--- ---Nghiên cúki ĩrao đổi
DOANH NGHIỆP “XÁC SÔNG” VÀ NHỮNG ẢNH HƯƠNG ĐẾN NÈN KINH TỂ VIỆT NAM
TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19
tSSkTS.
Nguyễn Thị Khánh Phương* Nhận: 08/02/2022*Khoa Kế toán, Kiểm toán - Học viện Ngăn hàng
**SVCLC. Khoa Kế toán, Kiểm toán - Học viện Ngân hàng
Tõ Lan Hương** Biên tập: 09/02/2022
ị Duyệt đăng:24/02/2022
Tóm tắt
Đại dịch Covid-19 vẫn chưa thực sự hạ nhiệt trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đã khiến nhiều doanh (ighiệp (DN) đông loạt đứng trên bờ vực phá sàn hoặc khó khăn trong hoạt động. Covid-19 đối với các công ty siêu nhỏ và nhỏ, có thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến phá sản DN, đặc biệt là đối với các DN trong ngành dịch vụ, du lịch, hàng không, nơi chi phí duỵ trì hoạt động kinh doanh quá lớn nhưng không thể diễn ra hoạt động kinh doanh hào,... Tuy nhiên, đối với một sô công ty thì Covid-19 chỉ là nguyên nhân gián tiếp, đặc biệt là đối với các công ty đã
“măc kẹt” vào nền kinh tế, hoạt dộng kém hiệu quả trong nhiều năm. Đứng trước bối cành đó, Chính phủ nhiều nước trong đó có Việt Nam, đã thực hiện chương trình hỗ trợ khẩn cấp để cứu DN, bảo vệ thị trường lao động nhằm không pể cho nên kinh tế rơi vào suy thoái. Mặt trài của các chính sách đó, sẽ tạo ra thêm một thế hệ mới các “xác sống”.
Vậy trong nội dung bài viết này, nhóm tác giả sẽ trả lời các câu hỏi: “DN xác sống” là gì? Nhận diện “DN xác sống”
hhư thế nào? Và ảnh hưởng của “DN xác sống" đến nền kinh tế Việt Nam, trong Đại dịch Covid-19 ra sao?
Từ khóa: “DN xác sống”, nền kinh tế, Đại dịch Covid-19.
Abstract
Ạs for the world in general and Vietnam in particular, the Covid-19 pandemic has not really cooled down causing many businesses to simultaneously stand on the verge of bankruptcy and find it difficult to continue operating. The Covid-19 pandemic can be a direct reason for the bankruptcy of micro and small companies, especially for those in the service, travel and aviation industries, where maintenance costs are relatively high but there are no business activities that can take place... However, for some companies, the Covid-19 pandemic is just an indirect reason, especially for those that have been "stuck" in the economy, which have underperformed for many years. Facing that situation, the governments of many countries, including Vietnam, have implemented emergency support pro
grams to save businesses and protect the labor market to prevent the economy from falling into recession. The downside of those policies will create a new generation of "zombies". So in this paper, we will answer the ques
tions: What is a “zombie companies”? How to identify “zombie companies”? And what was the impact of them on the Vietnamese economy during the Covid-19 pandemic?
Keywords: zombie company, economy, Covid-19 pandemic.
1. Khái niệm “DN xác sống”
“Zombie company” hoặc “DN xác song” hay “DN song thực vật”
xuất hiện lầnđầu vào nhữngnăm 1990, là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các DN có tình hình kinh doanh yếu kém,không thể tự chủ về tài chính màphụthuộcvào các khoản cứu trợ,cáckhoảnvay vớilãi suất thấp từ các ngân hàng Nhật Bản, tronggiai đoạn được gọi là“Thập kỷ mất mát” sau sự sụp đổ của
kinh tế, khi được dùng để chỉ các DN nhận được tiền cứu trợ từ
“Chương trìnhcứutrợtài sản” của Hoa Kỳ(Tpeg).
Mặc dù ưên thế giớiđã có rấtnhiều nghiên cứu về các “DN xác sống”
nhưng đến nay,các nghiên cứu chưa có sự thốngnhấttrong cáchđịnh nghĩa.
(Takeo Hoshi, 2006) - Đại học Tokyocho rằng, các “DNxácsống”
là những DN đang mấtkhả năng thanh toán và có rất ít hy vọngphục
hồi nhưng lại tránh được thất bại nhờ nguồnvốnvay từ ngân hàng”.
