang, u vú, u gan, ung thư tuyến giáp, ung thư bàng quang, rối loạn tiền đình, viêm tai giữa, động kinh, trĩ, thiếu máu, loãng xương, trầm cảm, tán huyết, sỏi mật, rối loạn tiền đình
Bảng 3. Gắn kết gia đình và tuân thủ điều trị của bệnh nhân lao (N=198)
Đặc tính Tần số Tỉ lệ % Đặc tính Tần số Tỉ lệ %
Phân loại gắn kết gia đình
Không gắn kết 13 6,6
MMAS-8
Cao 86 43,4
Gắn kết không tốt 55 27,8 TBa 77 38,9
Gắn kết tốt 130 65,6 Thấp 35 17,7
Tuân thủ điều trị Cao 86 43,4 a: Trung bình
Không cao 112 56,6
Bảng 4. Mối liên quan giữa tuân thủ điều trị và các đặc điểm của bệnh nhân lao (N=198)
Đặc tính Tuân thủ điều trị
p PR
(KTC 95%) Cao Không cao
Nhóm tuổi
18 – 29 tuổi 27 (61,4) 17 (38,6)
0,002a
1 30 – 60 tuổi 51 (40,8) 74 (59,2) 0,67 (0,52 – 0,87)
Trên 60 tuổi 8 (27,6) 21 (72,4) 0,45 (0,27 – 0,75)
Nghề nghiệp
Tự do/buôn bán 7 (17,1) 34 (82,9) 1
Nông dân 17 (54,8) 14 (45,2) 0,002 3,21 (1,52 – 6,79) Công nhân 26 (54,2) 2 (45,8) 0,002 3,17 (1,54 – 6,55) Công nhân viên chức 11 (45,8) 13 (54,2) 0,016 2,68 (1,20 – 6,00) Không việc làm/khác 25 (46,3) 29 (53,7) 0,008 2,71 (1,30 – 5,66)
Tình trạng hôn nhânb
Đã kết hôn 52 (39,1) 81 (60,9) 1
Độc thân 22 (56,4) 17 (43,6) 0,039 1,44 (1,02 – 2,05) Có bạn tình 5 (83,3) 1 (16,7) <0,001 2,13 (1,40 – 3,23) Ly hôn/ly thân 2 (15,4) 11 (84,6) 0,158 0,39 (0,11 – 1,44)
Góa 5 (71,4) 2 (28,6) 0,022 1,83 (1,09 – 3,06)
Tình trạng sử dụng rượu bia
Chưa từng uống 45 (54,2) 38 (45,8) 1
Hiện tại vẫn uống 21 (41,2) 30 (58,8) 0,160 0,76 (0,52 – 1,11) Đã từng uống 20 (31,2) 44 (68,8) 0,009 0,58 (0,38 – 0,87) Tình trạng hút thuốc lá
Chưa từng hút 68 (51,1) 65 (48,9) 1
Hiện tại vẫn hút 7 (21,9) 25 (78,1) 0,014 0,43 (0,22 – 0,84) Đã từng hút 11 (33,3) 22 (66,7) 0,101 0,65 (0,39 – 1,09)
Đặc tính Tuân thủ điều trị
p PR
(KTC 95%) Cao Không cao
Tác dụng phụ Không 57 (64,8) 31 (35,2) 1
Có 29 (26,4) 81 (73,6) <0,001 0,41 (0,29 – 0,58) Gắn kết gia đình
Gắn kết tốt 81 (62,3) 49 (37,3) 1
Gắn kết không tốt 4 (7,3) 51 (92,7) <0,001 0,12 (0,04 – 0,30) Không gắn kết 1 (7,7) 12 (92,3) 0,030 0,12 (0,02 – 0,82)
a: Kiểm định chi bình phương có tính khuynh hướng b: Kiểm định chính xác Fisher
BÀN LUẬN
Hầu hết đặc điểm nền của bệnh nhân lao được ghi nhận đều có kết quả tương đồng với kết quả của nhiều nghiên cứu trước đây trên cùng đối tượng(4,5,8,10,13,14). Qua nghiên cứu ghi nhận một số đặc điểm nổi bật của bệnh nhân lao đang điều trị ngoại trú như: nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn nữ giới, chủ yếu thuộc độ tuổi lao động, là dân tộc Kinh, không tôn giáo, trình độ học vấn từ Trung học Cơ sở trở xuống, đa số đã kết hôn, sống chung với gia đình, kinh tế gia đình ở mức đủ sống. Những bệnh nhân đang và đã từng uống rượu bia và/hoặc chưa từng hút thuốc lá chiếm tỉ lệ cao. Nhìn chung, tuổi trung bình trong nghiên này và một số nghiên cứu khác đều thuộc lứa tuổi lao động. Ở độ tuổi này, con người tạo dựng mối quan hệ, giao tiếp nhiều nên nguy cơ phơi nhiễm bệnh lao là rất lớn. Khi công việc chịu nhiều áp lực, gánh nặng cuộc sống gia đình khiến bản thân căng thẳng, mệt mỏi, phải thức khuya, dinh dưỡng không hợp lý, sống trong môi trường ngột ngạt, ẩm thấp, hệ miễn dịch suy giảm dễ khởi phát bệnh lao. Bên cạnh lao, hơn 40% đối tượng nghiên cứu còn mắc thêm ít nhất một bệnh mãn tính khác. Ở những bệnh nhân đang mắc bệnh mãn tính, sức khỏe suy yếu, ảnh hưởng đến hệ miễn dịch của cơ thể;
