Sô chuyên đề Pháp luật kinh tê
Glỉl HẠN lự DO HỌP HÓNG UÊN QUHN HẾN HÌNH ĨHIỈC TRONG HÓẠT DỘNG THƯONG MẠI
■ ThS. NGUYỄN THỊ KIM THANH *
1. Khái quát vê giói hạn tự do hợp đôngliên quan đến hình thức trong hoạt động thưong
mại
1.1. Sự cần thiết đưa /•« giới hạn tự do lĩựp đồng liên quan đến hình thức trong hoạt động thương mại
Hìnhthức hợp đồng là một trongnhững vấn đề
Mbs
Tp ;... , jk
pháp lýquan trọngtrong chể định hợp đồng. Hình thức hợp đồng là phương thức thê hiện nội dung của họp đồng (ghi nhận ý chí cua các bên) và những thútục mà pháp luật quy định bat buộc các bên giao kếtphai tuân thủ khi giao kết một số loại hợpđồngnhất định1. Pháp luật liên quan đen hình thức hợp đồng vừa cho phép các bên được lựa chọn hình thức họp đồng nhưng cũng có những yêu cầu bắt buộc đối với hình thức họp đồng khi
các bên xác lập họp đông cụthênào đó. Quyđịnh cho phép các bên được tự dothoa thuận lựa chọn hìnhthức hợp đồng không chỉ thehiện sự tôntrọng của pháp luậtđối với quyền tự do kinh doanh của các chu thê, mà còn góp phần tạo điều kiện thúc đẩycho giao lưu dân sựpháttriến. Bên cạnh quyền tự do lựa chọn hìnhthức hợpđồng, pháp luậtcũng yêu cầu họp đồng trong trường họp cụ thê phải được thế hiện dưới hình thức nhất định. Điều này thể hiện giới hạn tự do họp đồng liên quan đến hình thức họpđồng của các bên chủ thể và có nhiều ỷ nghĩa quan trọng trong thực tế đời sống xã hội.
Cụ thể:
Thứ nhất, là chứng cứ quan trọng trong quan hệhọp đồng.Thực tế cho thấy, nhiều khó khăn, vướng mắc xay ra trong việc chứng minh giữa các chủ thềtồntại một quanhệ hợpđồng, đặc biệt là hợpđồng đó lại được thể hiện dưới hình thức miệng (lời nói). Khăng định như vậy khôngcó nghĩalà mọi họp đồng đượcthế hiện dưới hình thức miệng đều không thể chứng minh được giữa các bên có quan hệ họp đồng. Trong trường họp hợp đồng được giao kết dưới hình thức miệng nhưng bằng phương thức nào đó, bằng thông tin nào đócácbên dẫn chứng được để khăng định giữa các chủthể tồn tại họp đồng thì điều này
* Khoa Kinh tế- Luật, Đại học Thươngmại
Dân chủ & Pháp luật
21Sô chuyên đề Pháp luật kinh tê
vần được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng, không phải trường hợp nào cũng có thê dễ dàng chửng minh giừacác bêntồn tại một họp đồng. Vì vậy, để có thể hạn chếtranh chấp xảy ra giữa các bên, giảm bớt khó khăn cho cơ quan nhà nước có thâm quyền, việc quy định định hình thức họp đồng trong những trường họp cụ thể là vấn đề cần thiết, nhất là khi hoạt động thươngmại trong và ngoài nước đang ngày càng phát triên như hiện nay.
Thứ hai, làcơ sở pháp lý quan trọng nhằm xác định điềukiện có hiệu lựccủa họp đồng.Hợp đồng được xác lậpdướihình thức nhất định trong một số trường họpkhông chi cóý nghĩa về mặt chứng cứ, mà còn có ý nghĩa quan trọng trongviệc xác định giátrị hiệu lực của họp đồng. Hiện nay, pháp luật họp đồngcùa một số quốc gia đưa ra yêu cầu bắt buộc về hình thứcđốivới một số họp đồngcụ thể và để xác định họp đồng đó có hiệu lực pháp luật haykhôngphụ thuộc vào quy định cụthể của mồi quốc gia. Neu trong quy định pháp luật yêu cầu họp đồng nào đóphải được xác lập dưới hình thức nhất định và hình thức đó là điều kiện có hiệu lực cùa họp đồng, thì điều nàychính là cơ sởpháp lý quantrọng để khang định hợpđồng đó docác bên chủ thế xác lập giá trị hiệu lực pháp lý của hợp đồng.
