PH.ẪNGGHENBẢOVỆ, PHẮT TRIỂN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
GIAI ĐOẠN 1883-1895
★ TSNGUYÊN VĂN QUYẾT
★ ThS LÊMINH PHƯƠNG Học viện Chỉnh trị quốc gia Hô ChíMinh
o Tóm tắt: Sau khi C.Mác qua đời (1883), Ph.Ăngghen là người tiếp tục bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác trên các phương diện: triết học, kinh tế chỉnh trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học. Bài viết tập trung làm rõ những đóng góp to lớn của Ph.Ảngghen trong bảo vệ, phắt triển chủ nghĩa xã hộỉ khoa học giai đoạn 1883 -1895.
• Từ khóa: Ph.Ăngghen, chủ nghĩa xã hội khoa học.
1. Ph.Ãngghen phê phán các quan điểm cơ hội, cảỉ lương trong phong tràocông nhân
Chủ nghĩa cơ hội, cải lương trong phong trào côngnhân đã xuất hiện từ rấtsớm, ngaytrong Quốc tế I đã xuất hiệnchủ nghĩa vồ chính phủ của Bacunin, chủ nghĩa xã hội tiểutư sản của Prudon, năm 1862 xuất hiện chủ nghĩa cải lương F.Lassalle, đến những năm 1890, chủ nghĩa cơ hội đã phát triển rộng khắpchâu Âu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào công nhân.Chủ nghĩa cải lương, cơ hội đượcbiểu hiện ở một số đặc điểm chủ yếu như: Phủ nhận tính tất yếu của đấu tranh giai cấp,cách mạng XHCN, chuyên chínhvôsản; tuyên truyềnhợp tácgiai cấp, tin tưởngvào cải cách cóthể thay đổi đượcbản chất của chủ nghĩa tư bản; tuyên
truyền luận điệu “xãhội hiện đại đẻ ra chủ nghĩaxãhội"...Đứngtrước tình hình đó, để thúc đẩy phong trào công nhân phát triển, Ph.Ăngghen đãkỉên quyết đấu tranh, vạch trần nguyên nhânrađời, bản chất vàcáctác hại của chủnghĩa cơ hội.
Về nguồn gốc ra đời chủ nghĩa cơ hội, Ph.Ăngghen cho rầng, cũng như các quanđiếm chính trị - xã hội khác, chủ nghĩa cơ hội, cải lương không phải ngầu nhiên xuất hiệntheo ý muốn chủquan củamột cá nhân haytổ chức nào,mà cócăn nguyên sâu xatừ các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định.Căncứvào bối cảnh cụ thể lúc đó, Ph.Ángghen đã chỉ ra nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội trong phong tràocông nhân.
LÝ LUÂN CHÍNH TRỊ "SỐ11/2020
21
Về nguồn gốc xã hội, chủnghĩacơhội,cải lương thường gắnvới tầng lóp tiểu tưsản, công nhân“quýtộc”. Giai đoạn cuối thếkỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyểntừ tựdocạnh tranh sang độc quyền, sự tập trung sảnxuất và tư bảntăng lên làm bộphậnlớncác nghiệpchủ nhỏ bị phá sản. Do vậy,những người tiểu tư sản đã ồạt ra nhập vào giai cấpcông nhân, họ mang theo tâmtư,nguyệnvọng,ý thức của giai cấp mình.
Một bộphận không nhỏ trong số đó cũng trở thànhthủlĩnhcủa các đảng công nhân,và khi đó, tiếng nói của họ phản ánh tâmtư,nguyện vọng của tầng lóp tiểu tư sản.