vì vậy, dễ phát bệnh truyền nhiễm do tác nhân vi sinh xâm nhập chẳng hạn như lao. Trong số các bệnh nền, tăng huyết áp và đái tháo đường là hai bệnh lý chiếm tỉ lệ cao nhất. HIV/AIDS chiếm tỉ lệ trong khoảng 10%, kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trên cùng đối tượng và địa điểm(13,14). Có thể thấy, HIV/AIDS, tăng huyết áp và đái tháo đường vẫn là những bệnh mãn tính phổ biến ở bệnh nhân lao, là gánh nặng cho hệ thống y tế hiện nay. Lao phổi là thể lao phổ
biến nhất, kết quả này tương đồng so với kết quả của một số nghiên cứu được thực hiện cùng địa
điểm(13,14). Đa số các bệnh nhân lao đều đang
điều trị ở giai đoạn duy trì (thời gian điều trị trên 3 tháng), chiếm tỉ lệ 65,7%. Tỉ lệ bệnh nhân lao có gia đình gắn kết tốt là 65,6%. Gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc chăm sóc và hỗ trợ người bệnh lao; vì lao là bệnh truyền nhiễm mãn tính và thời gian điều trị kéo dài nên bệnh nhân lao rất cần nhận được chăm sóc và hỗ trợ từ gia đình. Sự gắn kết của gia đình là điều quan trọng hàng đầu trong việc tuân thủ điều trị và hoàn thành điều trị ở bệnh nhân lao. Nghiên cứu cho thấy có 43,4% bệnh nhân lao tuân thủ điều trị cao theo thang đo MMAS-8. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu sử dụng thang đo để đo lường tuân thủ điều trị lao trên thế giới(4,6,8). Nhìn chung, vẫn còn một tỉ lệ bệnh nhân lao chưa tuân thủ điều trị tốt, điều này có thể dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng rất nặng nề lên bản thân bệnh nhân, gia đình và xã hội như: thất bại điều trị, thời gian điều trị kéo dài, tái phát bệnh, lao kháng thuốc và thậm chí là tử vong(3).
Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến tuân thủ điều trị như nhóm tuổi, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, tình trạng sử dụng rượu bia, tình trạng hút thuốc lá, tác dụng phụ và gắn kết gia đình. Cụ thể, những bệnh nhân thuộc nhóm tuổi càng cao thì tỉ lệ tuân thủ điều trị cao càng giảm. Kết quả này tương đồng với kết quả một số nghiên cứu
khác(10,11) và phù hợp thực tế. Càng lớn tuổi con
người ta càng phải lo lắng cho nhiều vấn đề như:
công việc, gia đình, vợ/chồng, con cái có thể khiến bản thân không còn dành sự quan tâm đến sức khỏe của bản thân ở mức tốt nhất. Các bệnh nhân ở độ tuổi trên 60 vì tuổi cao, trí nhớ
giảm; việc uống thuốc phụ thuộc nhiều vào sự nhắc nhở, hỗ trợ từ con cháu. Từ các vấn đề trên có thể dẫn đến tình trạng uống thuốc chống lao không đúng quy định. Những bệnh nhân làm nghề nông dân, công nhân, công nhân viên chức, hay thuộc nhóm không việc làm/khác đều có tỉ lệ tuân thủ điều trị cao tăng so với những bệnh nhân làm nghề tự do/buôn bán (p <0,05). Kết quả này phù hợp thực tế, đối với những người làm các nghề tự do/buôn bán, họ phải phục vụ khách hàng bất cứ khi nào khách hàng có yêu cầu, làm việc cường độ cao, rất khó kiểm soát được nhiều vấn đề khác chẳng hạn như uống thuốc đúng quy định. Những bệnh nhân độc thân, có bạn tình, góa có tỉ lệ tuân thủ điều trị cao tăng so với những bệnh nhân đã kết hôn (p <0,05). Sự khác biệt trong nghiên cứu này có thể là vì những người không thuộc nhóm đã kết hôn do không có sự chăm sóc từ vợ/chồng nên họ phải tự quan tâm đến sức khỏe của bản thân, vì vậy, ý thức tuân thủ điều trị lao của họ cao hơn; bên cạnh đó gia đình, bạn bè và bạn tình cũng là nơi hỗ trợ đắc lực, chăm sóc, động viên, quan tâm đến sức khỏe của họ, là nguồn động lực giúp họ tuân thủ điều trị bệnh tốt. Đối với những bệnh nhân đã kết hôn, bên cạnh việc quan tâm đến bản thân, họ còn dành rất nhiều sự quan tâm đến các vấn đề khác như vợ/chồng, con cái nên dễ khiến họ không tuân thủ việc dùng thuốc chống lao.
