• Tidak ada hasil yang ditemukan

Esophageal Bronchus in an Infant: A Case Report and Review of the Literature

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Esophageal Bronchus in an Infant: A Case Report and Review of the Literature"

Copied!
9
0
0

Teks penuh

(1)

Case Report

Esophageal Bronchus in an Infant:

A Case Report and Review of the Literature

Chiem Hoang Duy*, Truong Manh Dien, Tran Minh Tan, Duong Quoc Tuong, Nguyen Kinh Bang

City Children’s Hospital, 15 Vo Tran Chi, Tan Kien, Binh Chanh, Ho Chi Minh City, Vietnam Received 25 April 2022

Revised 5 May 2022; Accepted 15 May 2022 Abstract

Esophageal bronchus, or communicating bronchopulmonary foregut malformation (CBPFM) is a rare congenital malformation involving both the digestive and respiratory systems, with very few cases reported in the literature. We describe the diagnostic workup and management that led to a successful outcome. A 4-month-old female infant presented to our institute with recurrent pneumonia, normal obstetric history, regular, respiratory support. With the assistance of contrast-enhanced chest computed tomography (CT), upper gastrointestinal tract imaging and upper gastrointestinal endoscopy, the diagnosis was established according to the most recent diagnostic criteria. The patient was recieved middle and lower right pneumonectomy and surgical repair of esophageal fistula. CBPFM type III was confirmed on the basis of the postoperative histopathological finding. The drainage was removed 5 days post-op, the respiratory problems were improved, however, the patient still needed to go through a cardiac operation subsequently. Esophageal Bronchus is a rare condition thus the pre-operative diagnosis is extremely difficult, clinicians usually focus on lungs’ parenchymal damaged condition while omit airway abnormalities. Bronchoscopy should be performed in complex cases of esophageal atresia to avoid missing these deformities.

Keywords: communicating bronchopulmonary foregut malformation, esophageal atresia, esophageal bronchus, esophageal lung.

* Corresponding author.

E-mail address: [email protected] https://doi.org/10.47973/jprp.v6i4.426

169

(2)

I. Mở đầu

Trong các bất thường phát triển của ruột trước thời kì bào thai, dị tật kết nối phế quản và ruột trước rất hiếm gặp, được định nghĩa là đường rò nối thực quản hoặc dạ dày đến một phần biệt lập của đường hô hấp. Điều này có nghĩa, phần hô hấp biệt lập này là phân thùy, thùy hay toàn bộ một phổi [19]. Phế quản xuất phát từ thực quản (PQTQ) là một nhóm phụ

của dị tật bẩm sinh này, dẫn đến đông đặc nhu mô phổi. Hầu hết các trường hợp được phát hiện trong thời kì sơ sinh hoặc người trưởng thành, giai đoạn nhũ nhi thậm chí còn hiếm hơn với tỉ lệ tử vong cao một phần do bị bỏ sót. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh tương tự như dị tật rò khí thực quản dạng H (H-type tracheoesophageal fistula) và khó có thể phân biệt với bệnh lý phổi biệt trí [1,6]. PQTQ đôi khi kết hợp với các dị tật bẩm sinh khác liên quan đến mạch máu hệ thống và hệ phổi, đường tiêu hóa, cột sống hoặc thành ngực…

chúng tôi báo cáo 1 trường hợp phế quản thùy giữa và dưới phổi phải xuất phát từ thực quản,

Phế quản xuất phát từ thực quản:

Báo cáo 1 trường hợp và xem lại y văn

Chiêm Hoàng Duy*, Trương Mạnh Điền, Trần Minh Tân, Dương Quốc Tường, Nguyễn Kinh Bang

Bệnh viện Nhi đồng Thành Phố, 15 Võ Trần Chí, Tân Kiên, Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam Nhận ngày 25 tháng 4 năm 2022

Chỉnh sửa ngày 5 tháng 5 năm 2022; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 5 năm 2022 Tóm tắt