(Mark Thomas, 2010 & 2012) nghiên cứu về các“DNxác sống”
ở Anh và Mỹ thì “DN xácsống” là nhữngDN chỉ đủ tiền mặt để chi trả cho các khoản lãi vay mà khôngthểtrảđược hết nợ(chovay thường xuyên). Các “DN xác sống” có thể có doanh thu nhưng không thể thu hútđủđầu tư để trả các khoản nợ. Sau khi chi trả hết bong bóng giátàisảnNhậtBản.
Tớinhữngnăm2000,thuật ngữ nay lại tiếp tụcphổ biến trong giới
G[ạp chi ^KẾtoán &&KiỂmtoán số tháng 3/2022 29
Nghỉén cưu trao dổi
các chi phí cố định, chi phí biến đổi, các “DNxác sống” chỉ còn đủ tiền trả khoản lãi khổng lồ cũng những khoản vay chứ không thê trả được phần gốc vay.
(Caballero và cộng sự, 2008) các “DN xác sống” lànhững DN yếu kém,lẽ ra phải bịđàothảibởi thị trường thì bằng cách này hay cách khác vẫnđượchồ trợ đểtiếp tục tồn tại. Chúng đã không còn năng động hay sáng tạo,không thê thay đổi để thích ứng với môi trường mới và đặc biệt là không đóng gópgì vào sự phát triểncủa nềnkinhtế, không tạoragiá trị gia tăng cho xã hội.
Do đó,các khái niệm trêndù có khác nhau ờ cách diễn đạt nhưng đều nói lên những đặc điểm sau:
Vi lo ngại về các khoảnnợ khó thu hồi vàsố lượng người thất nghiệp tăngcao, Chínhphủ và ngân hàng tiếp tục đưa ra các biện pháp hồ trợ tài chính để giúp các DNđang trì trệ - hay còn gọi là “DN xác sống” cóthể tiếp tụcthoi thóp, với hy vọng các DNđó sẽ tăng trưởng, lớnmạnh hon sau lần tái sinh này.
Nhưng thực tế, những “DN xác sống” đang khiến nền kinhtế toàn cầu trở nên suy yếu, gây lãng phí nguồn lực, làm giảmnăng suất lao độngvàvì thế các DN đó khó có khảnăngphục hồi.
2. Mô hình nhận diện “DN xác sống” Qua nhiều công trình nghiên cứucủacác học giả trên thế giới, đã xây dựngnhững tiêu chí đểxác định các “DN xác sống”.Theo đó, một DN không thể trả nợ, làm ăn thua lỗ dài hạn (3 năm liên tiếp) hoặc DN có mức trả lãi cáckhoản vaythấp hơn ngưỡng xác định và có lợi nhuận năm sau thấp hon so
với năm trước, đượccoilà“DNxác sống”. Cụ thể như sau:
2.1. NhậtBản
Mộttrong sốnhững côngtrình nghiên cứu nổi tiếng nhất là của (Caballero và cộngsự,2008) cho rằng, một DN là Zombie nếu lãi suất thực tế đã trả trong năm, thấp hơn mức lãi suất phi rủi ro giả định là I*i.t được tính theo công thức:
Ii,t
* — rtshort Bi,t-lshort+
(15j=04 rtlong) Bi,t-llong+
min(rt-4cb,...,rtcb) Bondi,t-1 Trong đó:
rtshort,long,cb: lãi suất ngắn hạn/dài hạn trong nămt.
Bi,tshort,long,cb: khoản vay ngânhàng ngắn hạn/dài hạn trong năm t.
Bondi,t-1: phát hành trái phiếu DN
Nếu li.t < I*i.tthi DN được coi là Zombie,ở đó thì Ii,t là lãithực tế đã trả. Đâyđược coi là mô hình đầu tiên và kinh điểnnhất, với tên gợi làmôhình“CHK”. Ýtưởng cơ bản của mô hình này là, các DN gặp khó khăn sẽ đượcnhận một khoản giảm lãi đáng ké từ ngân hàng. Vì vậy, các khoản thanh toánlãi vay củahọphải thấp hơn cácDN lành mạnh khác. Môhình này được sừ dụng rộngrãi trong nhiều tài liệu, vì xác định được “DN xác sống” qua một tiêu chí đơn giản.
