• Tidak ada hasil yang ditemukan

CƠ HỘI, THÁCH THỨC của ngành Tài chính trong năm 2022

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "CƠ HỘI, THÁCH THỨC của ngành Tài chính trong năm 2022"

Copied!
4
0
0

Teks penuh

(1)

CHÀO XUÂN MỚI

N

ăm 2021 là năm đầu thực hiện các mục tiêu, chiến lược, nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặt ra trong nhiệm kỳ mới, cũng là năm đầu tiên thực hiện

kế hoạch tài chính - ngân sách 5 năm giai đoạn 2021 - 2025. Đây vừa là khó khăn, thách thức, cũng là cơ hội đối với ngành Tài chính trong bối cảnh kinh tế tài chính thế giới có những diễn biến phức tạp khó lường, tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại, cạnh tranh kinh tế, thương mại quốc tế ngày càng gay gắt, đặc biệt đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước. Ở trong nước, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến việc mở

rộng thị trường quan hệ thương mại của doanh nghiệp Việt Nam; trong khi năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn hạn chế; tăng trưởng kinh tế chậm lại gây áp lực lớn cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và mục tiêu của ngành Tài chính trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

Những tháng đầu năm 2021, kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng ổn định và bắt đầu có dấu hiệu khởi khởi sắc. Tuy nhiên, sự bùng phát dịch COVID-19 từ cuối tháng 4 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sức khỏe, tính mạng của người dân và hoạt động sản xuất kinh doanh; gây ra những tác động sâu, rộng, và toàn diện đến hầu hết các lĩnh vực của

Trong bối cảnh chung của thế giới chịu nhiều tác động của đại dịch COV- ID-19, kinh tế vĩ mô của Việt Nam cũng không nằm ngoài khu vực bị ảnh hưởng. Tăng trưởng kinh tế chậm lại gây áp lực lớn cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và mục tiêu của ngành Tài chính trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

Từ khóa: Chính sách tài khóa

The macro-economy of Vietnam is not immune to the impacts of the COVID-19 pandemic, which hit most of the world. Slower economic growth imposes pressure on achieving socio-economic development targets in general, and financial sector targets in 2022 and subsequent years.

Tag: Fiscal policies

CƠ HỘI, THÁCH THỨC của ngành Tài chính trong năm 2022

TS. NGUYỄN THỊ HẢI THU – ThS. NGUYỄN VIẾT THẮNG

28

(2)

QUẢN LÝ NGÂN QUỸ QUỐC GIA | SỐ 235 |1/2022 29 nền kinh tế Việt Nam. Tăng

trưởng GDP quý 3 đã sụt giảm nghiêm trọng, kéo theo tăng trưởng 9 tháng ở mức thấp nhất lịch sử thống kê.

GDP quý 3/2021 giảm 6,17%

so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực dịch vụ giảm 9,28%, khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 5,02%, khu vực nông lâm và thủy sản tăng nhẹ 1,04%. Tính chung GDP trong 9 tháng đầu năm chỉ tăng 1,42%. (Bảng 1)

Bước sang quý 4, với việc tốc độ tiêm chủng vaccine được đẩy nhanh tại các thành phố lớn, dịch bệnh dần được kiểm soát, các quy định giãn cách xã hội được nới lỏng, tình hình kinh tế đã có dấu hiệu khởi sắc hơn, hoạt động sản xuất kinh doanh từng bước được khôi phục trong trạng thái bình thường mới, tuy nhiên triển vọng tăng trưởng kinh tế vẫn còn ở mức thấp nên nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2021 được triển khai trong bối cảnh có nhiều thách thức. Mặc dù vậy, ngành Tài chính đã bám

sát các Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tập trung phấn đấu thực hiện nghiêm, đồng bộ các giải pháp tài chính - NSNN, tích cực thực hiện nhiệm vụ kép vừa phòng chống dịch bệnh, vừa duy trì

phục hồi và phát triển hoạt động kinh tế - xã hội. Cụ thể:

Ngành Tài chính đã chủ động nghiên cứu xây dựng các giải pháp miễn, giảm thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí phù hợp với tình hình thực tế để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch bệnh.