Thứ ba, đáp ứng yêu cầu về mật quản lý nhà nướcđối với một số họp đồng cụ thể. Thông qua việc yêucầu một số họp đồng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản, văn bản có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký,Nhà nước tạo ra cơ chế hữu hiệu nhằm báo đảm tính xác thực, ngăn ngừa đượcmột số hành vivi phạmpháp luật và bao đảm antoàn pháp lý đối với hợp đồng nói chung và họp đồng trong hoạt độngthương mại nói riêng.
Một số loại họp đồng được yêu cầu phải tuân
thú quy định về mặt hình thức thường là quan hệ họp đồng dề xảy ra tranh chấp, quan trọng không chỉ đối với các bênmàcòn quan trọngđối với Nhà nước. Xétcho cùng, những quy địnhvề giới hạntự do họp đồng liên quan đến hình thức họp đồng không phải là nhằm triệt tiêu quyền tự do họp đồng, mà là nhằm bao vệ lợi ích chung cua cộng đồng, cũng như lợi ích riêng cuacác bên chu thể tham giahợp đồng.
1.2. Quy định về giới hạn tự do hựp đồng liên quan đến hình thức trong hoạt động thương mại ở Việt Nam
Hiệnnay, quy định liênquan đếnhình thức họp đông được ghi nhận cụ thê trong Bộ luật Dân sự năm2015, Luật Thươngmại năm 2005 vàcác văn bản pháp luật khác có liên quan, về nguyên tắc, khi giao kết họp đồng, các bên chủ thể có quyền được tự do lựa chọn hình thức họp đồng. Một số quan điểm cho rằng, tự do lựachọn hình thức họp đồng đồng nghĩa với nguyên tắc không yêu cầu điều kiện vềhìnhthức2 hay cácbên đượctự do lựa chọn hình thức khi không có quy định khác3. Tuy nhiên, chưa có hệ thống pháp luật nào ghinhận tự do lựa chọn hình thức họp đồng một cách tuyên đối. Điều 119 Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định, giao dịch dân sựđược thế hiện bằnglời nói, bằng văn bán hoặc bàng hành vi cụ thể (khoản 1); giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tư dưới hình thức thông điệp dừ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản và trường họp luật quy định giao dịch dân sự phai được thế hiện bằng văn bản có côngchứng,chứngthực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (khoản 2). Đối với họp đồng trong hoạt động thương mại, tùy từng loại họp đồng mà pháp luật có sự ghi nhậncụ thể về hình thức hợp đồngtrong Luật Thươngmại năm 2005 vàcác văn
Sô'chuyên đề Pháp luật kinh tê
bản phápluật chuyên ngành khác có liên quan. So với trước đây, hiện nay, tựdo lựa chọn hình thức hợp đồng đã được mở rộng hon. Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy địnhhình thức hợp đồng là một trongcác điềukiện có hiệu lực cua hợp đồng.
Điều 401 Bộ luật Dân sự năm 2005 lại khăngđịnh, hợp đồng dânsự có thể được giao kết bằnglời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thê khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kếtbằnghìnhthức nhất định và hợp đồngkhông bị vô hiệu trongtrường hợp có vi phạm về hình thức, trừtrường hợp pháp luật quy định khác. Như vậy, các bêntrong họp đồng được phéptự do lựa chọn hình thứchọp đồng nếu pháp luật khôngquy định họp đồng phải tuân theo hình thức nhất định và hình thức họpđồngkhông là điều kiệncóhiệu lực của họp đồng nếu “pháp luật” không quy định.
Khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sựnăm năm 2015 quy định, hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lựccủa giao dịch dân sựtrongtrườnghợpluật có quy định. Theo quyđịnhnày, hình thức của họp đong không đương nhiên là điều kiện có hiệu lực của họpđồng, nó chi là điều kiệncùa họp đồng khi
“luật” quyđịnh. Khái niệmpháp luật theoquyđịnh của Bộ luật Dân sự năm 2005 rộng hơn nhiều so với khái niệm luật trong Bộ luậtDân sựnăm 2015.
Vì vậy, giới hạn tự do hợpđồng liên quan đến hình thức họp đồng trong Bộ luật Dân sự năm2015 chi đặt ra khi luật quy định. Luật ờđây được hiểu là vănbản do Quốc hội -cơ quan quyềnlực nhà nước cao nhất ban hành. Xu hướng mở rộng tự do họp đồng liên quan đến hình thứcvà thu hẹp giới hạn tự do hìnhthức họp đồng ờ Việt Nam được coi là phù họpvới quốctế. Pháp luậthọp đồng cùa Pháp và Thụy Sĩ ghi nhận hình thức hợp đồng không phải là điều kiện của họp đồng mà chỉ có ý nghĩa về mặtchứng cứ4. Trong cácgiao dịchthương mại,
các nước thuộc hệ thông pháp luậtChâu Au cũng khôngquy định hình thức bắt buộc của họp đồng, mở rộng tự do lựa chọn hình thức họp đồng cho các bên5.