Tuy nhiên, (Fukuda và Naka
mura, 2011) đã chỉ ra 2 lỗicủamô hình trên, vì mô hình chỉ đưa ra một tiêu chí lãi suất thì sẽ có thể xác định sai các “DN xác sống”:
thứ nhất, một số DN không phải xác sống cũng được hưởng chính sách lãi suất thấp hơn so với thị trường, do đó, chỉ tiêu này có thể xác định một DN khỏe mạnh trở
thành một “DN xác sống”;thứ hai, những“DN xácsống” có thểđược xác định là một DN không phải xác sống, vì một số DN gặp khó khăn họ sẵn sàng trả lãi suất phổ biến trên thị trường, miễn là ngân hàng cấpnợ để giữ cho họ không bị phá sản.
Do đó, Fukuda và Nakamura đã bổ sung thêmtiêuchí xác định
“DN xác sống”: tiêu chí thứ nhất làtiêu chí lợi nhuận cùaDN, theo tiêuchínày, thì các DN có thể trả với lãi suất thấp hơn lãi suất rủi ro giả định nhưng có lợi nhuận trước thuế dương thì không được xếp vào “DN xác sống”; tiêu chí thứ hai là tiêu chí “cho vay thường xanh”, tiêu chí cho biết, các DN không cólợinhuận, các khoản vay cao và vay nợbên ngoài tăng lên sẽ được xác định là “DN xác sống”. Theođó, cácDN nàysẽ có thu nhập trước thuế thấp hơn khoản vay với lãi suất rủi ro giả định trong giai đoạnt; tổng số nợ bênngoàivượtquá một nửa so với vốn chủ sở hữu giai đoạn t-1 và tổngvay tăng lên trong giai đoạn t thìđược gọi là các “DN xácsống” trong giai đoạn t.
Các nghiên cứu của (Hoshi, 2006) và (Imai, 2016) lại dựa vào một số chỉ tiêu từ báo cáo tài chính của các DN, để xác định “DN xác sống”. Các “DN xác sống” bao gồm các DNcó vốn chủ sở hữu âm, đãmấttoàn bộ giátrị tài sản ròng do thualỗ trong nhiều năm. về lý thuyết, các DNnày nên được thanh lýnhưng thực tế nó vẫn có các giao dịch và tiếp tục kinh doanh, do sự giúp đỡ củacác chủ nợ.
2.2. Trung Quốc
Pr(zombieư = 1) = pXiỊ-1 + Dlnd + Dyear + Dreg +
30 ^ĩạ/) chi ÍJKế toán &<ổKiểmtoánsốtháng3/2022
Trong đó:
ilàchỉsốcủa quansát- DNthứ i;
t làchỉsố thời gian, biểu thịnămt.
zombieit là biếnphụthuộc, nhận giá trịbằng 1 nếu DN i là Zombie trong năm t theo các tiêu chí nghiên cứu vànhận giá trị bằng 0, trong pác trườnghợp cònlại.
I Xi,t-1là các biến giải thích, lấy trễ bậcnhất để tránh các vấn đề nội sinh trong mô hình hồi quy; Ind là biến giả ngành;year làbiến giảnăm; reg là biến giả vùng/địa phương.
Ngoài các biến giả, các biếngiải thích X trong mô hìnhthựcnghiệm gồm có: (i) chỉ số thị trường của tỉnh;(ii) sức mạnh của chính quyền địa phương (lấy logarit tự nhiên);
(iii) tỷ trọng đặt cọc của ngân hàng Nhà nước (lấy logarit tự nhiên);
(Ịv) kinh tế thị trường; (v) khoảnhỗ ttợ của Chính phủ mà DN được nhận; (vi)vùng phía Bắc và Đông Bắc; (vii) ngành dư thừa; (viii) DN sở hữu Nhà nước; (ix) đòn bẩy tài chính DN; (x) doanh thu trên sàn co định);(xi)quy môDN; (xii) tuổi DN; (xiii) tăng trưởng doanh thu.
Nghiên cứu trường hợp các
“ÙN xác sống” tại Trung Quốc, (Shen and Chen, 2017) cũng dựa vào tiêu chí xác định một “DN xác sống” thông qua phương pháp của (Caballero và cộng sự, 2008);
(Fukuda and Nakamura, 2011).
