ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
PHẤN ĐẨU ĐẠT CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ vĩ MÔ TRONG BÔI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
NGUYỄN ĐẮC HƯNG* **
* Nguyễn Đắc Hưng, Khoa Kinh tế, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
** Thân Thị Vi Linh, Học viện Ngân hàng
THÂN THỊ VI LINH"
Trong nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng GDP phần lớn đến từ thị trường tài chính thông qua nhiều chủ thể và các kênh khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, mặc dù thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp đang phát triển mạnh, nhưng vốn đấu tư của các thành phần kinh tế (bao gồm cả vốn đầu tư FDI) phần lớn vẫn đến từ kênh tín dụng ngân hàng. Trong hai năm 2020-2021, Chính phủ siết chặt thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp thì vốn tín dụng ngân hàng lại càng có vị trí quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước. Bài viết phân tích chính sách tiền tệ, hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng năm 2020 và 2021; đánh giá hạn chế; đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ.
Từ khóa: chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng, đại dịch Covid-19.
In any economy, investment capital for GDP growth mostly comes from the financial market through many various actors and channels. However, in Vietnam's context, although the stock market and corporate bonds are developing strongly, the investment capital of all economic sectors in general, including FDI, still largely comes from the bank credit channel. In the two years POPO- POP 1, as the Government tightened its regulation over the stock market and corporate bonds, bank credit capital has played an even more important role in the country's economic development. The paper analyzes Vietnam's monetary policy, operation of banks and credit institutions during 2020-
2021, and proposes some solutions to improve the efficiency of its monetary policy.
Keywords: monetary policy, banking activities, Covid-19 pandemic.
Ngày nhận: 15/1/2022 Ngày đánh giá, phản biện: 2/2/2022 Ngày duyệt đăng: 20/2/2022
1. Điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng Thực hiện Nghị quyết số Ol/NQ-CP (các năm 2020, 2021) của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Ke hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước, và một số nghị quyết về các giải pháp có liên quan, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế, những năm qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã chủ động, linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ (CSTT); các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng đẩy mạnh huy động vốn, mở rộng cho vay an toàn, cơ cấu lại nợ kịp thời, đúng quy
định cho khách hàng gặp khó khăn bởi đại dịch Covid-19.
Các hoạt động trên đã góp phần quan trọng trong kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng GDP và giải quyết một số chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 đã tác động rất lớn đến việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Ve thực hiện mục tiêu lạm phát:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2021 của Việt Nam tăng 1,84% so với năm 2020, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016.
Lạm phát cơ bản bình quân năm 2021 tăng 0,81% so với bình quân năm 2020. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân năm 2021 giảm 0,97%
so với năm trước [1], về tăng trưởng kinh tế:
Năm 2021, tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ
đạt mức 2,58%, thấp nhất trong nhiều năm qua và thấp hơn cả năm 2020 [2],
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm 24/12/2021, tổng phuơng tiện thanh toán tăng 8,93% so với cuối năm 2020;
huy động vốn của các TCTD tăng 8,44%; tăng trưởng dư nợ tín dụng của các TCTD đối với nền kinh tế đạt 12,97%. Như vậy, vốn tín dụng tăng gấp 1,5 lần tăng trưởng vốn huy động của các TCTD và cao hơn nhiều so với mức tăng của tổng phương tiện thanh toán [3],
Huy động vốn của hệ thống TCTD để đầu tư vốn tín dụng cho khách hàng và góp phần huy động vốn trên thị trường chứng khoán, từ đó đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng nền kinh tế trong giai đoạn chịu ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19. Thực tiễn những tháng cuối năm 2021 đã cho thấy rõ thực trạng đó.
Theo số liệu của NHNN, cuối tháng 11/2021, tiền gửi dân cư (không tính tổ chức, doanh nghiệp) tại các TCTD đạt gần 5,277 triệu tỷ đồng, giảm hơn 23.400 tỷ đồng so với cuối tháng 10/2021. Trước đó, trong tháng 10/2021, tiền gửi của người dân tại các TCTD tăng hơn 8.500 tỷ đồng sau khi liên tiếp sụt giảm trong tháng 8 và tháng 9/2021. Tính chung 11 tháng đầu năm 2021, tiền gửi của dân cư chỉ tăng gần 135.100 tỷ đồng so với cuối năm 2020, tương đương với mức tăng khiêm tốn 2,63%.