Về kinh tế, chủ nghĩa cơhội hình thành do sựphụ thuộc lợiích kinh tếcủagiai cấp công nhân vào giai cấp tư sản: “Sự tham gia vào sự thốngtrịtrên thị trườngthế gióiđã là và vẫn là cơ sở kinh tế của tínhthụ động của côngnhân Anh. Bámtheo đuôi giai cấp tư sản trong việc sử dụng về phương diện kinh tế địa vị độc quyền đó, nhưngdù sao vẫn luôn luôn tham gia vào việchưởng lợi nhuậncủanó”{1).Chủ nghĩa cơ hội hình thành còn do những thủ lĩnhcủa phong tràocồngnhân đã bị lợi íchvật chất của giới tư sản mua chuộc, ở Pháp, bọn thủ lĩnh phái Khảnăngí2) đã: “bán rẻ các nguyêntắccho giai cấp tưsảnđể lấy những sự nhânnhượng cục bộ,mà chú yếu là để đượcnhững chiếc ghế ấm cúng cho các thủ lĩnh”{3!. Còn ở Anh, hội Pha biêng(4) là: “bè lũ các nhà “xâ hội chủ nghĩa” tư sảnđủ các màu sác...họliên hiệp với nhauchỉvì sợ hãisự thống trị củacôngnhân đang đe dọa,và họ sân sàng làmtất thảy để phòng ngừa mối nguy cơ ấy, bảo đảm cho mình, cho “những người có học vấn” quyền lãnh đạo”(5).
Về chính trị, chủ nghĩa cơ hội, cải lương trong phongtrào cộng sản, công nhânquốctế giai đoạn cuốithế kỷXIX ở các nướcTâyÂu
hình thànhmộtmặt do sự đàn áp tàn khốc của giai cấp tư sản làm cho một bộ phận công nhân sợ hãi, thui chột ý chí đấu tranh; mặt khác, bọn tư sản còn dùng chiêu bài thỏa hiệp, nhượng bộ một sổ lợi ích nào đó làm cho giai cấpvồ sản có ảo tưởng giành tháng lợi bàng con đường hòa bình. Tại châu Âu, thông qua con đường bầu cử, một số đại biểucủagiai cấp công nhân cũng giành đượcghếtrong nghị viện, từđó dân tới tư tưởngchủquan cho ràng, bâng con đường hòa bình, thông qua bầu cử cóthể tiến lên CNXH mà không cần đếncách mạng xã hội.
Vềbản chất của chủ nghĩa cơhội. Khác với các trào lưu tư sảnchốngchủ nghĩa Mác, chủ nghĩa cơ hội,cải lươngkhông phủ nhậnhoàn toàn chủ nghĩa Mác, phủ nhậnmục tiêuxã hội chủ nghĩa mà họ dùng các biệnphápcát xén, sửa đổi chủ nghĩaMác thích hợp với nhu cầu củagiai cấp tư sản.Cho nên, bên ngoài thì nói chủ nghĩa Mác nhưng bên trong chốngchủ nghĩa Mác; danh nghĩa làđại biểu cho lợi ích của giai cấp côngnhân nhưng thựctế làbảovệ cho lợi ích củagiaicấp tư sản. PhĂngghenkết luận, tư tưởng, quan điểm cơ hội chủ nghĩalà quan điểm tưsản, các phần tử cơhội chủnghĩa là cáiđuôi của giai cấp tư sản. Họ tạo ramột mặttrận tư sảntrongphongtràocôngnhânvà đảngcồng nhân.
Ảnh hưởng chủ nghĩa cơ hội với phong trào công nhân. Vềmặt khách quan, trong những thời điểm mà nhiệmvụchínhtrị đặt ra là tập hợp, tổ chức giaicấp vô sản nhầm thúc đẩy phongtràođi lên thì chủ nghĩacơ hội, cải lương lại đềxuất nhữngquan điểmcó tính chấtthỏa hiệp, hành động đó tạoramột sốảo tưởngcủa phong tràocông nhân:“Người ta đang tự lừa dối mình và lừadốiđảng rằng “xã hội hiện nay đangdần dần phát triển thành chủ nghĩaxã
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ-số 11/2020
hội”í6). Từ đó, chủ nghĩa cơhội làm tê liệt tư tưởng giai cấp công nhân, cổ vũ những kiểuđấu tranhnhỏgiọt,những cải cáchnhượng bộ,lấy đólàmmục tiêu của phong trào. Để thống nhất phong trào công nhân, đấu tranh chống các quan điểm cải lương, cơ hội, năm 1889, Ph.Ăngghen đã đứng ra thành lập Quốc tế II, Quốc tế xâ hội chủ nghĩa.
2. Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xăhội khoa học
Một ỉà, phát triển quan điểm về khả nẫng pháttriển rút ngắn iên chủ nghĩa xã hội ở các nước ỉạc hậu. Tháng Giêng năm 1894, Ph.Ângghen viết Lời bạtchotácphẩm “Vềvắn đềxâ hộiở Nga”i7) đâ trìnhbày mộtcách có hệ thống những vấn đề xã hội ở nước Nga nói riêng, các nước chậm phát triểnnói chung và khả năng quá độ lên CNXH ở các nước đó.
Ngườinhận thấy rằng, sự pháttriển phongtrào công nhân ở các nước Tây Âu đâ hé mở những con đườngpháttriển mớichocácnước chậm phát triển, không nhất thiết phải đi theo con đường của phương Tây.
Nếu theo quy luật phát triển tuần tự, các nước chậm pháttriển phải thực hiện cuộc cách mạngdân chủ tư sản, trải qua giaiđoạn phát triển tư bản chủ nghĩamới tiến lêncách mạng XHCN. Tuy nhiên,căn cứ vàođặc điểmcách mạngthế giới vàđặc thù xâhội các nướcchậm pháttriển,Ph.Ăngghenđưara dự báo các nước chậmphát triển hoàn toàn cóthể rútngán quá trình phát triển để tiến thảng lên CNXH:
“không nhữngcóthể mà cònchác chán là sau tháng lợicủa giai cấp vô sản và sau việc xã hội hóa các tư liệu sản xuấtở cácdân tộc Tây Âuthì những nướcvừa mới bước vào conđường sản xuất tư bản chủ nghĩa và vẫn còn có cácchế độ thịtộc nguyên vẹnhoặc những tàndư của chế độ thị tộc, có thể sử dụng những tàn dư đó của
sở hữu chung và những tập quán nhân dân tươngứng làm côngcụ mạnhmẽđểrút ngắn một cách đáng kể quá trìnhphát triển của mình lênxãhộixãhội chủ nghĩa và có thểtránhđược phần lớn nhữngđau khổ vànhững cuộc đấu tranh màở Tây Âu chúngta phải trải qua”(8). Điều này không chỉ đúngvới nướcNga mà đối với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản.
Haiìầ,phát triển ỉý luận về nguồn gốc gia đình, chếđộ tưhữu vànhà nước.Trước khi chủ nghĩa Mác xuất hiện, những quan điểm duy tâm, siêuhình thường cho gia đình, chế độ tư hữu và nhànước là hiện tượng tự nhiên,những phạmtrù bất biến. Căncứ vào những thànhtựu mới nhấtcủadân tộchọc, Ph.Ăngghen đã có nhữnglý giải hết sức thuyết phục về nguồn gốc giađình, chếđộ tư hữu và nhà nước.
Ph-Ăngghen chỉ ra ràng, ở giai đoạn thấp củathời kỳ môngmuội, loàingười vừa tách ra khỏigiớiđộng vật, trình độ sản xuấtcòn thấp
“tình trạng thiếukhả năng tự vệ của cá thể phải được thay thế bầngsức mạnh liên hợp và hành động tập thể của bây”(9). Từ quan hệtạp giao, chưa có hình thái gia đìnhtheo nghĩa khoa học,nhân loại trải quacáchình thức gia đình khác nhau nhưgia đình quần hôn, gia đình pu-na-lu-an, bước sang giai đoạn dã man, hôn nhân chuyển sang hôn nhân cặp đôi.
