• Tidak ada hasil yang ditemukan

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Đỗ Thị Nga1, Trương Thị Hoài Thu2

Tóm tắt: Giáo dục đại học là môi trường sư phạm giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện chức năng đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, hoạt động khoa học và công nghệ, phục vụ cộng đồng. Giáo dục đại học có vai trò quan trọng, góp phần trực tiếp chi phối quá trình đào tạo nguồn nhân lực, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Do đó, giáo dục đại học đã được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu giáo dục, đào tạo, các nhà quản lí, các cơ sở giáo dục đại học cần phải có kế hoạch, chiến lược phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả xin trao đổi một số thành tựu đã đạt được và phân tích những hạn chế còn tồn tại, qua đó xin đề xuất một số giải pháp nhằm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học hiện nay.

Từ khóa: Giáo dục đại học, đào tạo, nâng cao, chất lượng, cách mạng công nghiệp.

1. Mở đầu

Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đặc biệt, trong xu thế phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, giáo dục đại học nói riêng được coi là một trong những nền tảng giáo dục cao, trực tiếp chi phối quá trình đào tạo nhân lực trước mắt và lâu dài cho đất nước, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế là một việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết. Trong hơn 35 năm đổi mới, giáo dục đại học đã đạt được những thành tựu không nhỏ, song cũng còn những hạn chế, tồn tại. Do đó, nâng cao chất lượng giáo dục đại học đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước.

2. Nội dung

2.1. Một số kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại trong giáo dục đại học 2.1.1. Kết quả đạt được

Trong những năm qua công tác giáo dục đại học có những chuyển biến tích cực.

Chất lượng giảng dạy, nghiên cứu từng bước được nâng lên, mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học được mở rộng về quy mô, số lượng, ngành học. Năm 2020, cả nước có 176 trường đại học công lập, 66 trường ngoài công lập, với trên 1,9 triệu sinh viên. Đồng thời, có sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề phù hợp, nhiều ngành mới được mở thích ứng

1. Thạc sĩ, Trường Đại học Nguyễn Huệ 2. Cử nhân, Trường Đại học Nguyễn Huệ

(2)

với xu thế phát triển của xã hội và nhu cầu của người học, “tổng số ngành mở mới ở trình độ đại học là 184 ngành, tập trung chủ yếu vào các nhóm ngành Kĩ thuật, Công nghệ kĩ thuật, Máy tính và Công nghệ thông tin, Khoa học xã hội và hành vi, Kinh doanh quản lí, Pháp luật” (Đức). Chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Năm 2019, giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới (tăng 12 bậc so với năm 2018) (Trần Thị Minh Tuyết, 2022). Sự thăng tiến về thứ hạng của các trường đại học đi đôi với sự tăng cường về chất lượng của đội ngũ giảng viên theo chuẩn quốc tế. Tính đến năm 2020, “tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư trong toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam là 6%, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 22,7%” (Trần Thị Minh Tuyết, 2022).

Bên cạnh đó, vai trò, vị trí của các cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống dần được khẳng định; tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm được đề cao; hệ thống chương trình giảng dạy đã được đổi mới, chú trọng phát triển các phẩm chất, năng lực, kĩ năng thực hành, định hướng nghề nghiệp cho người học; phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực cũng được chú trọng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, kĩ năng sống cho sinh viên được đẩy mạnh …

Cơ chế, chính sách tài chính cho giáo dục và đào tạo từng bước đổi mới. Cơ chế tự chủ, cơ chế cung ứng dịch vụ công trong giáo dục và đào tạo được thể chế hoá và đạt kết quả bước đầu. Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng.

Công tác kiểm định và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học được tăng cường ngày càng đi vào nề nếp. Số lượng các cơ sở giáo dục đại học đạt tiêu chuẩn kiểm định quốc tế và trong nước tăng lên. Tính đến hết năm 2020, có 149 cơ sở giáo dục đại học và 9 trường cao đẳng sư phạm đạt tiêu chuẩn kiểm định theo bộ tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam (chiếm khoảng 55% tổng số các trường đại học trong cả nước), trong đó có 7 trường đại học đã được công nhận bởi các tổ chức, kiểm định quốc tế. Năm 2020, lần đầu tiên Việt Nam có 3 trường đại học được xếp trong nhóm 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội); 8 trường đại học của Việt Nam đã được đưa vào danh sách các trường đại học hàng đầu châu Á. Có 195 chương trình đào tạo của 32 trường được đánh giá, công nhận theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Tự chủ đại học đã tạo nên đột phá khi nhiều ngành, lĩnh vực đào tạo đứng trong top 500 thế giới (Hiếu Nguyễn, 2021).

