TẠP CHÍ CÓNGTHIÍÍNG
MỘT VÀI TRAO ĐỐI
VỀ CHI PHÍ VÀ LỢI Í ch khi áp dụng GIÁ TRỊ HỢP lý ở việt nam
• NGUYỀN THANH TÙNG
TÓM TẮT:
Chuẩnmực Báo cáo tài chínhquốctế(IFRS) là nhữngquy định về ghi nhận, lập và trình bày Báo cáo tài chính (BCTC) theomột khuôn khổ chung do IASB ban hành, được thừanhận và áp dụngrộng rãi ở nhiều quốc gia. Một trong những nội dungkhác biệt cơbản của IFRS so với chuẩnmực kế toánViệt Nam (VAS) đólàghi nhận nghiệp vụvàtrình bày BCTC theogiátrị hợp lý (GTHL). Bài viết trình bày những lợi ích cũng như thách thức của doanh nghiệp ViệtNam khi chuyển đổi vàáp dụng theo GTHL của IFRS, từ đó đưa mộtsố khuyên nghịđốivớicác doanh nghiệp tại Việt Nam để áp dụng GTHL hiệu quả tronglập và trình bày BCTC.
Từkhóa: báo cáo tài chính,giátrị hợp lý, báo cáotàichínhquốc tế, IAS.
1. Khái niệm giá trị hợp lý
BCTC đang sửdụng chủyếu 2nguyên tắc định giá cơ bản đó là nguyên tắc giá gốc và nguyên tắc GTHL. TạiViệt Nam, nguyên tắc giá gốc (hay còn gọi là giá phí lịch sử) vẫn là nguyên tắc cơ bản trong ghi nhận giá trịtài sản nóiriêng vàlập,trình bày BCTC tại các doanh nghiệp Việt Nam.
Từ những nămcuối thập kỷ90 của thếkỷ XX, GTHL đã được Hội đồng Chuẩn mực kếtoán quốc tế (IASB) đề cập đến là một cơsở tính giá quan trọng trongkê toán, thểhiện thông qua việc ban hành cácchuẩn mựckế toán quốc tế(IAS), như:
Tài sản, nhà cửa và thiết bị (IAS 16); Bất động sản đầu tư (IAS 40); Thuê tài sản (IAS 17); Đo lường và ghi nhận công cụ tài chính (IAS 39),...
Trong đó, GTHL được hiểu là mức giá mà một tài sản có thể được trao đổi giữa các bên có đầy đủ
thông tin trong một giao dịch hoàn toànnganggiá.
Sự khó khăn trong việc định giá theo GTHL đã gây ra sự thiêu nhât quán môi liên kết trong cách hiểu cách xácđịnh GTHL của các IAS (cụ thểlà IAS 16 và IAS 17).
Vì vậy, năm 2013, IASB đã ban hành một bộ chuẩn mực mới- IFRS -đểhướng dẫn đo lườnghay xácđịnh GTHL, đồng thờiyêu cầu vềthuyết minh GTHL trong BCTC.Theo đó IFRS 13 đã định nghĩa cụ thể- “Giá trị hợp lý là giá có thể nhận được nếu bán một tài sản hoặc phảitrảnếu chuyển giaomột khoản nợtrong một giaodịch bình thường giữacác bên tham gia thị trường tạingàyđo lường giá trị”.
Trong chuẩnmực này, GTHL là giá đượcxác định khách quan trên cơ sở giá thị trường hay giá trị chuyểnnhượng mà không theo đánh giá chủ quan củadoanh nghiệp.
2. Các lợi ích vàchiphí của việc áp dụng giá trịhựplýtạiViệt Nam
ViệtNam chưa có quy định bắt buộc cũng như cho phép ápdụng GTHL ởViệt Nam, nên tác giả sẽ tìm hiểu lợi ích và chi phí của việc áp dụng GTHL từ các nước trên thế giới đã áp dụng một
phần hay toàn bộ các quy định liên quan đến kế
toántheo GTHL:
2.1. Lợi ích của việcáp dụng GTHL
Lợi ích từ cách đolường mới so vớigiá gốc, là IFRS cho phép đo lường GTHL nhiềucấp độ, thành 3nhóm:
(a) Cấp 1: Giá niêm yết trên thị trường hoạt động đốivới cáctài sảnhoặc nợ phải trả đồng nhât trong các thị trường hoạtđộng mà doanhnghiệp có thể thu thập vào ngày địnhgiá.