Những bệnh nhân đã từng uống rượu bia hiện không uống nữa có tỉ lệ tuân thủ điều trị cao giảm so với nhóm bệnh nhân chưa bao giờ uống (p=0,009). Những bệnh nhân hiện tại vẫn đang hút thuốc lá có tỉ lệ tuân thủ điều trị cao giảm so với nhóm bệnh nhân chưa bao giờ hút thuốc lá (p=0,014). Những người chưa bao giờ uống rượu bia và/hoặc hút thuốc lá là những người có ý thức bảo vệ sức khỏe tốt, biết quan tâm đến tình trạng sức khỏe của bản thân nên khi bị bệnh họ sẽ dành nhiều sự quan tâm cho sức khỏe của mình, hiểu được tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị bệnh lao. Ngoài ra, những bệnh nhân có sử dụng rượu bia và hút thuốc lá có nguy cơ giảm trí nhớ; vì vậy, khả năng không
tuân thủ điều trị ở nhóm người này cao hơn.
Những bệnh nhân có gặp tác dụng phụ có tỉ lệ tuân thủ điều trị cao giảm so với những bệnh nhân không gặp tác dụng phụ (p <0,001). Kết quả này tương đồng với nhiều nghiên cứu
khác(4,10,11) và phù hợp với thực tế; tác dụng phụ
của thuốc dù ít hay nhiều đều ảnh hưởng tâm lý, sức khỏe của bệnh nhân, khiến bệnh nhân ngại uống thuốc. Đây là rào cản rất lớn dẫn đến tình trạng không tuân thủ điều trị bệnh của bệnh nhân lao. Những bệnh nhân có gia đình gắn kết không tốt hoặc không gắn kết có tỉ lệ tuân thủ điều trị cao giảm so với những bệnh nhân có gia đình gắn kết tốt (p <0,05). Để tuân thủ điều trị tốt, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân người bệnh còn rất cần sự quan tâm, chăm sóc và động viên từ phía gia đình bệnh nhân. Nghiên cứu chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tuân thủ điều trị với giới tính, dân tộc, tôn giáo, nơi ở hiện tại, nhóm trình độ học vấn, tình trạng chung sống, tình trạng kinh tế, bệnh kèm theo, chẩn đoán lao hiện tại, tình trạng lao kháng thuốc, tiền căn mắc lao và thời gian điều trị.
Qua nghiên cứu, một số kiến nghị được đưa ra: Đối với nhân viên y tế, trong những buổi khám bệnh, cần có mặt cả bệnh nhân và người nhà bệnh nhân; hỏi thăm tình hình sử dụng thuốc trong thời gian qua ở mỗi lần khám để bệnh nhân và người thân hiểu được tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị. Tuân thủ điều trị thuốc không chỉ là trách nhiệm của bệnh nhân mà còn là trách nhiệm của những người thân sống cùng bệnh nhân. Đối với người nhà bệnh nhân: cần hỗ trợ, quan tâm về thể chất và tinh thần của bệnh nhân, nhắc nhở, động viên người bệnh dùng thuốc theo đúng quy định, đặc biệt ở những bệnh nhân có nguy cơ cao không tuân thủ điều trị. Đối với bệnh nhân: Cần áp dụng một số biện pháp có thể đảm bảo tuân thủ điều trị bệnh như: hẹn giờ uống thuốc mỗi ngày bằng những thiết bị thông minh, nhờ người thân sống chung gia đình nhắc nhở về việc uống thuốc điều trị bệnh, tạo thói quen uống thuốc mỗi ngày theo đúng lời hướng dẫn của bác sĩ điều trị, cần
báo ngay cho bác sĩ điều trị khi gặp tác dụng phụ của thuốc điều trị bệnh.