Đây là mức tăng thấp nhất trong khoảng 15 năm gần đây [4],
Tiền gửi của dần cư giảm có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng là một lượng đáng kể số vốn này trên thị trường tiền tệ đã "chảy" sang thị trường chứng khoán trong điều kiện lãi suất tiền gửi NHTM có xu hướng giảm, TTCK tăng trưởng nóng, cùng với đó là dòng vốn chuyển dịch sang kênh đầu tư bất động sản. Ngoài ra không ít người đầu tư mua vàng, đầu tư tiền điện tử, trong khi lãi suất tiết kiệm vào cuối năm 2021 giảm khá, khiến người dân không muốn gửi tiền vào các NHTM.
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại các
NHTM tăng hơn 153.200 tỷ đồng trong tháng 11/2021, sau khi giảm gần 7.900 tỷ đồng tháng 10/2021. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 11/2021, tiền gửi tổ chức tăng hơn 525.600 tỷ đồng, tương đương 10,78%.
Phân tích nguyên nhân tiền gửi doanh nghiệp có tốc độ tăng cao hơn tiền gửi dân cư cho thấy, trong điều kiện đại dịch Covid-19 kéo dài và diễn biến phức tạp, phải thực hiện dãn cách xã hội, nhiều hoạt động bị đứt gãy chuỗi cung ứng, nhiều lĩnh vực dịch vụ bị ngưng trệ. Do đó, nhiều doanh nghiệp không triển khai được dự án hay triển khai dự án chậm hơn dự kiến [5].
Xem xét số liệu của NHNN, tính đến cuối tháng 11/2021, tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại hệ thống TCTD tăng 10,57% so với cuối năm 2020, đạt gần 5,404 triệu tỷ đồng. Với mức tăng trưởng trên, tiền gửi của các tổ chức, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp đã chính thức vượt tiền gửi của dân cư trong 11 tháng đầu năm 2021 [6],
Như vậy, từ tháng 3/2021 đến hết tháng 10/2021, tiền gửi của nhóm khách hàng dân cư tăng rất chậm, không có tháng nào tăng trên 0,5%, thậm chí có những tháng tăng trưởng âm. Đây là diễn biến chưa từng thấy ở những năm trước đây, bởi thông thường tiền gửi của dân cư luôn tăng trưởng đều, nếu giảm ở những tháng đầu năm thường do yếu tố mùa vụ Tốt Nguyên đán [7],
2. Diễn biến lãi suất trong nền kinh tế
Thực thi chính sách tiền tệ trong bối cảnh đại dịch Covid-19, NHNN đã điều chỉnh giảm ba lần các mức lãi suất điều hành, tổng mức giảm 1,5-2,0%/năm. Trên cơ sở điều chỉnh các mức lãi suất điều hành đó, đã tác động giảm 0,6-1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi nội tệ (VNĐ) của khách hàng tại NHTM các kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 0,3% - 0,6%/năm trần lãi suất tiền gửi đến 12 tháng; giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn nội tệ đối với các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp,
SỐ 42 (02-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ I 51
THựCTÉ-KINH NGHIỆM
___ •__________________ •________
công nghiệp hỗ trợ,... với tổng mức giảm 1,5%/nãm, đến cuối tháng 10/2021 dao động ở mức 4,5%/năm [8],
NHNN đã chủ động hỗ trợ thanh khoản cho TCTD, tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp hơn, không tăng lãi suất huy động vốn trên thị truờng I (thị trường giao dịch với dân cư và tổ chức). Trong năm 2021, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp. Bên cạnh đó, thực hiện Nghị guyết số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững, những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022, dưói sự điều hành của NHNN, có 16 NHTM Việt Nam thông gua đầu mối Hiệp hội Ngân hàng đã đồng thuận giảm lãi suất cho vay đối vói các đối tượng khách hàng gặp khó khăn do đại dịch, áp dụng từ ngày 15/7/2021 đến hết năm 2021, với tổng số tiền lãi giảm trong cả nước là 20.613 tỷ đồng. Đây là con số lãi rất guan trọng, thể hiện sự hy sinh một phần lợi ích của các NHTM để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ gia đình giảm chi phí, giảm khó khăn, duy trì và phục hồi sản xuất, kinh doanh [9],
Trong 2 năm 2020-2021, NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát guy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hộ gia đình trong tiếp cận vốn tín dụng.