Theođà phát triển của lực lượng sản xuất, phạm vi sảnxuất không ngừng mở rộng, số lượng củacải tănglên:“Những của cải ấy, một khi đã trởthành sở hữu riêngcủa cácgia đình riêng rẽ và một khi đãtânglên nhanh chóng, thì đánh một đòn rấtmạnhvàoxãhộidựaưênchế độ hôn nhân cặp đôi và trên thị tộc mẫu quyền”íl0). Gia đình mộtvợmộtchồng thaythế gia đình cặp đôi, chỗ khác biệt là quan hệ hôn
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - số 11/2020
23
nhân mang tínhbềnvững hơn, nguyênnhân cơ bản do tài sản đỗ thuộc sở hữu tư hữu: “Chế độ mộtvợmột chồnglà hình thức gia đình đầu tiênkhôngdựatrên những điều kiệntự nhiên, mà dựatrên những điều kiệnkinhtế - tức là trênthánglợi của sở hữu tư nhânđối với sở hữu côngcộngnguyên thủy và tự phát. Sự thống trị của người chồng trong giađình, sự sinh đẻ ra những đứa con chỉ có thể là con của người chồng và phải được quyền thừa hưởng tài sản của người ấy, đấy là những mục đích đặc biệt củachếđộmột vợ mộtchồng"0
Từ việc khảo sát tỉ mỉ quá trìnhpháttriểnlâu dàicác hình thái gia đình, PhĂngghen đã vạch ra mối quan hệ chặt chẽgiữa gia đình với chế độ sở hữutài sản và sựphát triển xã hội nói chung. Trongthời kỳ xãhộithị tộc chuyển sang xâ hội có giai cấp, sự thay đổi của quanhệgia đình diễn raxen kẽvới sựrađời của chế độ tư hữu,giai cấp và nhànước. Cho nên,việc nghiên cứu sự phát triển,thay thế nhau của cáchình thái gia đình có ý nghĩa tham khảoquy chiếu đốivớiviệclýgiải các hiệntượng của xã hội có giai cấp và nhà nước. Ph.Ăngghen đã bổ sung vào chỗ đang còn trống của lịch sửgia đình, làmphongphúquan điểm duyvật lịch sử, đặt cơ sở khoa học vửng chăc chonghiêncứu xã hội nguyên thủy.
Về nguồn gốc của chế độtư hữu,giai cấp, Ph.Ăngghen đã lý giải một cách khoa họcsự xuất hiện chế độ tư hữu và giai cấpchủ yếu gán với sự pháttriểncủa sản xuất. Xã hội nguyên thủy, trìnhđộ lực lượng sảnxuất thấp, dẫnđến sở hữuchung tưliệu sản xuất, sảnphẩm làm ra thuộc sở hữu chung. Phâncônglao độngtự nhiên theogiới tính(nam và nữ). Xã hộibình đẳng, không có giai cấp, áp bức,bóclột, bất cồng. Do sự pháttriểnlựclượng sản xuất,trước hết là côngcụ lao động, dẫn đến các đọt phân
cônglao động (chănnuôi tách khỏi trồng trọt, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp,thương nghiệpra đời). Sự phâncông này làm năngsuất laođộng xãhội tăng lên,sản phẩm sảnxuấtra đa dạng, phong phú, vượt quá nhu cầu thiết yếu để duy trì sức lao động của cá nhân hay gia đình, tạo ra cơ sở hiện thựccho trao đổi hàng hóa. Nhưngcũngchính quá trìnhsảnxuất đó đặt ra yêu cầu kháchquanngười ta không chỉ sử dụng sứclao động của bản thân và gia đình màcòn có nhucầu sử dụnglao động củangười khác. Chiếntranh biện phápchiếmđoạtsức lao động, họ biến các tù binh thành nô lệ.Hệ quả về mặtchính trị và xã hội là:“đã nảy sinh ra sự phân chia lớn đầu tiên trongxãhộithànhhai giai cấp:chủ nồ và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột”021. Sự phát triển kinh tếhàng hóa còn làm xuất hiện công cụ trao đổilà tiển tệ,từ đó kéo theo tình trạng cho vaynặng lãi, cầmcố tài sản, làm tích tụ của cải vào taymột số người, trong khi một số khác bị phá sản, bần cùnghóa, sự phân hóa xã hội thành các giai cấp khác nhaungày càng sâusác.