KẾT LUẬN
Tổng cộng có 198 bệnh nhân lao điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch tham gia nghiên cứu từ tháng 04 năm 2021 đến tháng 05 năm 2021. Tỉ lệ tuân thủ điều trị ở mức cao theo thang đo MMAS-8 còn thấp, chiếm tỉ lệ 43,4%. Cần quan tâm hơn đến việc dùng thuốc của bệnh nhân lao, đặc biệt ở những bệnh nhân lớn tuổi, làm các nghề tự do/buôn bán, đã kết hôn, đang hoặc đã sử dụng rượu bia, thuốc lá, gặp tác dụng phụ khi dùng thuốc, có gia đình gắn kết không tốt hoặc không gắn kết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. World Health Organization (2020). Global Tuberculosis report 2020, URL: https://www.who.int/teams/global-tuberculosis- programme/tb-reports/9789240013131.
2. Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật Thành phố Hồ Chí Minh (2020).
Chương trình phòng chống lao: Hội nghị Sơ kết hoạt động 9 tháng đầu năm 2020. URL: https://hcdc.vn/category/van-de-suc- khoe/chuong-trinh-phong-chong-lao-hoi-nghi-so-ket-hoat- dong-9-thang-dau-nam-2020-
82312cafef8d971131463ff3454aebbc.html.
3. Zhang J, Yang Y, Qiao X, et al (2020). Factors Influencing Medication Nonadherence to Pulmonary Tuberculosis Treatment in Tibet, China: A Qualitative Study from the Patient Perspective. Patient Prefer Adherence, 14:1149-1158.
4. Du L, Chen X, Zhu X, et al (2020). Determinants of Medication Adherence for Pulmonary Tuberculosis Patients During Continuation Phase in Dalian, Northeast China. Patient Prefer Adherence, 14:1119-1128.
5. Gube AA, Debalkie M, Seid K, et al (2018). Assessment of Anti- TB Drug Nonadherence and Associated Factors among TB Patients Attending TB Clinics in Arba Minch Governmental Health Institutions. Southern Ethiopia Tuberculosis Research and Treatment, https://doi.org/10.1155/2018/3705812.
6. Mbuti H, Mwaniki E, Warutere P, et al (2020). Social Demographic Factors Associated with Adherence to Treatment Among Urban and Rural Tuberculosis Patients in Kenya. Int J Med Sci Heal Res, 4(03):111-122.
7. Xu M, Markström U, Lyu J, et al (2017). Detection of Low Adherence in Rural Tuberculosis Patients in China: Application of Morisky Medication Adherence Scale. International Journal of Environmental Research and Public Health, 14(3):248.
8. Chen X, Du L, Wu R, et al (2020). The effects of family, society and national policy support on treatment adherence among newly diagnosed tuberculosis patients: a cross-sectional study.
BMC Infectious Diseases, 20(1):1-11.
9. Thân Thị Bình, Vũ Văn Thành (2019). Thực trạng kiến thức và thực hành tuân thủ điều trị của người bệnh lao ngoại trú tại Trung tâm y tế Cao Lộc năm 2019. Khoa Học Điều Dưỡng, 2(3):105-112.
10. Nguyễn Thị Mỹ Dung, Alison Merrill, Trần Thiện Trung (2019).
Sự tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao và các yếu tố liên quan. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 23(5):193-199.
11. Hà Văn Như, Nguyễn Xuân Tình (2014). Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân lao và một số yếu tố liên quan tại Phòng khám ngoại trú Bệnh viện Lao và bệnh phổi Bắc Giang năm 2013. Y Học Thực Hành, 905(2):43-47.
12. Nguyễn Thạnh Trị, Lê Hồng Phước, Tô Gia Kiên (2018). Tuân thủ điều trị ở bệnh nhân lao trong giai đoạn tấn công. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 22(1):1-7.
13. Đỗ Phúc Như Nguyện (2017). Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan của bệnh nhân lao đang điều trị tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2017. Khóa Luận Tốt nghiệp Bác Sĩ Y Học Dự Phòng. Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Thị Thế Nhân (2017). Tỉ lệ trầm cảm và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân lao đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2018. Khóa Luận Tốt nghiệp Bác Sĩ Y Học Dự Phòng. Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày nhận bài báo: 28/11/2021
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022