Như vậy, trong những năm qua chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam đã có chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng kể, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định.

2.1.2. Những hạn chế tồn tại

Bên cạnh những thành tựu, giáo dục đại học Việt Nam vẫn còn những hạn chế.

Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; phát triển chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân

(3)

dân. Cụ thể: Nhiều cơ sở giáo dục đại học chất lượng đào tạo chưa đảm bảo, chưa xây dựng được chuẩn đầu vào, đầu ra, chưa xây dựng được nội dung, chương trình giảng dạy;

vẫn còn tình trạng “đem con bỏ chợ”, chạy theo hình thức, hư danh, quảng bá thương hiệu nhà trường sai với thực tế, đánh lừa tâm lí người học. Mặt khác, cơ sở vật chất ở hầu hết các trường đại học thuộc các loại hình đều chưa bảo đảm, thiếu phòng thí nghiệm …

Đồng thời, việc thành lập nhiều cơ sở giáo dục đại học, nâng cấp, chuyển đổi các trường cao đẳng lên đại học, thay đổi tên trường, mở rộng ngành nghề… chỉ chạy theo số lượng mà chưa chú trọng việc nâng cao chất lượng đào tạo khiến nhiều trường mất đi uy tín, hình ảnh, không tạo được thiện cảm, niềm tin với xã hội. Một số, cơ sở giáo dục đại học, hoạt động của Hội đồng trường, Ban lãnh đạo hiệu quả kém, vì chạy theo thành tích, vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm… vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, tham nhũng chính sách, trục lợi của công, hình thành phe nhóm thân hữu, dẫn đến mâu thuẫn, xung đột, đơn từ khiếu kiện kéo dài, mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lí cán bộ, giảng viên, sinh viên, làm giảm sút ý chí và tinh thần học tập, nghiên cứu, để lại những tổn thương trong suy nghĩ người học, làm “ô nhiễm” môi trường văn hóa học đường.

Mặt khác, trong quản lí thì buông lỏng, làm sai cơ chế, chính sách, quy định về thu chi, về tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập cũng như các công trình nghiên cứu khoa học một cách qua loa, đại khái, vi phạm nghiêm trọng chuẩn mực đạo đức và liêm chính học thuật; chà đạp và coi thường khoa học.

Bên cạnh đó, tình trạng đào tạo không gắn với nhu cầu và thực tiễn, với đòi hỏi của xã hội, dẫn đến sự lãng phí về nguồn nhân lực, tài chính, thời gian, làm chậm nhịp phát triển của xã hội, đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội khi nhiều sinh viên ra trường không có việc làm hoặc có việc nhưng phải đào tạo lại. Theo thống kê, năm 2020, “Việt Nam có 225.000 cử nhân, kĩ sư, thạc sĩ tốt nghiệp ra trường nhưng chưa tìm được việc làm, hoặc chấp nhận làm không đúng nghề nghiệp được đào tạo. Còn theo kết quả khảo sát tại 60 doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh về

“Đánh giá mức độ hài lòng của doanh nghiệp về chất lượng của sinh viên được đào tạo trong năm đầu tiên sau khi tốt nghiệp” (bộ tiêu chí để đánh giá là kiến thức lí thuyết, kĩ năng thực hành, trình độ ngoại ngữ, tác phong làm việc và kĩ năng nghề nghiệp), chỉ có 5% tổng số sinh viên tham gia khảo sát được đánh giá ở mức độ tốt, 15% ở mức khá, 30% ở mức độ trung bình và 40% ở mức độ không đạt” (Trần Thị Minh Tuyết, 2022).

Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông không muốn học lên đại học mà chọn con đường học nghề, du học, xuất khẩu lao động, lao động tự do. Vì thiếu nguồn tuyển sinh đầu vào, vì phải tự chủ tài chính, nhiều trường đã hạ điểm chuẩn, tiến hành nhiều phương thức xét tuyển, thậm chí mời gọi người học nhưng vẫn không đủ chỉ tiêu. Việc chạy theo số lượng, hạ thấp chuẩn đầu vào cộng với tâm lí bất an của giảng viên, khiến cho chất lượng đào tạo ngày càng thấp.

(4)

Ngoài ra, môi trường, điều kiện làm việc của một số cơ sở giáo dục đại học chưa đảm bảo; nhiều quy chế, quy định còn cứng nhắc, hành chính hóa, chưa thực sự thông thoáng để giảng viên phát huy hết tài năng, tâm sức cho nghiên cứu, giảng dạy. Chế độ tiền lương, phụ cấp, chính sách ưu đãi cho các giảng viên trẻ tài năng, có nhiều triển vọng trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học hiện chưa tương xứng, còn mang tính cào bằng. Chính sách thu hút, đãi ngộ, bố trí công việc phù hợp cho giảng viên trẻ, có năng lực, trình độ, được đào tạo ở nước ngoài còn nhiều bất cập. Điều này dẫn đến tâm lí chán nản, là tình trạng bỏ việc, dịch chuyển từ khu vực trường công sang trường tư, hoặc sang các lĩnh vực khác, gây sự xáo trộn, lãng phí nguồn tài nguyên chất xám. Theo số liệu báo cáo, năm 2022, “cả nước có 16.000 giáo viên bỏ việc, bình quân cứ 100 nhà giáo thì một người ra khỏi ngành” (Võ Hải, 2022). Mặt khác, những tác động tiêu cực của bối cảnh mới đã ảnh hưởng đến nhận thức, hành động của nhiều sinh viên, ảnh hưởng trực tiếp đến việc học tập cũng như chất lượng đào tạo ở nhiều cơ sở giáo dục đại học hiện nay.

Từ những hạn chế trên, Đảng đã nhận định: “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội”. Vấn đề đặt ra hiện nay là, những hạn chế, yếu kém phải được nhận thức sâu sắc để từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam lên một tầm cao mới.

2.2. Giải pháp

Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình hình mới, cần tiếp tục phát huy những thành tựu, kết quả đã được, đồng thời khắc phục những bất cập, hạn chế để giáo dục đại học xứng đáng là bậc học kiểu mẫu, tiên phong, dẫn dắt các bậc học khác cùng nỗ lực, cố gắng, hoàn thành tốt trọng trách, sứ mệnh mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao cho. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo các cơ quan quản lí, các cơ sở giáo dục về giáo dục đại học. Đây là giải pháp có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục đại. Bởi, nhận thức chỉ đạo hành động, có nhận thức đúng, sâu sắc mới có thể hành động đúng và hiệu quả cao, làm việc có lương tâm và trách nhiệm. Chất lượng, hiệu quả giáo dục đại học trước hết và xuyên suốt phụ thuộc vào nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể liên quan. Để thực hiện tốt giải pháp này, các cơ quan quản lí, các cơ sở giáo dục đại học cần thực hiện nghiêm túc, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng như các chính sách mà Nhà nước đã ban hành (Luật giáo dục đại học, Luật Giáo dục). Khẩn trương hoàn thiện và ban hành Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, tiến đến xây dựng chiến lược, kế hoạch về phát triển giáo dục đại học Việt Nam, trong đó xác định rõ mục tiêu, triết lí, tầm nhìn, sứ mệnh và những nguyên tắc của giáo dục đại học.