(b) Cấp 2: Giá có yếutốđầu vào không phảigiá niêm yết ở cấp độ 1, bao gồm:Giániêm yết của tài sảnhay nợphảitrả tươngtự, trong thị trường hoạt động; hoặc Giá niêm yếtcủa tài sản hay nợ phải trả đồng nhất haytươngtự trongthị trường, không phải làthịtrườnghoạt động.
(c) Cấp 3: Giá có yếu tố đầu vào không quansát được trên thị trườngđốivới tài sản và nỢ phải trả.
Việc áp dụng IFRS 13 hoặc phân loại GTHL thànhcáccấp độ đã cung cấpthêmcác thông tin về các côngcụ tài chính và công cụ phi tài chính.
Bhamornsiri, Guinn, và Schroeder (2010) lưu ý phần lớn (70%)ước tínhGTHLdựa vào đầu vào thị trường (Mức 2), với giá thị trường (Mức 1) chiếm 23,5% ước tính và mô hìnhGTHL,còn ước tính dựa trên (Mức 3) chỉ 6.5% ước tính của GTHL. Một hiện tượng tương tựxuất hiện cho nợ phảitrả, với ước tính Cấp 2 chiếm 82,7% nợ phải trả được báo cáotạiGTHL.
Nghiên cứu của Lawrence, Siriviriyakul và Sloan (2016) cho thấy, tỷ lệ đáng kể của tài sản GTHL cấp 3trongtổng tài sảnvàlưu ý GTHL cấp 3 lànhiều thông tin hơn về dòng tiềntrong tương lai của chứng khoán và dự đoán nhiều hơn về lợi nhuận của chứng khoán trong tương lai so với GTHL Cấp1 và Cấp 2.
Nghiên cứu của Stefan Sundgrena và cộng sự (2018) cho thâ'y, chất lượng công bố thôngtin cao hơn nếu ápdụng theoIFRS 13,chấtlượng công bố
liênquan đến nhà phântích theodõi và chênhlệch giá thầu - yêu cầu,,...
Như vậy, áp dụng GTHL cho thấy chất lượng thông tin tốthơn qua nhiều nghiên cứu trên thế giới.
2.2. Chi phícũng nhưkhó khăn của việc áp dụngGTHL
GTHL phụ thuộc vào mô hình đo lường và các
loại tài sản khác biệt ởcáccấp độ khác nhau củahệ thống phân cấpGTHL.
Khả năngdự đoán khi dựa vào các thông tin áp dụng GTHL: GTHLtheo cấp 1 vàcấp 2 dự báo tốt hơn GTHL theo cấp 3 dẫn đếnchi phí vốncao hơn trong một vàitrường hợp.
Nhìn chung, bản thân việc côngbố các cấp độ phân câp theo IFRS 13 cũng như các quy định tương đương trongkếtoán Mỹ của SFAS 166 Kế toánChuyển nhượngTàisảnTàichính- mộtsửa đổi của Tuyênbố FASB sô' 140 cho phép các nhà phân tích tài chính cải thiệnđộ chính xác dự báo thu nhập của họ, thông tin cơ bản mỗi Câpcó thể dẫn đến một số nhầm lẫn và phân tán thêm giữa các nhà phân tích dự báo. Riedl và Serafeim (2011) sử dụng một mẫu củacác tổ chức tài chính HoaKỳ (quan sát theoquý của công ty) trong giai đoạn quý 2/2007- quý 2/2008 vànhận thây, lượng tài sảnGTHL cấp 3 lớn hơn có liênquan đến tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao hơn so với câ'p độ 1 hoặc 2 tài sản GTHL. Như vậy, dựa theo GTHL cấp 2 các nhà phân tích, dựbáo cókhả năng dự đoán chính xác hơn, còn với GTHL câp 3 sẽ có sự sai lệch nhiều hơn giữa các dựbáo.