về diễn biến lãi suất tiền gửi, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay vốn của các TCTD: mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong khoảng thời gian 6 tháng cuối năm 2021 được duy trì ở mức thấp. Lãi suất huy động vốn nội tệ (VNĐ) dao động từ 3 - 4%
đối với kỳ hạn dưới 6 tháng, 3,7 - 5% đối với kỳ hạn 6-12 tháng và 4,2 - 6,5% đối với kỳ hạn trên 12 tháng. Trong khi đó, lãi suất cho vay của các TCTD dao động từ 5 - 7% đối với
khoản vay ngắn hạn và 9-11% đối với khoản vay trên 12 tháng [10],
Nhìn chung, mặt bằng lãi suất huy động vốn của các TCTD đến cuối năm 2021 và đầu năm 2022 vẫn ở mức thấp. Đa số các ngân hàng giữ nguyên, thậm chí giảm nhẹ lãi suất. Một trong những lý do là thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang rất dồi dào nhờ các hợp đồng mua ngoại tệ đến từ NHNN và Kho Bạc Nhà nước. Ngoài ra, các ngân hàng cũng tăng cường huy động vốn rẻ thông qua hoạt động vay quốc tế, tăng tỷ lệ CASA nhờ ứng dụng ngân hàng số. Các NHTM tích cực huy động vốn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp (khoảng 120 nghìn tỷ đồng trái phiếu được phát hành thành công trong năm 2021) [11],
3. Hoạt động tín dụng hỗ trọ phục hồi và tăng trưởng kinh tế
Tính đến ngày 20/12/2021, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ với giá trị nợ lũy kế từ khi có dịch Covid-19 khoảng 607.000 tỷ đồng. Khoảng 775.000 khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch được cơ cấu lại nợ, với dư nợ trên 296.000 tỷ đồng.
Đồng thời, miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 1,96 triệu khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ hơn 3,87 triệu tỷ đồng [12].
Thực hiện chính sách tháo gỡ khó khăn cho các hãng hàng không, NHNN đã tái cấp vốn cho các NHTM để các ngân hàng cho vay đối với hãng hàng không Vietnam Airlines (VNA).
Các ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng tài trợ với VNA và thực hiện giải ngân tổng số tiền 4.000 tỷ đồng. Đồng thời, triển khai các biện pháp giảm lãi, điều chỉnh lãi suất vốn vay, điều chỉnh kỳ hạn nợ cho các hãng hàng không khác đang gặp khó khăn [13],
Đối với thu mua, tiêu thụ lúa gạo, sau hơn 1 tháng kể từ khi có chỉ đạo của NHNN tại Công văn 5747/NHNN-TD ngày 10/8/2021 yêu cầu các ngân hàng tại đồng bằng sông Cửu Long hỗ trợ cho các thương nhân, doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh thóc, gạo, dư nợ cho vay của các NHTM đối với lĩnh vực thu
mua, tiêu thụ lúa gạo tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã tăng gần 5.000 tỷ đồng, hạn mức cấp tín dụng tăng 1.500 tỷ đồng [14],
Cùng với đẩy mạnh huy động vốn, các TCTD cũng tập trung tháo gỡ khó khăn, tăng cuờng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng, mở rộng cho vay các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. vốn tín dụng của các TCTD tiếp tục được ưu tiên cho các lĩnh vực có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho số đông người lao động, có kim ngạch xuất khẩu ổn định. Đó là các lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng xuất khẩu, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
4. Hạn chếtrong điều hành chính sách tiển tệ giai đoạn hiện nay
Bên cạnh những thành công, kết quả đạt được, điều hành chính sách tiền tệ còn một số bất cập sau đây:
Một là, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo NHNN có biện pháp giảm lãi suất cho vay trong nền kinh tế. Tuy nhiên, theo báo cáo của NHNN, lãi suất giảm nhưng mặt bằng lãi suất nhìn chung không giảm. Lãi suất cho vay ở Việt Nam cao hơn nhiều nền kinh tế có điều kiện tương tự ở châu Á. Lãi suất cho vay ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam đối với hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo còn cao hơn lãi suất cho vay của các NHTM đối với doanh ngiệp. Trong khi dư địa điều hành giảm lãi suất của NHNN vẫn còn, đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn cao, nhiều năm không giảm, trong bối cảnh nhiều nước đã giảm khá trong những năm gần đây.