Đồng thời, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa linh hoạt, chủ động, phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách về đầu tư, giá cả, thương mại... để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, kết quả thực hiện nhiệm vụ

thu NSNN năm 2021 đã đạt kết quả tích cực. Thu NSNN năm 2021 ước đạt 1.563,3 nghìn tỷ đồng, bằng 116,4%

(vượt 219,9 nghìn tỷ đồng) dự toán, tăng 3,7% so với thực hiện năm 2020; trong đó, chủ yếu tăng thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và thu tiền sử dụng đất; thu thuế, phí nội địa từ hoạt động sản xuất – kinh doanh vượt 14,5% dự toán, tăng 11,3%

so với thực hiện năm 2020;

tỷ lệ động viên vào NSNN đạt 18,6%GDP (vượt mục tiêu 15,5%GDP). Trong bối cảnh sản xuất – kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh còn khó khăn, kết quả thu NSNN nêu trên là tích cực. Đồng thời, việc bảo đảm thu ngân sách có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo nguồn chi cho công tác phòng, chống dịch và cũng như các biện pháp để hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Chi NSNN năm 2021 ước đạt 1.879 nghìn tỷ đồng, bằng 111,4% dự toán. Đối với chính

BẢNG 1. MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ

Nguồn: TCTK, Bộ Tài chính

BQ 2011- 2015 2016 2017 2018 2019 2020 11T 2021

Tăng trưởng (% tăng GDP) 5,91 6,21 6,81 7,08 7,02 2,91 1,42*

Tốc độ tăng IIP (%) a 7,3 7,4 11,3 10,2 9,1 3,4 3,6

Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ

(% tăng) b 6,58 8,33 9,48 8,4 9,5 -1,2 -10,4

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội

(% GDP) 31,68 33,3 33,3 33,5 33,9 34,4 31,2*

Lạm phát (%) c 6,68 4,74 3,53 3,54 2,79 3,23 1,84

Cán cân thương mại (tỷ USD) 1,97 -1,78 2,7 7,2 9,9 19,1 0,225

Xuất khẩu (% tăng kim ngạch) 17,9 9 21,1 13,8 8,1 6,5 17,5

Nhập khẩu (% tăng kim ngạch) 14,48 5,4 20,8 11,5 7,0 3,6 27,5

Bội chi ngân sách nhà nước (% GDP) 5,7 5,52 3,48 2,8 3,36 (ƯL2) 4,2

(dự kiến) -

Nợ công (% GDP) 55,1 63,7 61,4 58,3 55 56,8 - 57,4 -

Chú thích: a: Bình quân 2012 - 2015; b: Tốc độ tăng (đã loại trừ yếu tố giá) so với cùng kỳ năm trước;

c: % tăng CPI so tháng 12 năm, từ năm 2017 là giá trị bình quân; *: Số liệu 9 tháng đầu năm 2021

(3)

CHÀO XUÂN MỚI

30

sách chi NSNN, các chính sách về chi NSNN đã tập trung ưu tiên cho phòng, chống dịch COVID-19, nỗ lực cao nhất để kiểm soát dịch bệnh và đảm bảo an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, để đảm bảo chi đầu tư phát triển, hỗ trợ nền kinh tế trong bối cảnh hoạt động đầu tư khu vực tư nhân giảm sút, điều hành NSNN luôn đảm bảo nguồn cho chi đầu tư phát triển. Đồng thời, đã áp dụng hàng loạt các giải pháp đẩy mạnh giải ngân. Số vốn chi đầu tư công thực hiện năm 2020 (bao gồm cả số chuyển nguồn, nguồn tăng thu ngân sách địa phương và dự phòng ngân sách các cấp) đạt 550 nghìn tỷ đồng (dự toán 497,26 nghìn tỷ đồng); đối với năm 2021, dự toán chi đầu tư phát triển là 477,3 nghìn tỷ đồng, trong đó NSTW là 222 nghìn tỷ đồng, tiếp tục được đảm bảo nguồn để thực hiện.