Sựkhó khăn trong dự báo có thể dẫn đến các nhà đầu tưđòihỏi một phòng ngừa rủi ro cao hơn, cái có thể tác động đến chi phí sử dụng vốn của doanhnghiệp. Đốivới một mẫu quỹ đóng và chỉ sử dụng dữ liệu trong một năm (tức là năm 2010), Cullinanvà Zheng (2014) nhận thâytài sảnGTHL cấp 3 làm trầm trọng thêm chiết khâu và phí bảo hiểmcủa các quỹ đóng. Tương tự, Huang, Daovà Fomaro (2016) sử dụng một mẫu các tổ chức tài chính trong khoảng thời gian 2 năm của khủng hoảng tàichính (2008 - 2009)và nhậnthấy, lượng GTHL Cá'p 3 cao hơn có liên quan đến chiphí vốn cao hơn, trong khi GTHL cáp 1 và 2 có liên quan đến chiphí vốn thâ'p hơn.
TẠP CHÍ CÔNG THƯƠNG
3. Mộtsố khuyến nghị nhằm thúc đẩy việc áp
dụng giá trị hỢp lý tại Việt Nam
Từ phân tích các lợi ích cũng như chi phí của việc áp dụng GTHLbêntrên,tácgiả đưa ra một vài khuyến nghi nhằm thúc đẩy việc áp dụng GTHL tại Việt Nam.
Một là, tiếp tục rà soáthoàn thiện các văn bản pháp luật về kê'toán nói chung và lập, trình bày BCTC nói riêng, tạo sự thống nhất về quan điểm, tránh chồng chéo.
Tại Việt Nam, các quy định về kế toán nói chung và các quy định về việc lập và trình bày BCTC nói riêng nằm rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật, nhiều khi khó hình dung sẽ áp dụng quy định nào trongcác trường hợpcụ thể khi có sự chồng chéo hoặc chưa có văn bản hướngdẫn chi tiết. Tóm tắt lại, các quy định về kê toánViệt Nam bao gồm các độ sau: cấp độ cao nhất: Luật Kế toán; cấp độthứ hai: các Nghị định vàvănbản dướiluật hướng dẫn chi tiết thựchiện Luật Kế toán và các quy định có liên quan; cấp độ thứ ba: các chuẩn mựckế toán và chế độ kế toán do Bộ Tài chính và các cơ quan ngang Bộ ban hành (Ngân hàng Nhà nước) ápdụng chocác doanhnghiệp nói chung và các doanh nghiệp đặc thù; cấp độ 4:
hướng dẫnchitiếtnhất về việc thực hành kế toánở các nghiệp vụ, các khoản mục trường hợp cụ thể như là các thông tưhướngdẫn về lương, bảo hiểm
xãhội, các khoản thuế, chếđộ trích lập,khấu hao...
của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Lao động, Thương binh vàXã hội...các cơ quan quản lý nói chung về Thuế, Hải quan... (Hình1)
Như vậy, quan điểm ghi nhận theo GTHL nếu được áp dụng tại Việt Nam sẽ khôngchỉ ảnh hưởng đến văn bản pháp luật Chuẩn mực kế toán Việt Nam qua Bộ Tài chính ban hành, mà có thể cácvăn bản bêntrên và bên dưới của hệthông văn bản luật liênquan đến chuẩn mực kế toán Việt Nam phải thay đổi,trước tiên nhất là quan điểmkháiniệmvà ghi nhận về tài sản. nguồn vốn,... theo GTHL có được thừa nhận hay không trong LuậtKế toán, rồi sauđó là các thông tưhướng dẫn chi tiết việc thực hiện của các cơ quan quản lý có liên quan khi chuyểnđổitừ ghi nhận giá gốc quaGTHL. Vì vậy, khiáp dụngquy định ghi nhậnGTHL tại ViệtNam không chỉ đòi hỏi nỗ lực duynhấtcủaBộ Tài chính, mà còncó cả cáccơquan Bộ,ngành khác, cáchiệp hội nghề nghiệp,các doanh nghiệp, tổ chức có liên quan về quyền lợi và nghĩavụ... trong đó, Bộ Tài chính là cơ quan chủ quảnđầu mối cho việc triển khai áp dụng.
Hai là, xây dựng các cấp độ GTHL cụ thểcho việc ápdụng tạiViệt Nam
Trong khiIFRS 13 đưara 3 cấp độ vềviệc xác nhận GTHL thì ở Việt Nam, ngoài việc thiếu một chuẩnmựcchung quy địnhcụthểnhữngtrường hợp
Nguồn: tác giả tổng hợp
ghi nhận theo GTHL, cách hiểu về GTHL ở Việt Nam còn chưa thống nhất và rõ ràng. Điều này dẫn đếnmộtvài ý tưởng tương tựnhư GTHLmới đang xuất hiệnrảirácở 1 - 2chuẩn mực VASnhư giá trị thuần có thể thực hiện được trong VAS 02, hay đánh giá sựthay đổi của ảnh hưởngtỷ giá hối đoái trong VAS 10,đánh giá lại ngoại tệ cuối kỳcủa các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ theo chế độ kế toán hiện hành.