Hai là, NHNN vẫn duy trì công cụ hạn mức tín dụng, hàng năm thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các NHTM vào đầu năm và gần cuối năm thường có điều chỉnh.
Đây là công cụ hành chính trong điều hành chính sách tiền tệ và không còn phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay. Việc duy trì công cụ này gây mất quyền tự chủ của các NHTM trong đáp ứng
nhu cầu vốn tín dụng của nền kinh tế. Trong khi đó, NHNN còn có các công cụ điều hành khác bảo đảm an toàn và vấn đề lạm phát cần được đánh giá đúng nguyên nhân chứ không xuất phát từ nguyên nhân do tiền tệ để duy trì công cụ hành chính quá lâu trong điều hành tín dụng đối với nền kinh tế.
Ba là, một số công cụ xử lý nợ xấu không còn tác dụng như VAMC, hoặc Nghị quyết số 42/2017/QH14, ngày 21/6/2017 của Quốc hội khóa XIV về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã không còn hiệu lực thực hiện.
Việc đánh giá hiệu quả của VAMC và của các tổ chức hỗ trợ vốn tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như của Ngân hàng Phát triển Việt Nam chưa được thực hiện kịp thời, đầy đủ với mục đích chung vì nền kinh tế.
Bốn là, phối hợp giữa NHNN và Bộ Tài chính trong điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa còn có những điểm hạn chế. Minh chứng điển hình là tình trạng phát hành trái phiếu doanh nghiệp không được kiểm soát chặt chẽ. Việc sử dụng vốn phát hành trái phiếu doanh nghiệp, kiểm soát các NHTM cho vay vốn đầu tư bất động sản, mua chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu còn bị buông lỏng, tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế.
Năm là, chưa mở thêm một số kênh tín dụng ưu đãi tại Ngân hàng chính sách xã hội để hỗ trợ vốn cho các đối tượng gặp khó khăn chưa được đề xuất, thực hiện.
5. Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ
Từ những phần tích trên, để góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, trên cơ sở mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, tới đây sẽ là mục tiêu và kế hoạch năm 2023, NHNN cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm
SỐ 42 (02-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ I 53
THựCTÊ- KINH NGHIỆM
___ •_________________ •________
soát lạm phát, kiểm soát chặt chẽ kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vốn tín dụng cho vay mua cổ phiếu, góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng tín dụng đề ra từ đầu năm.
NHNN tiếp tục bám sát tình hình kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước và quốc tế triển khai các giải pháp kiểm soát quy mô, tăng trưởng tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng đề ra, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi trong vay vốn tín dụng ngân hàng cho doanh nghiệp và người dân. Trong năm 2022, NHNN cần bỏ hạn mức tín dụng đối với các NHTM đáp ứng được các tiêu chí của Basel II, có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, tiếp đến năm 2023 bỏ hạn mức tín dụng đối với tất cả các NHTM, thay vào đó sử dụng các công cụ và biện pháp giám sát an toàn khác.
Thứ hai, NHNN tiếp tục triển khai các chính sách, giải pháp đang thực hiện, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, dành tối đa mọi nguồn lực hiện có, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, trong khuôn khổ quy định của pháp luật; sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn cho phục hồi nền kinh tế ngay khi dịch bệnh được kiểm soát. NHNN giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giải phóng số vốn nhất định để cho vay đối với nền kinh tế, giảm mặt bằng lãi suất cho vay. NHNN cần giảm 0,5% tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong quý 11/2022 và giảm tiếp 0,5% trong quý III/2022. Theo đó, sẽ tác động giảm đáng kể lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Bởi chỉ cần giảm 0,5% tỷ lệ này, sẽ giải phóng được số vốn lên tới 50.000 tỷ đồng để cho vay đối với nền kinh tế.