Phế quản xuất phát từ thực quản là dị tật bẩm sinh hiếm gặp liên quan đến hệ hô hấp và hệ tiêu hóa, với rất ít trường hợp được báo cáo trong y văn. Chúng tôi mô tả một trường hợp và kết quả điều trị. Bệnh nhi 4 tháng tuổi nhập viện vì viêm phổi tái phát, phải hỗ trợ hô hấp thường xuyên, tiền căn sản khoa bình thường. Với sự hỗ trợ của chụp cắt lớp vi tính lồng ngực có thuốc cản quang, chụp thực quản dạ dày và nội soi tiêu hóa trên, chẩn đoán được xác định dựa vào các tiêu chuẩn theo y văn. Bệnh nhi được phẫu thuật cắt phế quản thùy giữa và dưới phổi phải, khâu lại thực quản. Phế quản xuất phát từ thực quản loại III được xác nhận dựa trên cơ sở về mô bệnh học sau mổ. Sau phẫu thuật 5 ngày bệnh nhi được rút ống dẫn lưu, tình trạng hô hấp cải thiện, tuy nhiên bệnh nhi còn trải qua một cuộc phẫu thuật tim mạch. Dị dạng phế quản xuất phát từ thực quản rất hiếm gặp do đó chẩn đoán trước phẫu thuật thường khó khăn, các bác sĩ lâm sàng thường chú ý vào tình trạng tổn thương của nhu mô phổi mà bỏ qua các bất thường của đường thở. Nội soi khí - phế quản nên được thực hiện ở các trường hợp teo thực quản phức tạp để tránh bỏ sót thương tổn này.

Từ khóa: Kết nối bất thường của phế quản và ruột trước, teo thực quản, phế quản - thực quản, dị dạng phổi - thực quản

* Tác giả liên hệ

E-mail address: [email protected] https://doi.org/10.47973/jprp.v6i4.426

(3)

kèm thoát vị bẹn phải, thông liên thất và động mạch phổi trái xuất phát từ đoạn gần động mạch phổi phải.

II. Báo cáo trường hợp

Bé trai 6 tháng tuổi, sinh thường đủ tháng, cân nặng lúc sinh 2.8kg, tiền sản không ghi nhận bất thường, có thoát vị bẹn phải không nghẹt ngay sau sinh. Bệnh nhi thở tốt, bú mẹ, 3 ngày tuổi xuất hiện khò khè nhẹ, điều trị thêm 2 ngày tại bệnh viện sản địa phương. 3 tháng tiếp theo bệnh nhi vẫn hay khò khè, thường về đêm, tình trạng hô hấp ổn, cân nặng 5kg.

Khi 4 tháng bệnh nhi được đi khám để điều trị thoát vị bẹn thì khởi phát sốt, ho, được chẩn đoán viêm phổi và điều trị nội trú 11 ngày. Sau xuất viện nửa tháng biểu hiện thở mệt, ho sốt lại, tình trạng không thuyên giảm nên nhập viện. X-quang phổi: khối mờ đồng nhất ở đáy phổi phải (Hình 1). Bệnh nhi được chỉ định siêu âm tim (SAT) và chụp cắt lớp điện toán ngực (CT) ngực tầm soát các dị tật phối hợp. Tình trạng nhiễm trùng mô tả ở sơ đồ 1 & 2. SAT ghi nhận: hở van 3 lá ¼, áp lực động mạch phổi (ĐMP) 60 mmHg, thông liên thất (TLT) phần màng 8 - 10 mm shunt trái - phải, cung động mạch chủ quay trái, dãn thân ĐMP, nhánh trái kích thước to hơn nhánh phải và xuất phát trễ, đi sang phải vòng ra sau khí quản. Siêu âm bụng có thận móng ngựa, bề dày eo thận trước cột sống 11mm, hai thận không ứ nước, xẹp đáy phổi phải. Chụp CT: bóng tim to, TLT kích thước 8mm; hệ mạch máu phổi:

3 nhánh cấp máu cho các thùy phổi phải xuất phát từ thân ĐMP, ĐMP trái 8,2mm xuất phát trễ, chạy sang phải rồi vòng ra sau sát cột sống, đi cùng phế quản gốc trái cấp máu cho phổi trái; khí quản 6,1mm lệch sang phải, phế quản gốc phải và trái lần lượt 4,2mm và 2,6mm, phế quản trung gian xuất phát từ thực quản ngang mức vòm hoành, xẹp thùy giữa và dưới phổi

phải (Hình 3). Nội soi hô hấp và tiêu hóa (Hình 2): ống soi chỉ vào được 1 phần phế quản thùy trên phải, phế quản gốc trái hẹp đồng tâm khẩu kính 2,5mm; 1/3 dưới thực quản cách tâm vị 3cm có cấu trúc lỗ dò đường kính 3mm tiết nhiều đàm từ miệng lỗ dò.

Hình 1. Khối mờ đáy phổi phải, góc tâm hoành

Hình 2. Lỗ rò trên tâm vị khoảng 3cm nhiều đàm nhớt

(4)

Hình 3. Chụp CT ngực đánh giá bất thường liên quan. A: đường rò xuất phát từ thực quản. B: phế quản trung gian cho thùy giữa và thùy dưới. C: Vòng thắt giả của ĐMP trái

Hình 4. Phẫu thuật đường sau bên ngực phải. A: 2 thùy phổi bệnh lý rất nhận định.

B: Đường rò vào thực quản.

C: Khâu lại lỗ mở thực quản A

A

B B

C

C

(5)

Bệnh nhi được phẫu thuật qua đường sau bên ngực phải, vào liên sườn V. Xác định hai thùy phổi bệnh lý rất đơn giản vì hai thùy này chưa từng thông khí (Hình 4). Nguồn cấp máu từ ĐMP và tĩnh mạch phổi dẫn lưu bình thường về tim. Đường rò phế quản trung gian - thực quản kích thước 6mm được cắt rời, miệng thực quản khâu mũi đơn với chỉ tan chậm, hoàn thành phẫu thuật cắt thùy giữa và dưới phổi phải. X-Quang sau mổ cho thấy thùy phổi còn lại thông khí tốt. Sau phẫu thuật 1 tuần bệnh nhân vẫn thở máy với thông số FiO2 30%, PEEP 6, ống dẫn lưu ngực được rút vào ngày thứ 4, cho ăn lại vào ngày thứ 6. Bệnh nhân vẫn được điều trị viêm phổi với kháng sinh Levofloxacin, Vancomycin, cấy đàm nội khí quản còn nhiễm Pseudomonas aeruginosa.

Mô bệnh học thâm nhiễm tế bào viêm trong phế nang nặng, xuất huyết trong phế nang, thành dày và vài tế bào khổng lồ trong khoảng kẽ. Bệnh nhi đang điều trị nội khoa tích cực và sẽ trải qua phẫu thuật đóng TLT.

III. Thảo luận

Trong báo cáo của chúng tôi, bệnh nhi chỉ biểu hiện khò khè từ sau sinh, một triệu chứng rất thường gặp, dễ bị bỏ sót hoặc hiểu nhầm do các bệnh lý của đường tiêu hóa. Chẩn đoán sau cùng là bất thường kết nối khí phế quản và ruột nguyên thủy loại III, trong đó phế quản xuất phát từ thực quản cực kỳ hiếm gặp, được phân tích trên cơ sở giải phẫu bệnh sau phẫu thuật. Dị tật này thường được phát hiện tình cờ khi tầm soát các bất thường phối hợp hoặc các đợt nhiễm trùng đường hô hấp tái phát, vì lẽ đó thường được chẩn đoán sau tuổi sơ sinh [2,4,14,21]. Tính đến năm 2019 chỉ có 61 trường hợp được báo cáo trong y văn, với 23 trường hợp phế quản xuất phát từ thực quản.