Ôngđưa racác tiêu chí cụ thể, để xác địnhmột DN là xác sống, bao gồm: thứ nhất, DN đó có hệ số đòn bẩy (tỷlệ vốn vay trênvốn sở hữu lớn hơn 50%; thứ hai, lợi nhuận thực tế hàng năm âm; thứba, nợ phải trảhàng nămcủa nó vượt quá sốnợ báo cáo củanăm trướcđó.
2.3. Châu Âu
ị Ở châuÂu,(McGowan và cộng sựj 2017a &2017b)đánh giá “DN
xác sống” tại các nước OECD trong mối liên hệ với năng suất; tái phân bổcác nguồn lực vàchế độ phá sản. Nghiên cứu sr dụng dữ liệu cấpDN, tại 13 quốcgia và40 ngành, từ năm 2010 - 2013.
Status,c„ = a - Ỵ^^Insoỉ X Exp5
+ ỗc - 5~
Trong đó, biến phụ thuộc làbiến Status, nhận giá trị: bằng 1, nếu một công ty được phân loại là Zombie trong năm 2010, chuyển sang trạng thái không phảilàZom bie trong năm 2013 (nghĩa là nó có khả năngđược tái cấu trúc trở lại thành tốt); bằng 0, nếu không có thay đổi trạng thái, từ 2010 đến năm 2013; và bằng -1, nếu một công ty không phải là Zombie trong2010,chuyểnsangtrạngthái Zombie trong năm2013.
Các biến giải thích trong mô hình bao gồm: (i) Insol đềcập đến các tính năng khác nhau của chế độ phá sản (trong đó j = số tính năng trong quốc gia c); (ii)Expđề cập đến sựtiếp xúc của ngành đối với các chính sách, trong trường hợp này là tỷ lệ doanh thu củaDN đối với Hoa Kỳ; (iii) X biểu thị một vector gồm có độ tuổi vàquy mô côngty; (iv) pol là biến điều khiển các ảnh hưởng của chính sách quốc gia.
Một số nghiên cứu về“DN xác sống” tại các nước thuộc EU (Hal- lak và cộng sự, 2018),(Adalet Mc
Gowan, Andrews and Millot, 2017) đã sử dụng tiêu chí xác định “DN xác sống” dựavào tỉ lệbaophủ lãi suất và tuổi của DN. Theođó, một DNlà Zombie nếu cóti lệ bao phủ
---Nghỉên cihi traoaổi
lãi suất (bằng lợinhuậntrước thuế và các khoản lãi vayđãtính khấu hao chia cho tiềnlãi phải trả) nhỏ hơn 01, trong ba năm liên tiếp.
Đồng thời, đưathêm điều kiện về tuổi là các DN từ 10 tuổitrởlêncó tỉ lệ bao phủ lãi suất nhỏ hơn 1, trong 03 nămhoặc 5 năm liêntiếp, để hạn chế bớt nguy cơ Zombie, cho cácDN mới thànhlập,.
Như vậy có thể thấy, các nghiên cứu vềchủ đềnày sử dụng các tiêu chí xác định “DN xác sống” khá đa dạng và phong phú, tuy nhiên các tiêu chí đều quan tâm đến khả năng thanhtoán tiền lãi vàlợinhuận của DN.
3. Ảnh hưởngcủa các “DN xác sống”
đến nền kinh tế
Các “DN xác sống” đangđược đề cập trở lại, trong Đại dịchCovid-
19,vì nguy cơ gia tăng về số lượng do Chính phủ các nước đang can thiệp vào nền kinh tế trên quy mô lớn, để giữ cho các “DNxác sống”
tiếp tục tồn tại -những DN đáng lẽ phải bị đào thảikhỏi thịtrườngthì lạitiếptụchoạt động và sống sót.
3.1. Hiệuquảsảnxuất kinhdoanh Theocácnghiên cứu trước đây, những “DN xác sống” không kinh doanhrađủlợi nhuận để bùlại cho chi phí trả lãi suất, tồntạichỉbằng cách tái cấp vốn các khoản vay (Jiangetal, 2017) và còncóthểđe dọa đến hiệu quả sản xuất kinh doanh (Caballero và cộng sự, 2008), (Adalet McGowan và cộng sự, 2017), (Baneijee, Ryan vàHof mann, Boris,2018).