Thứ hai, phải thay đổi triết lí giáo dục đại học. Cần chuyển nền giáo dục lấy trang bị kiến thức làm mục tiêu chủ yếu sang một nền giáo dục dạy kĩ năng, dạy cách tự học,

(5)

cách tư duy làm chủ yếu. Trong quy trình dạy học đó, sinh viên đóng vai trò chủ động;

giảng viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho sinh viên cách thu nhận kiến thức và hỗ trợ, giải đáp các thắc mắc khi cần thiết. Do đó, cần phải có sự đổi mới, từ chương trình khung đến giáo trình và phương pháp giảng dạy... để trang bị cho sinh viên cách học, cách tư duy, tạo cho người học thói quen “hoài nghi khoa học”, năng lực phản biện các tri thức có sẵn và sáng tạo ra những tri thức mới. Đồng thời, cũng phải thay đổi một cách căn bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực. Các trường đại học phải cam kết “chuẩn đầu ra” phù hợp với yêu cầu, nhu cầu của xã hội, chứ không phải “chuẩn đầu ra” do trường, cụ thể hơn nữa là do giáo viên tự xác định. Để giáo dục đại học Việt Nam gắn kết với nhu cầu xã hội thì giáo dục đại học phải gắn kết chặt chẽ hơn với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ làm công tác quản lí giáo dục đại học. Đây là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, chất lượng của hệ thống giáo dục đại học luôn gắn chặt với chất lượng của đội ngũ giảng viên. Để xây dựng, phát triển đội ngũ này, cần có quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có chính sách thu hút các sinh viên giỏi ở lại trường làm công tác giảng dạy. Tạo điều kiện để các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia quốc tế tham gia vào việc giảng dạy, nghiên cứu của các trường đại học trong nước. Bên cạnh đó, cần có những người làm công tác quản lí giáo dục đủ tâm, đủ tầm, đủ tài để sử dụng đúng người, giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong giáo dục đại học theo tinh thần dân chủ. Cải thiện chế độ, chính sách đãi ngộ giảng viên, cán bộ quản lí giáo dục, vì đến nay, nghề giáo vẫn là nghề có thu nhập thấp trong xã hội. Tăng cường hơn nữa công tác thông tin, truyền thông để xã hội thấu hiểu, chia sẻ với những khó khăn, vất vả của đội ngũ nhà giáo và giữ gìn truyền thống “tôn sư, trọng đạo” của văn hóa Việt Nam.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học và tăng cường hợp tác, hội nhập quốc tế về đào tạo đại học, để xây dựng cơ sở hạ tầng, các thiết chế mang tính chuyên biệt trong các trường đại học, như giảng đường; thư viện; khu thực hành, sản xuất; không gian đổi mới sáng tạo; khu vui chơi giải trí, dịch vụ mua sắm, ẩm thực; khu nhà ở công vụ, khu kí túc xá sinh viên, đảm bảm các không gian đó có tính kết nối, liên thông, đồng bộ, hiện đại, tạo không gian, môi trường học tập thuận lợi. Tăng cường khả năng kết nối, học tập, trao đổi nhóm, kích thích khả năng sáng tạo và tinh thần chủ động, tích cực của mỗi sinh viên.

Bên cạnh đó, mở rộng mối quan hệ, giao lưu, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại học trong và ngoài nước, tạo cơ hội để sinh viên tham gia các chương trình trao đổi nghiệp vụ, chuyển giao tri thức, kinh nghiệm hoặc du học tại chỗ. Đồng thời tăng cường kết nối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội, đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, từ đó nâng cao tay nghề, trình độ và mở rộng cơ hội việc làm, thu nhập cho sinh viên.

(6)

Thứ năm, tiếp tục đẩy nhanh quá trình “chuyển đổi số” trong giáo dục đại học.

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, diễn ra rất nhanh, đặc biệt trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghệ 4.0 hiện nay. Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 749/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, giáo dục là lĩnh vực được ưu tiên chuyển đổi số thứ 2 sau lĩnh vực Y tế. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của giáo dục và chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng, không chỉ đối với ngành mà còn tác động rất lớn đối với đất nước.

Chuyển đổi số trong giáo dục đại học nhằm triển khai xây dựng có hiệu quả cơ sở dữ liệu ngành, đẩy mạnh kĩ năng và nâng cao chất lượng dạy học trực tuyến, dịch vụ công trực tuyến. Qua đó, giúp người dạy và người học phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo, sự chủ động và đạt hiệu quả. Mặt khác, tiếp tục sử dụng có hiệu quả hệ thống trao đổi văn bản điện tử, chữ ký số liên thông giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với cơ sở giáo dục, cá nhân có liên quan... để giảm bớt các thủ tục phiền hà cho các đối tượng tham gia vào hoạt động giáo dục đại học. điều này có thể khẳng định rằng, chuyển đổi số đã, đang và sẽ tạo ra những phương thức giáo dục phi truyền thống, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền giáo dục mang tính chuyển đổi sâu sắc vì con người.