Dị tật này cũng có thể gọi là phổi - thực quản hoặc phế quản - thực quản tùy theo vào việc

gắn kết của phế quản gốc hay phế quản thùy vào ruột nguyên thủy [22]. PQTQ là kết quả của sự khiếm khuyết trung bì của chồi phổi trên thực quản, làm các chồi phổi phát triển không đầy đủ và sự tách rời khỏi ruột nguyên thủy bị gián đoạn [9,11].

Năm 1968 Gerle và cộng sự [17] lần đầu tiên đưa ra chẩn đoán dị tật phế quản - phổi và ruột nguyên thủy, được định nghĩa là một đường nối bất thường giữa một phần phổi biệt lập đến thực quản hoặc dạ dày. Srikanth [11]

phân thành 4 loại: loại I có kèm teo thực quản, trong đó thực quản đầu xa kết nối với một phổi biệt lập; loại II là sự kết nối giữa một phổi thiểu sản với đoạn dưới thực quản; loại III là kết nối của thùy phổi đến thực quản hoặc dạ dày và loại IV mô tả đường thông nối của khí quản, thực quản bình thường. Theo y văn, loại III là phổ biến nhất, theo sau là loại II. Bệnh nhi của chúng tôi có giải phẫu bệnh đường rò gồm các tế bào có nguồn gốc từ tiểu phế quản, được phân thành loại III (Hình 5).

Hình 5. Phân loại CBPFM

Nguồn: Srikanth M.S. Communicating bronchopulmonary foregut malformations:

classification and embryogenesis

(6)

Một bất thường thú vị khác ở bệnh nhi này là hình ảnh vòng thắt giả của ĐMP trái (sling). Sling [12] xảy ra khi ĐMP trái xuất phát bất thường từ ĐMP phải, đi giữa khí quản và thực quản đến cấp máu cho phổi trái. Yu và cộng sự báo cáo tỉ lệ Sling khoảng 59/1.000.000 trẻ ở độ tuổi học đường và theo Xie bệnh lý này chiếm 0,14% trong số các bệnh nhân được chẩn đoán tim bẩm sinh [8], [5]. Vòng thắt này đôi khi chèn ép nặng và tạo thành các vòng sụn khí quản hoàn toàn (ring-sling complex) [1]. Trong trường hợp này có ĐMP trái xuất phát trễ và đi song hành với phế quản gốc trái, chúng tôi nhận thấy đây cũng là một bất thường, ảnh hưởng tương đối đến chức năng hô hấp, tuy nhiên do bệnh nhi không biểu hiện khò khè hai thì, nên chỉ định sửa chữa Sling chưa được đề ra.

PQTQ có thể gặp ở bất kì lứa tuổi nào, nhưng hầu hết được phát hiện vài tháng sau sinh. Triệu chứng phổ biến nhất là ho kéo dài và trầm trọng hơn khi ăn dặm, viêm phổi tái phát, nôn ói hoặc nặng hơn là suy hô hấp. Đôi khi PQTQ thường dễ nhầm lẫn với bệnh lý teo thực quản loại H, với biểu hiện khó thở, ho hoặc tím tái khi ăn [3]. Tuy nhiên, hai bệnh lý này khác nhau về mặt giải phẫu. Teo thực quản loại H là một đường rò nối liền từ thực quản và khí quản, trong PQTQ thì khí quản có cấu trúc bình thường nhưng phế quản thùy lại bắt nguồn từ thực quản. CBPFM thường kết hợp với hội chứng Goldenhar, bệnh tim bẩm sinh hoặc biến dạng cột sống. Trường hợp của chúng tôi có tổn thương tim và hẹp phế quản gốc trái. Hình ảnh học gợi ý khi có đường nối bất thường vào nhu mô phổi trên phim chụp cản quang đường tiêu hóa trên. Chụp CT và dựng hình hiển thị thùy phổi tổn thương, trong thùy hay ngoài thùy, mạch máu nuôi dưỡng bất thường và các dị tật kết hợp [18].