(McGowan, 2017) nghiên cứu dữ liệuDNtừ 13 quốc gia OECD, trong giai đoạn 2003 - 2013, để xemxét mức độ ảnh hưởng của các
“DN xácsống” tới năng suất. Các 'lạp cỉú^KẾtũán toánsố tháng3/2022 31
Nghiên CÚÌ1trao flổỉ
phát hiện cho thấy, mức độ phổ biến của các DN đãtăng lên kể, từ giữa những năm 2000, trong khi sựgiatăng của các DN vừa và nhỏ năng suất thấp, đã làm trầm trọng thêm tình trạng tắc nghẽn thị trường và hạn chế tăng trưởngcủa công ty. Dựa trên kết quả thực nghiệm, các tác giả kết luận rằng, sựgiatăng của các “DN xác sống” dẫn đến sự suy giảm tăngtrưởng sản lượngtiềm năng trong OECD.
Nhóm tác giả (Ricardo J, Ca ballero, Takero Hoshi, Anil K, Kashyap, 2016) đã nghiên cứu và nhận xét rằng, nếu các “DN xác sống” tiếp tục tồn tại, năng suất thấp của các “DN xác sống” sẽ gián tiếp ngăn cản các DN cónăng suất cao horn thamgia thị trường.
Theo BIS, mỗi phần trăm gia tăng thị phần của các DN “xác sống" cũng làm giảmchitiêu vốn của các DN khỏe mạnh 01% và giảm tăngtrưởng năng suất 0,3%.
Sự tri trệ của các “DN xác sống"
cũng sẽ khiến chất lượng sản phẩmvà dịch vụ củahọxấu đi.
Nghiên cứu thực nghiệm được thựchiện,trên dữliệucấpDN cho mộthoặc nhiều ngành ở một hoặc nhiềuquốcgianhất quán, chothấy rằng các “DN xác sống” có tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất và hoạt động của các DN trong một ngành, đặc biệtlàtoàn bộ nền kinhtế bằng cáchsuy luận ngược. Tăng năng suất lao động, năng suấtcác nhântố tổng hợpvà vòngquay tài sản. Giải quyết các
“DN xác sống” trong nền kinhtế có thể có tác động tích cực đến tăngtrưởngvề lâu dài.
3.2. Anh hưởngtớiviệclàm Một phầnlý do các Chính phủ và cácngân hàng trênthế giới tiếp
tục bơm nguồn vốn với lãi suất thấp và kỳ hạn dài cho các “DN xác sống” là, giảm tỷ lệ thất nghiệp và giữ lại việc làm cho người lao động. Tuy nhiên,trong dài hạn, năng suất và tính cạnh tranh của nền kinh tế sẽ suygiảm khi khủng hoảng qua đi.
Tuy nhiên, một nghiên cứu của Tổ chứcHọp tác và Phát triển kinh tế (OECD), nhấn mạnh; “DN xác sống”gặp khó khăntrong việc trả lãi các khoản nợ, yếu tố gây ra hiện tượng tăng năng suấtchậm, kéo theo tăngtrườngchậm, ở các nước phát triển.
Các “DN xácsống” cướp đi cơ hội của các DN khỏe mạnh trong nỗ lực mở rộng thị trường, biến thànhrào cản củacác DN mớivà trẻ, cuối cùng làlàm giảm nguồn vốn đầu tư. Tại 34 quốc giatham dự diễn đàn OECD, sự gia tăng của số lượng DN Zombie trước cuộc khủng hoàng tài chính năm 2008 có liênquan tới mức02% lỗ hổng trongđầu tư và 0,7% về tỷ lệ việc làm.Tăng trưởng ít ỏi vàtỷlệ thất nghiệp gia tăng là điển hình của sự nghèo khó, phục hồi sau khủng hoảng cũng như những cơ hội bị bỏ lỡ và gây ra tâm lý lo ngạitrong các nhà đầu tư.
Các “DN xác sống”trong khu vực công nghiệp sản xuất mang đặc điểm rõ ràng khi tạo ra số lượng hàng hóa sản phẩm thấp, làm ăn thua lỗ, tăng trưởng hầu nhưđược duy trì ở mứcâm, kéo tụt mức tăng trưởng chung của toàn ngành.