Vì vậy, để lộ trình áp dụng GTHL ở Việt Nam được rõ ràngvà sáng sủa, trước mắt các quy định về GTHLở Việt Nam có thể đượcxây dựng vàáp dụng với các trường hợp cấp độ dễ hơn khi xác định GTHLlà cấp 1 và cấp 2. Bên cạnh đó,theo thống kê, tỷ lệ áp dụng GTHL theomức2 và mức
1 chiếm đa số ở các nước. Với một thị trường tài chính đangtronggiaiđoạn phát triển ở Việt Nam việcápdụng dần dần mức độ phức tạp củacác quy định vềtài chính là cầnthiết, không nhấtthiết phải áp dụng ngay cácquy định quá phức tạp vềGTHL theo mức độ 3.
Ba là, mở rộng việc ghi chép theo GTHL trong các trường hợpcụthể
Các cơ quan quản lý về côngbốthôngtin của cácdoanh nghiệp đặc thù có thể chophéphoặcyêu cầu cácloại hình doanh nghiệp dưới đây cungcấp thông tin vềGTHL.Ví dụ: cho phép đánh giá lại tài sản cốđịnh là đất đai,bấtđộngsản(BĐS)của các doanh nghiệpBĐS, xây dựng nói riêngvà của tất cảcácdoanh nghiệp nói chung.
Thực tế,khivayngânhàng, tài sảnBĐScủacác doanh nghiệp xây dựng, BĐS cũng thường được đánh giá lại bằng các phương pháp thẩm định giá không theo giá gốc của các công tycung cấp dịch vụ thẩm định giá khi các tài sản này của doanh nghiệp được dùng làm tài sản thếchâp. Khi triển khai một dự án BĐS cần một nguồn vốnrất lớn so với nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Vì vậy, đa phần các doanh nghiệp cần đi vay ngân hàng hoặc huyđộng vốn từ hànhvithanh toán sớm của cáckhách hàng,trong đó các khách hàng cũng có thểđược tài trợvòn gópthanhtoán sớmcho chủ đầu tưdự án từngân hàng có liên kết với các chủ đầu tư này.
Một hình thức khác gần đây là các doanh
nghiệpBĐS đã phát hành trái phiếu huy động vốn thông qua cáccông ty chứngkhoán hoặc các đại lý - nhà đầu tư “chuyên nghiệp”- trên thị trường trái phiếu mà trong đó các công ty chứng khoán hoặc các “đại lý” này mua lô lớn trái phiếu của doanh nghiệp để hưởng chiết khấu. Sau đó, các doanh nghiệp này bán lại cho nhà đầu tư cá nhân mở tài khoản của các công ty chứng khoán hoặc ký hợp đồng hợp tác đầu tưcá nhân với các “đại lý” để mua trái phiếu của các doanh nghiệp BĐS trên.
Các giao dịch này có nên được pháp luật cấm? Nếu không câm thì cácgiaodịch trêncầnminh bạch hóa thông tin nhiều hơn, và nên mang tính bắt buộc trong công bố hoặc ít nhất khuyến khích để giảm thiểu rủi ro cho các bên liên quan. Rõ ràng trong các giao dịch này, những bên liên quan không ra quyết địnhdựatrên “giá gốc”củacác tài sảnđem cầm cố này. Vì vậy, các quy định bắt buộc hay khuyến khích mang tính cần thiết trong việc xác định GTHLcủacác tài sản làBĐSkhi đemcầmcố, thế châp đểhuy độngvốn củacác doanh nghiệp là cần thiết đểbảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, công ty chứng khoán,ngân hàng... Giá trị đấtđaiphụ thuộc vào rấtnhiềuyếu tố khách quan: vị trí, diệntích, cơ sở hạ tầngxung quanh... cũng nhưchủ quan (ví dụ về lựa chọn phương pháp định giá...). Vì vậy, quy địnhcụ thể chi tiết về lĩnh vực này khôngnhấtthiết là trong chuẩn mực kế toán mà trong các thông tư, nghị định... có liên quan càng làm cho giá trị BĐS được hợplýhơn.