Trong báo cáo này, CBPFM đã được nghi ngờ sau chụp CT ngực, tuy nhiên vì mức độ hiếm của bệnh, chúng tôi quyết định nội soi hô hấp và nội soi tiêu hóa trên để làm rõ chẩn đoán. Ngoài ra, chúng tôi cũng cần biết tình trạng đại thể của đường rò, mức độ viêm nhiễm để xem xét can thiệp triệt để một lần, hoặc cân nhắc sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể cắm lại phế quản kết hợp đóng thông liên thất.

Chẩn đoán CBPFM dễ bỏ sót do bác sĩ nhi khoa thường tập trung vào bệnh lý teo thực quản mà ít quan tâm đến bất thường ở phổi.

Atzori hồi cứu 62 trường hợp teo thực quản nhận thấy nội soi phế quản trước mổ giúp phân loại bệnh và phát hiện các bất thường của phổi [15]. Do đó chúng tôi đề nghị so với chụp cản quang đường tiêu hóa trên và CT ngực, nội soi khí - phế quản nên được làm thường qui ở các trường hợp teo thực quản có đường rò, để đề ra chiến lược phẫu thuật thích hợp.

Sự khác biệt giữa PQTQ và phổi biệt trí là ở nguồn cấp máu: PQTQ có nguồn cấp từ ĐMP, trong khi phổi biệt trí được nuôi dưỡng bởi tuần hoàn hệ thống [13]. Mối quan tâm của chúng tôi là chiến lược điều trị cho bệnh nhi này, vì một khi không định rõ nguồn cấp máu, phẫu thuật cắm lại phế quản sẽ có tình trạng đánh cắp máu hệ thống.

Phẫu thuật cắt bỏ thùy phổi vẫn là phương pháp điều trị cho CBPFM và nội soi lồng ngực đã được báo cáo trong những năm gần đây với kết quả rất khả quan [16,10]. Cắt toàn bộ phổi với CBPFM loại I và II có kết quả tốt ở tuổi sơ sinh, tuy nhiên hậu quả lâu dài, như biến dạng lồng ngực, vẹo cột sống và hội chứng sau cắt khí - phế quản (postpneumonectomy syndrome - PPS) đang được quan tâm. PPS xảy ra do biến dạng trung thất quá mức, cuối cùng dẫn đến suy giảm cấu trúc tạng nằm trong trung thất [20]. Một trường hợp trong

(7)

nghiên cứu của Yang đã phải phẫu thuật mở rộng lồng ngực triệu chứng bệnh mới thuyên giảm [22].

Lựa chọn khác cho điều trị CBPFM là phẫu thuật cắm lại phế quản. Đây là phương pháp nhằm bảo tồn chức năng và ngăn ngừa các biến chứng sau cắt phổi. Năm 1997 Michel [7] lần đầu tiên báo cáo hai trường hợp 13 và 25 ngày tuổi được điều trị thành công. Ông xác định rõ hệ mạch máu cung cấp và tiến hành thông khí chọn lọc để đánh giá chức năng hô hấp, bằng cách đặt nội khí quản vào trong lòng thực quản và thông khí vào phổi bệnh lý, đồng thời đánh giá độ bão hòa Oxy trong máu ngoại vi (SpO2). Tác giả nhận thấy biến chứng thường gặp của phẫu thuật là rò và hẹp phế quản, với một trường hợp được chữa khỏi bằng steroid. Tác giả cũng đề xuất cách tốt nhất để đánh giá nhu mô phổi bất thường là chụp CT ngực. Nếu nó không có dấu hiệu tổn thương (xẹp phổi, kén khí, áp xe…); hệ mạch máu nuôi dưỡng từ ĐMP và thông khí chọn lọc chứng tỏ phổi có chức năng thì phẫu thuật cắm lại phế quản nên được xem xét. Bệnh nhi của chúng tôi là một trường hợp đến muộn, nhu mô phổi trên CT đông đặc, có biểu hiện nhiễm trùng, nhiều đàm mủ trong nhu mô. Mặc dù có hệ mạch bình thường, chúng tôi vẫn quyết định phẫu thuật cắt bỏ thùy vì chúng tôi lý luận rằng các thùy phổi còn lại đang bảo tồn tốt chức năng hô hấp.