Có những báo cáo gần đây về khả năng thực hành cho vay xác sống ở các quốc giakhác như Tây Ban Nha (Prada, 2010), Ireland (Bloomberg, 2010), nước Anh
(Bingham,2014; Papworth, 2013) và Trung Quốc (Tan, Huang và Woo, 2016): mộtmặt, những “DN xácsống” gây ra sựsuyyếutrong phát triển kinh tế, bởi vì chúng ngăn cản sự gia nhập thị trường của các DN cótiềmnăng hiệu quả (Aheame & Shinada, 2005); và mặtkhác, tạora tỷ lệ việc làm rất thấp ở nhữngkhuvực có số lượng
“DN xác sống” lớn,vớiviệctạora mức năng suất thấphơn. Hơn nữa, sự gia tăng số lượngcác “DNxác sống” làm giảm đầu tư và hạnchế tăng trưởng việc làm ở các DN không phải xác sống, đồng thời mở rộng khoảng cách năng suất giữa hai loại DNnày.
Sự gia tăng số lượngcác “DN xác sống” làmgiảmđầutư và hạn chế tăng trưởng việc làm, ở những DN không phải là xác sống. CácDN này cố gắng duy trì sự tồn tại, bằng vốn hỗ trợ từ Chính phủ hoặc các ngân hàng, giữ lại mộtbộphận nhân lực chất lượng làm lãng phí nguồn tài nguyên,giảm sự lựa chọnđối với các DN mới đang phát triển nhanh chóng cần nguồn nhân lực lớn. Người lao động bị trói buộc vào các DN không còntương lai, khó tìm kiếm việc làm mới. Điều này dẫn đến phân bổ lao động, trong nền kinhtếthiếu hiệu quả.
Sựphân bổ vốn và hỗ trợ của các ngân hàng cho các “DN xác sống”làm cho các DN tiềm năng có nhu cầu hỗ trợ vốn lớn khó khăn, trong việc tiếp cận nguồn vốn vay. Khi các ngân hàng dồn nguồn lực, để duy trì sự tồn tại của các “DN xác sống”, các DN này giống như “chiếc nam châm” kéo ngược nguồn vốn hỗ trợ cho các DN về phía mình, khiến cán cân 32 <3ỉạp chi ^Kế toán &^ìểrn toánsốtháng3/2022
Nghiến CÚÌ1 ưaođổi
vốn vay mất thăngbằng. Điềunày ảnh hưởng đến sự phát triển của các DN “Startup” đangcần nguồn vốnlớn, để pháttriểnvà sáng tạo.
3.3. Anh hưởng tới phân bổ nguồn vốn
Thứ nhất, các DN không phải xác sốngkhác sẽ phảiđối mặt với khókhăntrongviệc tiếp cận cơ hội vay vốn,do một phần vốn vaycủa ngân hàng đã bịtranhgiànhbởi các
“DN xác sống”.
Đe biết một DN có phải xác sống hay không, ta nhìn vào khả năng thanh toán các khoảnnợ và chỉ tiêu lợi nhuận, qua các năm của DN đó. “DN xác sống” là những DN, trongthựctế vẫn được tồntại trên thịtrường nhưng hoạt động kém hiệu quả, tỷ lệ vay nợ vượt trên 50% so với vốn chủ sở hữu đi kèm với khảnăng hoàn trả rất thấp, có tỷ lệ thua lỗ kéo dài quanhiềunăm hoặc thậm chí mất khả năng thanh toánvàđang trên bờ vực phásản. Sự tồn tạicủa các
“DN xác sống” làm ảnh hưởng đến cơ hội tăng trưởng và trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, bởi bản chất sống phụ thuộc vào các khoản vay vốncủa ngân hàng hoặc chủ nợ, đặc biệt là ngân hàng. Do đó, sẽ làm mất đi cơ hội vay vốn của các DN khác.
Thử hai, các khoản cho vay của Chính phủ nhằm mụcđích trợcấp không được sử dụng hiệu quả và trở nênlãng phí.