Theo ước tính của Bộ Tài chính, bội chi NSNN dưới 4% GDP, dư nợ công khoảng 43,7%, dư nợ Chính phủ khoảng 39,5%, dư nợ vay nước

ngoài của quốc gia khoảng 38,8% so với GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 24,8% tổng thu NSNN, đều nằm trong các ngưỡng an toàn mà Quốc hội cho phép.

Trong trung và dài hạn, triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được đánh giá tương đối khả quan. Tuy nhiên, trong ngắn hạn thì

vẫn còn nhiều thách thức dù các hoạt động kinh tế đang được triển khai trở. Dịch COVID-19 diễn biến phức tạp có thể là cản trở lớn đối với kinh tế Việt Nam nếu lại phải thực hiện các biện pháp giãn cách. Với những thách thức kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt, ADB đã điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2021 từ mức dự báo 6,7% trong báo cáo ADO 2021 xuống 3,8%.

Tuy nhiên, xét về trung và dài hạn, ADB khá lạc quan về triển vọng tăng trưởng của Việt Nam. Tăng trưởng có thể được hỗ trợ bởi sự phục hồi của cầu nội địa, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, mở

rộng hoạt động sang các thị trường xuất khẩu mới do các hiệp định thương mại mang lại, và sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu. Tương đồng với mức dự báo của ADB, Quỹ

Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm nay khoảng 3,8%, dẫn đầu nhóm 5 nước ASEAN . Trong trung và dài hạn, Việt Nam được dự báo tăng trưởng trên 6,5%/năm.

Nhìn chung triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới phụ thuộc rất nhiều vào khả năng ứng phó với dịch bệnh. Nhiều dự báo của các tổ chức quốc tế cho rằng đại dịch COVID-19 có thể sẽ còn kéo dài trong một vài năm tới trong khi đó tình hình dịch COVID-19 ở

Việt Nam trong những tháng đầu năm 2021 vẫn đang có xu hướng chuyển biến phức tạp, khó lường. Mức độ thiệt hại kinh tế sẽ phụ thuộc vào quy mô bùng phát của dịch bệnh.

Vì vậy, khả năng kiểm soát dịch bệnh tiếp tục là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới tốc độ tăng trưởng. Tại Việt Nam,

Công chức KBNN Lạng Sơn xử lý hồ sơ trên dịch vụ công trực tuyến Ảnh: ĐV

(4)

QUẢN LÝ NGÂN QUỸ QUỐC GIA | SỐ 235 |1/2022 31 chiến dịch vắc xin mở rộng đang

được triển khai từ nửa cuối năm 2021 cho đến đầu năm 2022, đạt tốc độ tương đối khả quan. Do đó, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn tới không chỉ hoá giải các nguy cơ, vượt qua khó khăn, thách thức mà còn phải tích cực, chủ động trước vận hội mới, thời cơ mới khi cấu trúc kinh tế thế giới, quản trị toàn cầu được định hình lại, phương thức sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống xã hội thay đổi dưới tác động của đại dịch. Bên cạnh đó, một số vấn đề khác như tiến độ giải ngân đầu tư công, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ kinh tế số và chuyển đổi số, khả năng tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do mới vẫn là những yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng.

Với những diễn biến về kinh tế vĩ mô nói trên, ngành Tài chính hiện đang đứng trước những áp lực rất lớn, khi vừa bảo đảm nhiệm vụ thu ngân sách để có nguồn chi các khoản theo dự toán và nhiệm vụ cấp bách phát sinh. Dự báo trong năm 2022, thu NSNN tiếp tục sẽ gặp khó khăn tình hình sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều khó khăn, trong khi đó áp lực chi sẽ tăng mạnh để đáp ứng các nhiệm vụ, kế hoạch phục hồi tăng trưởng kinh tế, kéo theo đó là các áp lực đối với cân đối ngân sách, nợ công.