Nhìn chung,quy định của pháp luậtvề giớihạn tựdo hợp đồng liên quan đến hình thức hợp đồng ở Việt Nam đãcó nhiềuthay đổi so với trước đây.
Đen nay, giới hạn tự do họp đồng liên quan đến hình thức hợp đồng vẫn được thể hiện thông qua một số quy định như: Họp đồng phải được lập thành văn bán, hợp đồng phải được công chứng haychứng thực, họp đồng phai được đăng ký.
2. Thực trạng pháp luật về giói hạn tự do họp đồng liên quan đến hình thức
2.1. Đối với họp đồng phải lập thành văn bản
Khái niệm văn bản không được luật đưa ra nhưng được giải thích thông qua một số quy định như: Giao dịchdân sự thông quaphương tiện điện tứ dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằngvănbản (khoản 1 Điều 119Bộluật Dân sự năm 2015); các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện,báo, telex,fax, thông điệp dừ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật (khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005). Trong một số trườnghọp, yêu cầu hợp đồng phải được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản là quy định bắt buộc, có thế không làm ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của hợp đồng, nhưng ít nhiều cũng có ý nghĩa về mặt chứng cứ trong trường họp xảy ra tranh chấp giữa các bên. Điêu nàythểhiện giới hạntự dohọp đồng liên quanđến hình thức mà các bên chu thế phải tuân thủ theo.Tuynhiên, khoản 2 Điều 119 Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định “trườnghợp luật quyđịnh giao dịch dân sự phái được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đãngký thì phải tuân theo quy định đó” đã bỏ qua yêu cầu nàyđốivới hình thức
Dân chủ & Pháp luật
23Sô chuyên đê Pháp luật kinh tế
văn bản, chỉđặtra yêu câu đôi vớivăn bản có công chứng, chứng thựcvà đăng ký. Trong khi đó, nhiều hoạt động thương nrại hiện nayđều ghi nhận họp đồng phải được thể hiện dưới hình thức văn ban.
Quy định này thể hiện sự không thống nhất giữa luật chung (Bộ luật Dân sự năm 2015) với luật chuyên ngành (Luật Thương mại năm 2005) và làm cho các quy định hình thức cua một số loại hợp đồng trong hoạt độngthương mại phai được thê hiện băng văn bán không còn ý nghĩa, bơi vì điều luật này chi đặt ra yêucầu tuân thu theo quy định của pháp luật đối với văn ban có công chứng, chứng thực hoặc đăng kỷ.
2.2. Đối với hợp đồng phải được công chứng, chứng thực
Công chứng, chứng thực làmột trong các hình thức bắt buộc cùa một số họp đồng. Hiện nay, quy định một số họp đồng phải được công chứng, chứng thựcnằm rải rác trong các văn ban pháp luậtchuyên ngành như Luật Nhà ở năm 2014, Luật Đất đai năm 2013, Luật Công chứng năm 2014, Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phu về cấp bản sao từ sô gốc, chứng thực bản sao từ ban chính, chứng thực chừký vàchứng thực họp đồng, giao dịch, Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dần thi hành mộtsố điều cua Nghị định số 23/2005/NĐ-CP... Nhìn chung, họp đồng yêu cầu phải được công chứng, chứng thực chu yếu là họp đồng liên quan đến bất động sản, hợp đồng chuyên quyền sư dụng đất, họp đồng cho thuê doanh nghiệp... Các bên chu thê không thực hiện đúng quy định của pháp luật về văn có có công chứng, chứng thực trong trường phápluật yêucầu,
thì giá trị hiệu lực pháp lý của họp đôngcó thê bị anhhương. Qua các điều luật nóitrên, có thể thấy, ơViệt Nam hiện nay tồn tại nhiều loại hợp đồng cầnphải được công chứng, chứng thực và sự hiếu biết cua các bên chủthê xác lậphọpđồng cũngcòn có hạn chế, không hiểu biết được hếtgiao dịch dân sự các bênxác lập phải tuânthủ hình thức văn ban có công chứng, chứngthực ra sao dần đếnthực tế họp đồng bị tuyên vô hiệu về hình thức họp đồng phải công chứng, chứng thực chiếm đa số6. Đây cũng là bất cập trong quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hình thức họp đong công chứng,