Một trường hợp khác là giá trị của tài sản cố định trong các hoạtđộngbán tài sản là BĐS của doanh nghiệp. Đa phần thực tế trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, trong những năm doanhnghiệp bán các tài sản là BĐS thường ghi nhận khoản doanh thu lớn,kéo theo là khoản lãi lớntrong nămđó do giá vốn của cácBĐSnày là giágốc từ thời điểm muacáchđâyrất xa so với thời điểmbán hiện tại. Nếugiá BĐS tăngđộtbiến trong năm đó thìđa phần lợi nhuận ghi vào năm bán BĐS là hợp lý. Tuy nhiên, trong trường hợp mục đích mua BĐS là chờ tăng giátrong thời gian dài hoặc triển khai dựánkhi hợp lý thì việc tăng giá BĐS là tích lũy trong một khoảng thời gian tương đôi lâu khi có sự hoàn thiện dần dần củacơ
SỐ 14 - Tháng 6/2022 391
TẠP CHÍ CÔNG THƯƠNG
sởhạ tầngcũng như các yếu tố dân cư,xãhội... có liên quan. Vì vậy, nếu ghi nhận toàn bộlợi nhuận vào trong năm mở bán BĐS đó khi giá trị BĐS trên bảng cân đối kếtoán các nămtheogiá gốc có thể khiến tính bất đối xứng về thông tin giữachủ sở hữu, nhà quảnlý doanh nghiệp với nhà đầu tư nhỏ lẻ gia tăng khi các nhà đầu tư này thiếuthông tin về các tài sảndoanh nghiệp nắm giữ, nhất là những tài sản nắm giữ trong thời gian tương đốì lâu.Do đó, cácnhà đầutư nhỏ có thể thiệthại khi ra cácquyết định không phù hợp (mua, bán chứng khoán của các doanh nghiệp BĐS này) khi thiếu thông tin. Vì vậy, trong những trường hợp chắc chắn giá trị BĐS của doanh nghiệp tăng giá khi các tài sản là BĐS tương tự trên thị trường tăng giá qua đấugiá, khung giá đền bù của Nhà nước, khung giá đấu giá khởi điểm của địa phương tại khuvực đó gia tăng... cần có các quy định ép buộc hoặc khuyến khích doanh nghiệp nhât thiết cần đánh giá lại giá trịcủa các BĐS trong các khu vực tănggiá này.
Ngoài việc nắm giữtài sảnlàBĐSđể bán, trong trườnghợp nắm giữ tàisảnđể cho thuê, giá trị của các BĐS này có nênphụ thuộc vào giá thuê khi giá thuê gia tăng.Nếu theonguyên tắc thận trọng,tài sản không nên được ghi nhận quá cao, tuy nhiên trong trường hợp một giao dịch trong thị trường tương tự, doanh nghiệp đối thủ có thể phải bỏ ra nhiềutiềnhơnđểsở hữu một tài sản tươngtự doanh nghiệp để có một dòng tiền từ cho thuê tài sản giôngnhau. Vậy nếu so sánh một doanh nghiệp có doanh thu tương đươngtừ cho thuê tài sản từ một doanh nghiệp cùng ngành trên báo cáo thu nhập trong khi bảng cân đối của doanh nghiệp đó thu nhỏ hơn vì doanh nghiệpđó nắm giữ tài sản đó khá lâu so với bảng cân đôi phìnhto hơn của một doanh
nghiệp tươngtự do mớinắm giữ tài sản tài sảnBĐS đó thì sự so sánh trêncó còn nhiềuý nghĩa không với các nhà đầu tư.