Do vậy, ngành Tài chính phải kiên định mục tiêu thực hiện chủ động, linh hoạt chính sách tài khóa, bên cạnh các giải pháp tăng thu ngân sách, thực hiện triệt để tiết kiệm chi tiêu, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính- ngân sách. Xác định chính sách tài chính quốc gia đóng vai trò tiên phong trong việc huy động, giải phóng, định hướng phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng trên cơ sở phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đồng thời, để thực hiện thành công mục tiêu kép, góp phần đảm bảo ổn định kinh tế

vĩ mô, phục hồi và phát triển kinh tế bền vững, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, an ninh, quốc phòng, chủ động trong hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế đất nước, đồng thời bảo đảm an toàn, an ninh nền tài chính quốc gia, trong giai đoạn tới ngành tài chính phải xác định được các định hướng lớn tập trung vào các nhiệm vụ chính, bao gồm:

Tập trung vào cải cách, nâng cao chất lượng thể chế tài chính theo hướng đồng bộ, minh bạch và hội nhập là điều kiện tiên quyết thúc đẩy nền tài chính quốc gia phát triển lành mạnh; coi trọng việc phát triển đồng bộ, hài hòa các loại thị trường, các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Tăng cường huy động các nguồn lực ngoài ngân sách, phân bổ, quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, cho phát triển kinh tế xã hội và thực hiện các mục tiêu tài chính - NSNN đã đề ra.

Tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN theo hướng bền vững, bố trí thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn; giảm tỷ trọng chi thường xuyên, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển; nâng cao hiệu quả phân bổ, sử dụng ngân sách trên cơ sở đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với minh bạch, trách nhiệm giải trình; hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế.

Tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nợ công phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và thông lệ quốc tế; cải thiện dư địa tài khóa, góp phần nâng cao khả năng chống chịu của nền tài chính quốc gia. Cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công phải đặt trong tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và tính chủ động của ngân sách địa phương; phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; cân đối nguồn lực phát triển hài hòa giữa kinh tế với xã hội và bảo vệ môi

trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.Đẩy mạnh cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; đổi mới quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo đúng tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/

TW và Nghị quyết số 23/2021/

QH15; bảo đảm công khai, minh bạch trong cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Phát triển thị trường tài chính và dịch vụ tài chính đồng bộ, hiện đại, minh bạch và bền vững, trọng tâm là thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm và các thị trường dịch vụ tài chính.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng CNTT, thiết lập nền tảng tài chính số phù hợp với chuyển đổi số quốc gia; siết chặt kỷ luật kỷ cương tài chính - NSNN, tài sản công, thực hành tiết kiệm chống lãng phí; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; có chế tài đủ mạnh để xử lý các vi phạm trong lĩnh vực tài chính - NSNN. n

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo về công tác điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính NSNNnăm 2021, kế hoạch triển khai nhiệm vụ tài chính NSNN năm 2022 2. Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp Nhà nước.

Ngàynhận bài: 23/12/2021 Ngày đưa phản biện: 23/12/2021 Ngày chấp nhận đăng: 11/01/2022 Email: [email protected]

Referensi

Dokumen terkait

2 Phương pháp nghiên cứu Để phân tích thực trạng và cơ hội của ngành dệt may Việt Nam trong TPP, nghiên cứu này tập trung phân tích xuất khẩu dệt may theo các nhóm mã ngành HS và

Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, phát triển nguồn nhân lực NNL Việt Nam hiện nay đang đứng trước những

Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, quan

Tạp chí KINH TẾ VÀ NgâN HÀNg CHâU Á | Tháng 12.2020 | Số 177 116 Di sản văn hóa và Du lịch văn hóa trên địa bàn thành phố hồ chí Minh: cơ hội và thách thức Tóm TắT: Di sản văn hóa

Để hiệu quả của các chính sách thực sự đem lại những tác động bền vững cho quá trình giảm nghèo tại địa phương, nhóm nghiên cứu đề xuất một số ý kiến sau: i tăng cơ hội có việc làm ổn

Điểm nổi trội trong bản sắc văn hóa tộc người Giáy ở Việt Nam nói chung, người Giáy sinh sống ở Làng Giàng, Văn Bàn, Lào Cai nói riêng là sự tích cực và bền vững trong văn hóa sinh thái

Mở đầu Để bảo đảm sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế tri thức, Đảng và Nhà nước ta đã thông qua Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 về đổi mới chương trình, sách

Vì vậy, để các mô hình sản xuất lúa kết hợp phát triển bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế cao, các hộ trồng lúa có định hướng chuyển đổi mô hình cần quan tâm đến các vấn đề sau: i