IV. Kết luận

Qua bài báo cáo, chúng tôi đề xuất nội soi hô hấp, tiêu hóa và CT ngực nên được thực hiện đầy đủ trong các bất thường của khí - thực quản. CBPFM loại III là một dị tật bẩm sinh hiếm gặp, triệu chừng thường bị bỏ sót/nhầm lẫn với teo thực loại loại H. Chiến lược phẫu thuật nên được đặt ra từ đầu và phải theo dõi chức năng hô hấp chặt chẽ sau mổ.

Tài liệu tham khảo

[1] Pimpalwar AP, Hassan SF.Esophageal bronchus in an infant: a rare cause of recurrent pneumonia. J Pediatr Surg 2012;47:5-8. https://doi.org/10.1016/j.

jpedsurg.2011.10.004

[2] Verma A, Mohan S, Kathuria M et al.

Esophageal bronchus: case report and review of the literature. Acta Radiol 2008;49(2):138-141. https://doi.

org/10.1080/02841850701673391

[3] Elumalai G. “Tracheoesophageal fistula” embryological basis and its clinical significance. Int J Dev Biol 2016;100:43414-43419.

[4] Ren H, Duan L, Zhao B et al. Diagnosis and treatment of communicating

bronchopulmonary foregut malformation: report of two cases

and review of the literature. Medicine

(Baltimore) 2017;96(11):e6307.

h t t p s : / / d o i . o r g / 1 0 . 1 0 9 7 / MD.0000000000006307

[5] Xie J, Juan YH, Wang Q et al. Evaluation of left pulmonary artery sling, associated cardiovascular anomalies, and surgical outcomes using cardiovascular computed tomography angiography. Sci Rep 2010;7:40042. https://doi.org/10.1038/

srep40042

[6] Chung JH, Lim GY, Kim SY. Esophageal lung diagnosed following the primary repair of esophageal atresia with tracheo-esophageal fistula in a neonate.

Surg Radiol Anat 2014;36(4):397-400.

https://doi.org/10.1007/s00276-013- 1173-6

[7] Michel JL, Revillon Y, Salakos C et al. Successful bronchotracheal reconstruction in esophageal bronchus:

(8)

two case reports. J Pediatr Surg 1997;32(5):739-742. https://doi.

org/10.1016/s0022-3468(97)90021-x [8] Yu JM, Liao CP, Ge S et al. The

prevalence and clinical impact of pulmonary artery sling on school-aged children: A largescale screening study.

Pediatr Pulmonol 2008;43:656-661.

https://doi.org/10.1002/ppul.20823 [9] Leithiser RE, Captitanio MA,

Macpherson et al. “Communicating”

bronchopulmonary foregut malformations. AJR Am J Roentgenol

1986;146(2):227-231. https://doi.

org/10.2214/ajr.146.2.227

[10] Joyeux L, Mejean N, Rousseau T et al. Ectopic extralobar pulmonary sequestration in children: interest of the laparoscopic approach. J Pediatr Surg 2010;45(11):2269-2273. https://doi.

org/10.1016/j.jpedsurg.2010.06.033 [11] Srikanth MS, Ford EG, Stanley P et al.

Communicating bronchopulmonary foregut malformations: classification and embryogenesis. J Pediatr Surg 1992;27(6):732-736. https://doi.

org/10.1016/s0022-3468(05)80103-4 [12] Yong MS, d’Udekem Y, Brizard CP et

al. Surgical management of pulmonary artery sling in children. J Thorac Cardiovasc Surg 2013;145(4):1033- 1039. https://doi.org/10.1016/j.

jtcvs.2012.05.017

[13] Sugandhi N, Sharma P, Agarwala S et al. Esophageal lung: presentation, management, and review of literature. J Pediatr Surg 2011;46(8):1634 - 1637.