Về nguồngốc,bản chất củanhà nước, củng giống nhưgia đình và giai cấp, nhà nước xuất hiện có nguồn gốc từ sựphát triển kinh tế.
Ph.Ăngghen chỉ raràng, vào cuốithời kỳ xã hội nguyên thủy, do sựra đời chếđộ tưhữu và giai cấp, kết cấu xã hội có sự thay đổi. Thị tộc - tổ chức xã hội dựa trên quan hệ huyết thống không còn phù họp.Tính cộng đổng về lợi ích trong nộibộ thị tộc tan rã, thay thế vào đó là quan hệ có tính đối khángvê' lợi íchkinh tế.
Những tập quán của xãhội thị tộc khôngcòn đủ khả nâng đểgiải quyếtcác mối quanhệ kinh tế-xã hội mới phát sinh. Những người giàu námđại bộ phậncủa cải xãhội, ngày càng đòi hỏi phá bỏ chế độ thịtộc cũ, xây dựngtrật tự xã hội mới đếbảo vệ lợi ích của họ và giải quyết
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ-SỐ11/2020
tốt hơn các công việc chung của cộngđồng. Do đó,nhà nước, thiếtchế quyền lựcmói của giai cấp thống trị đã ra đời trên đống đổnát của xã hội thịtộc.Ph.Ăngghen khái quát nguồn gốc, bản chất của nhànước:“Nhà nước là sản phẩm củamộtxã hội đâphát triểntớimột giai đoạn nhấtđịnh; nó là sự thú nhận ràng xâhộiđóbị lúng túng trongmột mối mâu thuần vớibản thân mà khôngsaogiải quyết được, ràng xã hội đó đã bị phânchia thànhnhững mặt đối lập không thể điềuhòa mà xãhội đó bất lực không sao loạibỏđược. Nhưng muốnchonhữngmặt đối lập đó, nhửng giai cấp cóquyền lợikinh tế mâu thuẫn nhau đó, khôngđi đến chỗ tiêu diệt lẫnnhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộcđấutranh vô ích, thì cần phải cố một lực lượng cần thiết, một lựclượng rõ ràng là đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làmdịu bớtsự xung đột và giữ cho sự xungđột đó nầm trongvòng
“trật tự”. Và lực lượng đó,nảy sinh ra từxâ hội, nhưng lại đứng trênxãhộivàngày càng tách rời khỏi xâ hội, chính là nhànước"!13). Nhà nước không phải là “hiện thực của ýniệm đạo đức”,
“hình ảnh hiện thực của lýtính” nhưcácnhàlý luận của giaicấp tư sản giải thích màlà sản phẩm củaxãhộiđãphát triển tứi một giaiđoạn nhất định.
Từviệc phân tích nguồngốcra đời nhànước, Ph.Ăngghen cũng dự báo khi lựclượng sản xuất pháttriểnđếnmộtmức độ nhất định, sự tổntại củagiai cấp không những không còn là mộttất yếu nữa mà trở thànhtrở ngại trực tiếpcho sản xuấtthì giai cấp sẽtiêuvong,giai cấp tiêuvong thì nhànước củng tiêu vong. Khi đó: “Xã hội sẽ tổ chức lại nền sảnxuấttrêncơ sở liên họp tự do và bìnhđẳng giữa những ngườisảnxuất, sẽ đem toàn thể bộmáynhànướcxếp vào các vị trí thật sự của nó lúc bấygiờ: vào viện bảo tàng đồcổ”(14).