Trong hoạt độngkinh doanh của mình, DN phải hoàn thành được các mục tiêu sau: sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao; lưu thông hàng hóa một cách chuyên nghiệp, nhanh chóng, đảm bảođáp ứng nhu càucủa người tiêudùngnhằm bảo toàn và tăng trưởng dòng tiềncủa
DN; từdòng tiền có đượctiếp tục sảnxuất, đổi mới vàliên tụctạora lợi nhuận. Tuy nhiên, đặc điểm của các “DN xác sống” là hiệuquả hoạt độngthấp, không có khảnăng trả nợ và công việc kinh doanh không sinh lời, trì trệ nhưng vẫn tiếp tục tồn tại nhờ vào các khoản trợ cấp từ Chính phủ. Mặc dù có cơ hội tiếp cận nguồn vốn từbên ngoài như vậy nhưng các DN này vẫn không thể tăng trưởng, không cải thiện được năngsuất. Do đó, việc Chính phủ trợcấpchỉmang ý nghĩa giúpđảm bảo sự tồn tại mà không làm thay đổi bản chất, giátrị của DN đó. Nhìn trêngóc độ tổng thể, các “DN xác sống” sẽ làm suy yếu nền kinhtế vì DNkhông thể phát triển, tạo ra lợi nhuận trong việc làmăn hay đem lại các lợi ích cho chính DN và nền kinhtế.
4. Kết luận
Từ nhữngphân tích trên đây, có thểthấy“DN xác sống” không còn là một chủ đềquá mớimẻ và lạ lẫm với giới nghiêncứu quốctế, song, bốicảnh kinh tế thế giới trong giai đoạnđầy biến động hiện nayvẫn tạo ra những khoảng trống để phát triển các nghiên cứu tiếp theo. Ở Việt Nam chưa cónhiềubài nghiên cứu đưa ra được cáckhái niệm cụ thể cũng như môhình nghiên cứu của “DN xác sống”, chưa đưa ra được các yếutố xác địnhrõ “DN xác sống”, cũng như phân tích về ảnh hưởngcủa “DN xác sống” tới từng ngành cụ thểtrong nềnkinh tế tại Việt Nam, giai đoạn Đại dịch Covid-19.Do đó,các tác động tiêu cực của một ngành đến tổng thể nền kinhtếhoặc ảnh hưởngcụ thể đến người lao động vẫn đanglà ẩn số, dẫn đến khó khăn cho Nhà
nước, trong việc đưa ra những chính sách phù họp, đểkiểmsoát rủi ro từ phía các DNnày. Màtheo nhưdự báocủa các chuyêngia trên toàn cầu, làn sóng các DN “xác sống” sẽ trở thànhmột vấnđề nan giải, cho bất kì Chính phủ nào trong khoảng thời gian này, kể cả cácnước cónền kinh tếphát triển bậc nhất thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Đức,...n
Tài liệu tham kháo
1. Aheame, A. G., & Shinada, N, (2005), “Zombie firms and economicstag nation inJapan”International Economics and EconomicPolicy,2(4), 363-381.
2. Hoshi, T, & Kim, Y (2013),
“Macroprudentialpolicy and zombie lend
ing inKorea" T. Hoshi and Y Kim.
3. Nguyễn Thị Tường Anh, Vũ Thị Thanh Xuân &Nguyễn Thị Kim Hồng, (2016), “Ảnh hường của những DN sống thực vật tới tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản trong giaiđoạnthập kỷ mất mát” Tạp chí Kinh tế đối ngoại, 79, 13-22.
4. Sara Urionabarrenetxea, Jose Domingo Garcia-Merino, Leire San-Jose, Jose LuisBetolaza, (2018), “Living with zombie companies: Dowe know where the threat lies?” European Management Jour nal, 36(3),408-420.
5. Tạ Quang Bình và Nguyễn Thị Thuận, (2019), “Anh hưởng của những DNsống thựcvật tới tăng trưởngkinh tế Việt Nam” Tạp chí Tài chính, 713, 15-19.
6. Vũ Thị Thu Hương, Tạ Quang Bĩnh, Hồ Thị MaiSương và Lương Thị Ngăn, (2019), “Ảnh hưởng củacác công ty Zombieđến hiệuquả hoạtđộngtài chính:
Ket quả nghiên cứu thực nghiệmtrêncác công ty niêm yết nhóm ngành vật liệuxây dựng tại Việt Nam” Tạp chí Khoa học Thương mại, số 137 và 138, trang 100-108.
^ặp chi toán t&^Kìểm toán số tháng3/2022 33