Nhưvậy trong một vài trường hợp, dòngtiền thu nhập không tương xứngvới quy môtàisản chỉbởi doanh nghiệp đó đã nắm giữ các tài sản này lâu hoặcdoanhnghiệp đó đã tồntại lâu trên thị trường màcác tài sản này ghi nhận theo giágốc. Điều này dẫnđến nhà đầutư có thể đánh giá sailầm về hiệu quả sử dụngtài sản, khả năng sinh lời của tài sản trong một vàitrườnghợp cụ thể. Vì vậy, cần cung cấp thêm thôngtin trong những trường hợp doanh nghiệp dựđịnh nắmgiữ tài sản lâudàilà cầnthiết và một trong số đó là GTHLhiện tại củacáctài sản doanh nghiệp đang nắm giữ. Thực tế hiện nay ở Việt Nam vớiviệc phát triển du lịch, các khucông nghiệp, các căn hộ, văn phòng cho thuê không là chuyện hiếm với ngành BĐS. Như vậy, số lượng các bên liên quan trong một thị trường BĐS còn nhiềutiềm năng với ngày càng nhiềuloại hìnhsản phẩmmớinhư condotel,officetel,shophouse, BĐS khu công nghiệp... đòi hỏi minh bạch thông tin nhiềuhơn.
4. Kết luận
Áp dụng GTHL tại Việt Nam có thể đem lại nhiều lợi ích hơn chi phí theo những phân tích trong bài báo.Tác giả cũng đã đưa ra các nội dung có thể cần áp dụng GTHL trong tương lai ở Việt Nam khi so sánh các quy định về GTHL của Việt Namso với thế giới. Trongbối cảnh tương lai gần, nhàm thúc đẩy áp dụng GTHL ở Việt Nam, tác giả có một vàikhuyến nghị áp dụng GTHL trong một vài trường hợp cụ thể ở Việt Namtrướckhi có mộtquan điểm thống nhất, triển khaiđồng bộ sâu rộng về áp dụng GTHL tại ViệtNam trong việc lập vàtrìnhbàyBCTC ■
TÀILIỆU THAM KHẢO:
1. Bhamomsiri, s., Guinn, R. E., & Schroeder, R. G. (2010). The economic impact of SFAS No. 157. International advances in economic research, 16(1), 65-79.
2. Cullinan, c. p., & Zheng, X. (2014). Valuation scepticism, liquidity benefits and closed-end fund premiums/discounts: evidence from fair value disclosures. Accounting &Finance, 54(3), 729-751.
3. Freeman, w., Wells, p., & Wyatt, A. (2017). Measurement model or asset type: Evidence from an evaluation of the relevance of financial assets. Abacus, 53(2), 180-210.
4. Huang, H. w„ Dao, M„ & Fomaro, J. M. (2016). Corporate governance, SFAS 157 and cost of equity capital:
evidence from US financial institutions. Review of Quantitative Finance and Accounting, 46(1), 141-177.
5. Lawrence, A., Siriviriyakul, s., & Sloan, R. G. (2016). Who's the fairest of them all? Evidence from closed-end funds. The Accounting Review, 91(1), 207-227
6. Riedl, E. J., & Serafeim, G. (2011). Information risk and fair values: An examination of equity betas. Journal of accounting research, 49(4), 1083-1122.
7. Stefan Sundgrena, Juha Măkib, Antonio Somoza-Lopezc. (2018). Analyst Coverage, Market Liquidity and Disclosure Quality: A Study of Fair-value Disclosures by European Real Estate Companies Under IAS 40 and IFRS 13. The International Journal of Accounting, 53(1), March 2018. Pages 54-75.
Ngàynhận bài: 25/4/2022
Ngày phản biện đánh giá và sửachữa: 15/5/2022 Ngày chấpnhận đăng bài: 9/6/2022
Thôngtintácgiả:
ThS. NGUYỄN THANHTÙNG
Khoa Kếtoán- Kiếm toán,Học viện Ngân hàng
SOME DISCUSSIONS ABOUT THE COSTS
AND BENEFITS OF APPLYING THE FAIR VALUE STANDARD IN VIETNAM
• Master. NGUYENTHANH TUNG
Faculty of Accounting - Auditing, Banking Academy
ABSTRACT:
International Financial Reporting Standards (IFRS) are a set ofaccounting standards that govern how particular types of transactions and events should be reported in financial statements. They were developed and are maintained by the International Accounting Standards Board (IASB),and theIFRS iswidely recognized and appliedinmany countries. One ofthe main differencesbetween the IFRSandVietnamese Accounting Standards (VAS) is the recognitionof transactions andthe use of fair value in the presentation of financial statements.
This paper presents the benefits and challenges for Vietnamese enterprises when using the IFRS’s standardon fair value. Some recommendations are made forenterprises inVietnam to effectively apply the IFRSintheir preparation and presentation of financial statements.
Keywords: financialstatement,fair value, international financial statements,IAS.