[14] Sugandhi N, et al. Esophageal lung:

presentation, management, and review of literature. J Pediatr Surg 2011;46:1634-

1637. https://doi.org/10.1016/j.

jpedsurg.2011.04.057

[15] Atzori P, Iacobelli BD, Bottero S et al. Preoperative tracheobronchoscopy in newborns with esophageal atresia:

does it matter?”, J Pediatr Surg 2006;41(6):1054-1057. https://doi.

org/10.1016/j.jpedsurg.2006.01.074 [16] Katz R, Pitt R, Kim D et al. Thoracoscopic

pneumonectomy for communicating bronchopulmonary foregut malformation in a 4-month old child. J Pediatr Surg 2010;45(2):427-429. https://doi.

org/10.1016/j.jpedsurg.2009.11.045 [17] Gerle RD, Jaretzki A, Ashley CA et

al. Congenital bronchopulmonary- foregut malformation. Pulmonary sequestration communicating with the gastrointestinal tract. N Engl J Med 1968l;278(26):1413-1419. https://doi.

org/10.1056/nejm196806272782602 [18] Takamizawa S, Yoshizawa K, Machida

M. Successful tracheobronchial reconstruction of communicating bronchopulmonary foregut malformation and long segment congenital tracheal stenosis: a case report. J Pediatr Surg 2012;47:E41-E46. https://doi.

org/10.1016/j.jpedsurg.2012.06.009 [19] Bokka S, Jaiswal AA, Behera BK et

al et al. Esophageal lung: a rare type of communicating bronchopulmonary foregut malformation, case report with review of literature. J Indian Assoc Pediatr Surg 2015;20(2):92-95. https://

doi.org/10.4103/0971-9261.151558 [20] Soll C, Hahnloser D, Frauenfelder T et

al. The postpneumonectomy syndrome:

clinical presentation and treatment.

European Journal of Cardio-thoracic

(9)

Surgery 2009;35:319-324. https://doi.

org/10.1016/j.ejcts.2008.07.070

[21] Rathi V et al. Esophageal lung: a rare case of communicating bronchopulmonary foregut malformation. Indian J Basic Appl Med Res 2017;4:450-454.

[22] Yang G, Chen L, Xu C et al.

Congenital bronchopulmonary foregut malformation: systematic review of the literature. BMC Pediatrics 2019;19(1):1- 8. https://doi.org/10.1186/s12887-019- 1686-1

Referensi

Dokumen terkait

Saat ini, pada metastasis otak dengan jumlah lesi kurang atau sampai dengan 4 lesi, pengobatannya dapat menggunakan SRS karena memberikan kesintasan yang tidak lebih

CASE REPORT Corresponding Author: Fereshteh Fakor Reproductive Health Research Center, Department of Gynecology and Oncology, Alzahra Hospital, Guilan University of Medical

CASE REPORT Corresponding Author:Abbas Aghabiklooei Department of Forensic Medicine & Clinical toxicology, Firouzgar hospital, Tehran University of Medical Sciences, Tehran, Iran

It is common for all these risk factors to coexist in insufficiency fractures of the pelvis, making retrograde percutaneous screw fixation technically demanding in this subgroup of

Case Report Follicular Dendritic Cell Sarcoma of the Thyroid Gland in a Patient with Preexisting Hashimoto’s Thyroiditis: A Rare Case Report with a Literature Review Seyed-ahmad

Blue rubber bleb nevus syndrome in a Malay girl: A case report and literature review ABSTRACT INTRODUCTION: Blue Rubber Bleb Nevus Syndrome BRBNS also known as Bean’s Syndrome is an

Histologic examination revealed a well- differentiated cutaneous squamous cell carcinoma SCC, partly ulcerated, with bacterial colonization Figure 3 on a verrucous lichen planus on the

We report a rare case of a patient with secondary thymoma which occurred one year after lymphoblastic leukaemia/lymphoma and discuss the cause-effect relationship and pathogenetic