Với cácluận điểm trên, Ph.Ăngghen đãlàm rõ sự ra đờicủa giađình,chế độ tư hữu và nhà nướcgán với mộtgiai đoạn lịch sử nhất định của sự pháttriển xãhội, là kết quả sự phát triển các nhân tố kinh tế. Xuất phát từ sự pháttriển của lực lượng sản xuất, từ sự thay đổicác điều kiện kinh tế, sự phâncônglao động xã hội để lý giải nguồn gốc ra đời giađình, chếđộ tư hữu, nhà nước, ồng đã góp phần bóc trần “vầng hào quang thần thánh” bao trùm nhận thức của con người về giai cấp và nhà nước. Quan điểm trên càng làmsâusác hơn phépbiện chứng duy vật về lịch sử xãhội loài người.
Balà, nêu ỉênnhững quanđiểm đúng đắnvề giai cấp nông dân và cải tạonông nghiệp trong cách mạng xã hộichủnghĩa. Giai cấp nồng dân cóvịtrí quan trọngtronglý luận cách mạng vô sản và chuyên chínhvôsản của chủ nghĩa Mác.
Tư tưởng này đã có từ nhữngnăm 1850. Khiđó, C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy, công nhân nông nghiệp với số lượng đôngđảo là đổng minhtự nhiên củacôngnhâncông nghiệp, tuy đâ giác ngộ cách mạng nhưng chưa tích cực thamgia phongtrào, dovậy phong trào công nhân thành thị chưathànhcông được.
Đến những năm 1890, chủ nghĩa tư bản phát triểnđếngiaiđoạn độc quyền, tập trung tư bản không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà cả nông nghiệp. Rấtnhiều nôngdân bị phá sản, hoặc gần như bị phá sản. Tâm lý bất mân tâng lên, phongtrào đấu tranhnổ ra ởnhiều nơi.
Thực trạngđó đặt ra chocác đảng công nhân phải có chính sách đúng đắnđể thu hút nông dân vào phong trào cách mạng.
Tuy nhiên, một bộ phận lãnh tụcủa giai cấp công nhânsay sưađấutranhnghị trường họp pháp,coinhẹ vấn đề nông dân, cho đếnkhi các phongtrào nông dân nổra, các đảngcông nhân ở Pháp, Đức mới chúýđến vấnđề này. Dù vậy,
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ-Số 11/2020
thực chất của khuynhhướngnày là mưutoan tranh thủ nông dân để tăng phiếu bầu vào nghị viện -mộtbiểu hiện rấtrõ của chủ nghĩa cơhội.
Năm 1892, Đại hội Marseille của ĐảngCông nhân Pháp thông qua cương lỉnh ruộngđất với nhiều nội dungtrái với nguyên tắcXHCN.Đến Đại hội Nantes (9-1894), khuynhhướng cơ hội càng nghiêm trợng hơn, khiđưa ra quan điểm cách mạng XHCN chỉ ở việc duy trì sở hữu ruộng đất của nông dân.ởĐức năm 1894,Đại hội Frankfurt của Đảng Dân chủ xã hộiĐứcnêu vấn đề đặc thù của sự pháttriển nông nghiệp để trình bàyquanđiểm cơ hội chủ nghĩa, khi cho ràng, khác với tư bảncôngnghiệp, trong nôngnghiệp, phươngthức phù hợp để đilên chủ nghĩa xãhộilà phát triểnquy mônhỏ, với chếđộ tiểu nông tư hữu.
Trước tình hình đó, tháng 11-1894, PhĂngghenđãviếtbài Vấn đềnông dân ở Pháp và Đức05’ nhàm phêpháncác quan điểmcơ hội trong vấn đề nông dân của hai đảng công nhân Pháp và Đức.Qua đó, trìnhbàymộtcách có hệ thống nguyên tắc, lập trường của chủ nghĩa Mác về vấn đề nông dân, vạch ra cương lĩnh của các đảngXHCNtrongcảitạonôngnghiệp.