chứng thực, bởi vì, họp đồng được xác lập là nhằm giúp các bên đạt được mục đích mongmuốn của mình, chứ không phải là được xác lập sau đó bị tuyên vô hiệu, hon nữa, các bên đã có sự thoa thuận và thốngnhất ý chí với nhau. Bên cạnhđó, việc pháp luật hiện hành quy định có loạihọp đồng phài được công chứng, chứng thực cùng gây ra nhữngkhó khăn, bất cập. Ví dụ như, quy định thế chấp quyền sứdụngđấtpháiđược côngchứng gày ra sựphức tạp và phát sinh chi phí giao dịch không cần thiết, bơi bên nhận thế chấp là các tồ chức tín dụngđã có đầy đu năng lựcvà kinh nghiệm để xác lập hợp đồng thếchấpmàkhông cần sự hỗ trợ của
Sô chuyên đề Pháp luật kinh tế
cơquan công chứng. Đốivới hợp đồngđược pháp luật quy định hình thức phải là văn bản có công chứng, chứng thực còn cho thấy hoạt động công chứng, chứng thực hiện nay được thực hiện trên văn bản giấy,trong khi giao dịch dàn sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dừ liệucũng được coi làgiao dịch bang văn bảntheo quy định tại Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 12 và Điều 13 Luật Giao dịch điện tứ năm 2005 chưa được pháp luật quy định cụ thể. Điều này cho thấy sự chưa phù hợp giữa quy định cúa phápluật so với sự phát triển của xãhội nói chung và sự pháttriên của hoạtđộng thương mại điệntử nói riêng.
2.3. Đối với họp đồng phải được đăng ký
Đây cũng là hình thức hợp đồng được pháp luật hiện hànhquy định cụ thetrong nhiều vănbản pháp luật khác nhau. Ngoài quy định tại Điều 119 và Điều 298 Bộ luật Dân sựnăm 2015, hợp đồng phải được đăng ký còn được ghi nhận tại khoản 1, khoản 2 Điều 148 Luật Sở hừu trí tuệ năm 2005 (sứa đổi, bổ sung năm 2009) đó là hợp đồng chuyênnhượng quyền sờ hữu công nghiệp chi có hiệu lực khi đã đăng ký tại cơquan quản lý nhà nước về quyền sơ hữu công nghiệp và hợpđồng sư dụng đối tượng sở hừu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứbakhiđà được đãng kýtại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp. Khoản 3Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định trường hợp giao dịch phải được đăng kỷ việc chuyênđôi, chuyên nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sư dựng đất, góp vốn bằng quyền sư dụng đất phái đăng kỷ tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính... Qua một số quy định trên có thể khẳngđịnh rằng, phápluật hiện hành xác định đăng ký là điều kiện có hiệu lựccủa họp đồng trong mối quan hệ giữa các bên (ví dụ như họpđồng chuyểnnhượng quyền sở hữu công nghiệp), nhưng cũng có trường hợp không ảnh hưởng đến các bên mà chỉ ảnh hưởng đếnchuthế thứ ba (ví dụ nhưhợp đồng sử dụng đối tượngsởhữu công nghiệp).Thực tếcũng cho thấy, một số giao dịch áp đặt phái đăng ký và quy định có hiệu lực kê từ thời điểm đăng ký như khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 ờ trên nhưng không nói rõ đây là hiệulực vớicác bên haytrong mốiquanhệ vớingườithứ ba.Vớitrườnghợp chưa rõ ràng này đã gâyra sự khó khănchocông tác xét xư của Tòa án, có Tòa án giải quyết vụ việc theo hướng theo hướng đăng kỷ không làđiều kiện có hiệulực họp đồng giữacác bênvà có Tòa án giải quyết theo hướng họp đồng cùa các bên không được đăng ký nên bị vô hiệu7. Vì vậy, pháp luật liên quan đến vấn đề đăng ký trong giao lưu dân sự cầnthiết phải đượcđánhgiá, nhìn nhận và quyđịnh cụthê để tạo ra sự nhất quán,cách hiểu thống nhất trong quá trinh áp dụng.