3. Kết luận

Nâng cao chất lượng giáo dục đại học là tổng hợp những cách thức, biện pháp của các tổ chức, các lực lượng và của các chủ thể của quá trình giáo dục đại học nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tăng cường năng lực cạnh tranh của quốc gia trong khu vực và trên thế giới đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng của các cơ sở giáo dục đại học, là vấn đề thời sự có ý nghĩa khoa học trong bối cảnh hiện nay.

Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, trước hết cần quán triệt tốt các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động này; đồng thời, phải xây dựng được hệ thống giải pháp có tính khả thi, khai thác mọi nguồn lực hiện có để thực hiện có hiệu quả các giải pháp trên thực tế công tác giáo dục đại học. Các giải pháp trên tuy có vị trí, vai trò khác nhau nhưng nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có quan hệ biện chứng, hỗ trợ, tạo điều kiện, là cơ sở tiền đề cho nhau để phát huy cao nhất vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục đại học hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Đình Đức.3 thành tựu nổi bật của giáo dục đại họcViệt Nam”, Website của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tại địa chỉ: http://chuongtrinhkhgd.moet.gov.vn/tintuc-sukien/

Pages/tin-tuc.aspx?ItemID=4555

Võ Hải (2022). 16.000 giáo viên bỏ việc trong năm 2022. Báo điện tử Vietnamnet.vn.

(7)

Hiếu Nguyễn (2021). Giáo dục Đại học - những thành tựu nổi bật. Báo Giáo dục và Thời đại điện tử.

Trần Thị Minh Tuyết (2022). Đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Cộng sản điện tử.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1.

SOME SOLUTIONS TO IMPROVE THE QUALITY OF HIGHER EDUCATION

ĐO THI NGA, TRUONG THI HOAI THU Nguyen Hue University Abstract: Higher education is a pedagogical environment within the national education system that fulfills the functions of providing education at the tertiary level, engaging in scientific and technological activities, and serving the community. Higher education has a significant impact on the development of human resources with a view to meeting the needs of industrialization, modernization, and international integration.

As a result, higher education has received significant attention from the party, the state, and various levels and sectors. Therefore, tertiary education institutions and their administrators must have plans, development strategies, and ways to improve the quality of higher education in order to meet the requirements of education and training.

This is a necessary and urgent task. In this article, the author will discuss some of the achievements that have been gained, analyze the remaining limitations, and propose some solutions to improve the quality of higher education.

Key words: Higher education, training, improvement, quality, industrial revolution.

Referensi

Dokumen terkait

Thư viện đại học có thể góp phần cải tiến nội dung chương trình giảng dạy Sách giáo khoa và giáo trình chỉ là các khung cơ bản của nội dung chương trình đào tạo, tài liệu phong phú đa

Đảm bảo chất lượng bên trong liên quan đến các chính sách và cơ chế của mỗi cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo để đảm bảo rằng cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo đó thực

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 MEASURES TO IMPROVE THE QUALITY OF SCIENTIFIC RESEARCH AT

Như vây chúng tôi đã lựa chọn được 8 giải nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên chuyên ngành MCS hệ đại học trong giai đoạn hiện nay gồm: GP 1: Nâng cao tính chủ động lĩnh hội kiến

Đó là: Giải pháp về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học; Giải pháp về nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên; Giải pháp về đa dạng hóa cơ sở vật chất, trang

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC BẢO VỆ AN TOÀN THÂN THỂ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI Lê Thị Hoài Lan1 Đào Phan Đình Tài1 TÓM TẮT

Một số giải pháp nâng cao chất lượng hướng nghiệp, dạy nghề cho thanh thiếu niên rối loạn phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.3.1.Đẩy mạnh truyền thông nhằm nâng cao nhận thức

Để tăng cường tham mưu cấp có thẩm quyền trong công tác giải ngân vốn đầu tư trong thời gian tới, KBNN Đắk Lắk tăng cường phối hợp với các sở, ngành liên quan và định kỳ cùng với các