Ph.Ăngghen chỉ rõ,phải thấy rõvị trí,vai trò chiến lược của nông dân trong cách mạng XIICN. Nôngdân khôngpháilà đối tượngđể tranh thủphiếu mà là nhân tố quan trọng về nhân khẩu, sản xuát, chính trị: “người nông dân đều là một nhân tố rất cơ bản của dân cư, của nềnsảnxuất và lực lượng chínhtrị” °6’. Cách mạng XHCNcũng khôngthể thành công nếu không quan tâm tới lợi ích của nông dân:
“khôngthể có được một cuộc cách mạng bền vững nào, mộtkhi nó chống ỉạìnguyện vọng của tiểu nông”'17’.
Ồngnêu rõ quan điểm về cải tạoXHCN trong nông nghiệp. Đặc điểmkhác biệt của nông dân
so với công nhân là, một bộ phận nông dân (tiểu nông, trung nông, phú nông) đềulànhững người cósở hữu tư liệusản xuất. Họluônluôn có nhu cầu “duytrì vĩnh viễn quyền sở hữu miếng đấtmanhmún của họ”‘18!, nhưngcách mạngXHCNhướngtớimụctiêu cônghữu các tư liệu sảnxuất. Vậy, làm thếnào đểthu hút nông dân tham gia phong trào cách mạng và cương lĩnh của những người XHCN với nông dân ra sao? PhÃngghen đã đưa ra hai quan điểm chính: (i) những người cộng sản thấy được sự tiêu vongtất yếu của tiểunông, nhưng tuyệt nhiên khôngcan thiệp để đẩy nhanhsự tiêu vong đó; (ii) sau khi giành được chính quyền, không dùng bạolực để tướcđoạt tiểu nôngmàchỉ tước đoạtđịachủ. Nhiệm vụ của những người cộng sản là: “hướng nền kinh doanh cáthểvàsở hữucủa họ vàocon đường kinh doanh hợp tác”'19’. Phải làm cho nông dân thấy được con đường họp tác là phù họp nhất vớilợi ích củahọ, giúphọthoát khỏi nguy cơ phá sản, việc sở hữuchung nhữngtưliệu sản xuất là mục đích chính phải đạt tới, không những trong công nghiệp mà cảnông nghiệp.
Bốn là,phát triển tư tưởng về sách lượccủa phong trào côngnhân. Trước nhữngthay đổi của tình hình kinh tế, chính trị tại các nước châu Âu lúc đó, về sách lược cách mạng, PhĂngghen đã có sựđiềuchỉnh cho phù họp.
Nếunhưthời kỳ 1848-1850, các ông quả quyết ràng, mộtcuộc cáchmạngvô sảnsắp nổravà giai cấp công nhân bàngbạo lực cách mạngcó thé giành được chính quyền:“tuyệt đối không nghi ngờ gì nữa ràng trậnquyết chiến vĩ đại đã bát đầu, ràng trận quyết chiến đó phải được tiến hành đến cùng trong một thời kỳ cách mạnglâu dài và đầy những chuyển biến, nhưng trận chiến đấu ấy chỉcó thể kết thúc bàng tháng lợicuối cùng của giai cấp vôsản màthôi”'20’.
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - số 11/2020
Tuy nhiên, đến nhữngnăm 90 thếkỷ XIX, trướcbối cảnh sựtrưởngthành về chính trị của giai cấp côngnhân vànhân dânlao động trong các hoạt động chính trị, nhậnđịnh về thờicơ cách mạng, Ph.Ăngghen đã thừa nhận: “Lịch sử đã chỉ rõ rằng trạng thái phát triền kinhtế trên lụcđịalúcbấy giờcòn rất lâumói chínmuồi để xóa bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”’211. Trong bối cảnh mâu thuẫn giai cấp không còn gay gát, tình thế cách mạng đã chuyển sang trạng thái hòa bình, Ph.Ăngghen đưara hình thức mới để giai cấpcông nhân giành chính quyền đólà thông qua bầu cử dân chủ: “sử dụng chế độ đầu phiếu phổthôngmột cách có hiệu quả nhưvậy, là giai cấp vô sản đã vận dụng một phương thức đấu tranh hoàn toàn mới và phương thứcđóngàycàng phát huy tác dụng”’221; “quyền đầu phiếu - từ chỗ trước đâylàmột thủ đoạn lừa bịpnay thành mộtcôngcụgiảiphóng”’23'.