3. Kiếnnghị hoàn thiện pháp luật vềgiói hạn tụ do họp đồng liên quan đến hình thức trong
hoạt độngthuong mại
Thứ nhất,
đôi với hợp đông phải được lập thành văn bủn. Đê tạo ra sự thống nhất giữa Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005 và đe cho quy định một số hợp đồng trong hoạt độngthươngmại phảiđược lập thànhvăn bản có ý nghĩa,tác giả cho ràng,nên quy địnhnội dung khoản 2 Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo hướng trường họp luật quy định giao dịch dân sự phai được thể hiệnbằng văn bàn, văn bản có công chứng, chứngthực, đăng ký thì phải tuân theoquy định đó.Thứ hai,
đoi với hợp đồng phải được côngDân chủ & Pháp luật
25Sô chuyên đề Pháp luật kinh tê
chứng, chứng thực. Tác giả cho rằng, pháp luật hiện hành cẩn rà soát loại những loại họp đồngnào cần phai được lập thành văn ban có công chứng, chứng thực, loại họp đồng nào chỉ cần lập dưới hình thứcvăn bản thông thường. Bên cạnh đó,đối với giới hạn tự do họp đồng liên quan đến họp đồng văn ban có công chứng, chứng thực này, tác giả kiên nghị, cân sớm bô sung trong pháp luật công chửng quy định cụ thê đối với vănbản thông qua phươngtiện điện tử dướihình thức thông điệp dữ liệu như công chứng thông qua mạng internet, quy trình công chứng, lưu trữ vãn bán công chứng... Bời vì, trong giao dịch điện tử, các bên trong họp đồng không phải bao giờ cũng có thể xuất hiện trướccông chứng viên đe yêu cầu công chứngvà trực tiếp ký vào họp đồng đó. Hiện nay, hoạt độngchứngthựcbản sao điện tử cũng đã bắt đầuđược quy địnhtronghệ thống pháp luật ở Việt Nam, cụ thể là Nghịđịnhsố 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020cùa Chính phủ vềthực hiệnthù tục hành chính trên môi trường điện tử (có hiệu lực kế từ ngày22/5/2020). Vì vậy,việcbô sung quy địnhvê côngchứng đối với văn bản thông quaphương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dừ liệu cũng là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng tronggiao lưu dân sự.
Thứ ba,
đối với hợp đồng pháiđược đăng ký.Đối với hình thứcnày, có học giảcho rằng, không nên coi đăng ký là một trong các hình thức họp đồng mà chỉ nên coi đây là thủ tục hành chính8. Tác giả chưathực sựđồng tình với quan điểm này, vớinhững phân tích trêncho thấy sự cầnthiết phải đưa ra giới hạn tự do họp đồng liên quan đến hình thức họp đồng, do vậy, vẫn nên đưa ra quy định yêu cầu họp đồngphải được đăng ký trong trường hợp nhất định nhưng cần phân biệt rõ hợp đồng phải được đăngký có hiệulực đối với cácbênhay đối với người thứ ba.
Nhìn chung, những quyđịnh của pháp luật hiện hành về giới hạntự do họp đồng liên quanđênhình thứchọp đồng về cơ bàn khônglàmcàn trởsựphát triển củagiao lưu dân sự, haylàm hạn chế quyền tự do kinh doanh trong đó có quyền tự do họp đồng. Quy định pháp luậtvề vấn đềnày khi được hoàn thiện, phù họp với thực tiềnđời sống xãhội sẽ có những đóng góp quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên, trong việc bảo vệ quyền,lợiích họppháp của cácbên, lợi ích chủ thê thứba vàlợi ích chungcủa toàn xã hội □
1. Lè Thị Bích Thọ (2002), Hình thức của họp đông kinh têvà điêu kiện có hiệu lực của hợp đông, Tạp chí Luật học số 2, tr. 43.
2. Projetdecadrecommun dereference (2008), Principes contracttuelscommuns,Nxb. Societedelegislation compare, tr. 218 -220.
3. Đô VănĐại (2018), Luật hợp đông ViệtNam - Bàn ánvà bình luận bảnán, Nxb. HôngĐức, tr. 795.
4. Lê ThịBích Thọ, Hình thứccủa họp đồngkinh tếvà điều kiện cóhiệulực cùa hợp đồng, Tạp chi Luật học tháng3/2002, tr. 44.
5. Điều 1.2, Unidroit, Nguyên tắc hợp đồngthương mại quốctế.
6.Đô Văn Đại (2018), Luật hợp đỏng Việt Nam, Bản án và Bình luận bản án,Nxb. Hông Đức. HàNội, tr. 828.
7. Đo Văn Đại (2018), Luật hợp đồng ViệtNam, bán án và bìnhluậnbảnán, Nxb. Hồng Đức,HàNội, tr. 845 -846.
8. Đo Văn Đại (2018), Luật hợp đồng ViệtNam. bản ánvà bìnhluận bản án, Nxb Hông Đức. Hà Nội, tr. 855.