NHNN chỉ đạo giảm lãi suất cho vay hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội; đồng thời mở ra chương trình cho vay vốn tạo việc làm đối với người lao động bị ảnh hưởng của Covid-19; nhất
là người lao động mất việc thông qua Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam. NHNN mở rộng kênh tái cấp vốn để NHTM cho vay các hãng hàng không và Ngân hàng chính sách xã hội cho vay vốn người lao động mất việc làm,
Thứ ba, NHNN tiếp tục bám sát tình hình kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước và quốc tế triển khai các giải pháp kiểm soát quy mô, tăng trưởng tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng đề ra, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi trong vay vốn tín dụng ngân hàng cho doanh nghiệp và người dân.
Thứ tư, NHNN chỉ đạo và giám sát các TCTD tiếp tục giảm chi phí để tiếp tục giảm lãi suất cho vay hỗ trợ sản xuất - kinh doanh. Các TCTD thực hiện cam kết giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế; cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm, lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ đối vói khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Thông tư 01/2020/IT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 và Thông tư 03/202 l/TT-NHNN, Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi bổ sung Thông tư 01/2020/TT-NHNN. Đối với 16 NHTM tiếp tục thực hiện cam kết thực hiện Nghị quyết 63/
NQ-CP, Quyết định 1284/QĐ-NHNN và các văn bản có liên quan.
Thứ năm, các NHTM thận trọng về quản lý chất lượng tín dụng, xem xét thực chất các khoản nợ của khách hàng với số liệu nợ xấu thể hiện trong báo cáo tài chính công bố công khai theo niên độ. Các NHTM cần trích lập dự phòng rủi ro tín dụng sát với thực chất các khoản nợ đã được cơ cấu lại; đồng thời thực hiện nghiêm túc Thông tư 03/2021 cơ cấu lại nợ thực chất cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Thứ sáu, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan tiếp tục có các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh cá thể để phục hồi sản xuất, kinh doanh, góp phần hạn chế nợ xấu. Chính phủ ban hành chương trình cho vay vốn hỗ trợ người lao động bị mất việc qua kênh tín dụng Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
Chính phủ đã có Nghị quyết trình Quốc hội cho phép tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 42.
Do đó, Quốc hội cần quan tâm và sớm thông qua để hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42. Xem xét đến khía cạnh xử lý nợ xấu khi quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, đặc biệt là quy định liên quan đến thuế, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp như hiện nay.
Quốc hội, Chính phủ, NHNN và Bộ Tài chính nên xem xét lại sự tồn tại của VAMC, đối chiếu với đề án khi quyết thành lập, thực trạng và hiệu quả hoạt động xử lý nợ xấu hiện
nay, chi phí hàng năm cho bộ máy và số vốn điều lệ Nhà nước cấp, lãi suất trái phiếu Chính phủ phải trả tương ứng với số vốn điều lệ đó, để có quyết định kịp thời vì hiệu quả chung của nền kinh tế.
Thứ bảy, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan tiếp tục có các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh cá thể để phục hồi sản xuất kinh doanh, góp phần hạn chế nợ xấu. cần đánh giá khách quan các tổ chức có chức năng hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay, nhất là các tổ chức do Bộ Ke hoạch và Đầu tư quản lý về quy mô hỗ trợ, mức độ tác động, chi phí hoạt động của bộ máy, có biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả các tổ chức này, tránh phân tán và lãng phí nguồn lực tài chính. Bên cạnh đó, cần tái cơ cấu mạnh mẽ hơn nữa Ngân hàng Phát triển Việt Nam, thu gọn bộ máy, chi nhánh, thậm chí nên sáp nhập vào Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
/77, [2], [3] Tổng cục Thống kê (2016-2021): số liệu phát triển kinh tế - xã hội hàng tháng và các năm 2016- 2021, www.gso.gov.vn, truy cập từ ngày26-28/2/2022.
[4], [5], [6], [7], [8] Ngân hàng Nhà nước (2020-2021):
Thông tin và tư liệu; tin tức, www.sbv.gov.vn, truy cập từ ngày26-28/1/2022.
[9], [10], [11], [13], [14] Hiệp hội Ngân hàng (2021):
Thông tin hoạt động các ngân hàng hội viên; truy cập tại WWW. vnba. org. vn, truy cập từ ngày26-28/2/2022.
[12] Ngấn hàng Nhà nước (2016-2021): Thông tin rà tư liệu; tin túc, www.sbv.gov.vn, truy cập từ ngày 26- 28/1/2022.
SỐ 42 (02-2022) I TẠP CHÍ KINH TÊ VÀ QUẢN LÝ I 55