Nhưvậy, đã thấy rõ những sự thay đổivề sách lược cách mạng ưongtư tưởng củaPh.Ăngghen.
Tuy nhiên,sự thay đổi nàykhồng phải là thay đổi lập trường, mục tiêu củaphong tràocông nhân mà chỉlà sự điều chỉnh phương pháp cách mạng cho phù họpvói yêu cầu củathựctế xã hội. Vì, thờicơ và hình thức cáchmạng cómối quan hệ biệnchứng vói nhau,trong những thời cơ này phải cóhình thức nhất địnhtương ứng.
Khitìnhthếcách mạng chín muồi, có thể nổ ra rộngkháp; khi đó, dùngbạolực cách mạng để đổng loạtgiànhchínhquyềnlà cầnthiết vàphù họp. Ngược lại,khi thời cơ chưa đến, việc sử dụnglinhhoạt các biện pháp khácnhau, nhất là các biệnpháphọp pháp là cần thiết. Nếu ở giai đoạn1848 -1850 mà đưaranhững hình thức nhưnhững năm 1895thì thậtlàảo tưởng, bởi những quan hệ giai cấp, xã hộỉkhông cho phép.
Tuy nhiên, trải qua một thời gian phát triển
tươngđốihòabình, bổi cảnhxã hội cụthể cho phép đưara những dự báo mới về hìnhthức giànhchính quyền.
Từ những sự phân tíchtrên chothấy, trong giai đoạn 1883-1895, trên phương diện chủ nghĩa xã hội khoa học, Ph.Angghen đã có đóng gópto lớn trongbảovệ, pháttriểnchủnghĩa Mác. Sự pháttriển nàyđều xuất phát từ thực tiễn phong trào côngnhân lúc đó chứ tuyệt nhiên không phảỉ từ mongmuốn chủ quan của cá nhân Ph.Ăngghen □
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.36, Nxb Chínhtrị quốc gia, HàNội, 1998, tr.88.
(2) “Phái Khả nãng”, tiếngPháppossibilỉté, một nhánhđược táchra từ đảng Công nhân Pháp nãm 1882, theo tư tưởngcótính chất cải lương
(3) C.Mác và Ph.Ángghen: Toàn tập, t.37, Nxb Chínhtrịquốc gia, Hà Nội, 1997, tr.319.
(4) Hội Fabian(lấy theotên gọimột thốngsoáiLa Mã Fabius Maximus 280-203 TCN) thành lập năm 1889 ở Anh, gồm những thành viên thuộctầnglóp trí thứctư sản, quanđiểm cơbản là phủ nhận học thuyết Mác vềđấu tranh giai cấp, họ quảquyếtcó thể chuyển từ chủnghĩa tư bảnlên chủ nghĩa xã hộibằng nhữngcảicáchnhỏ, cải tạoxã hộidần dần-quan điểm này còngọilà“chủ nghĩa xã hội thị chính”.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.38, Nxb Chính trị quốc gia, HàNội, 1997, tr. 591.
(6), (7), (8), (15), (16), (17), (18),(19), (20), (21), (22), (23) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Chínhtrị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.345,622-643,632, 713-746,715,734,735, 736, 757,761,769, 767-768.
(9), (10),(11), (12),(13),(14) C.Mác vàPhĂngghen, Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia, HàNội, 1995, tr. 63, 90, 103-104, 240, 252-253,258.
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - SỐ11/2020