• Tidak ada hasil yang ditemukan

hiệu quả của tinh dầu sả và dầu tỏi trong làm giảm sự gây hại

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "hiệu quả của tinh dầu sả và dầu tỏi trong làm giảm sự gây hại"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chauhan M and Singh P, 2013.

Production, optimization and characterization of chitinase enzym by Bacillus suBt ilis. Res educ dev soc 1, 5-11

2. De la Fuente-Salcido NM, Casados- Vázquez LE, García-Pérez AP, Barboza-Pérez UE, Bideshi DK, Salcedo-Hernández R, Garcia-Almendarez BE, Barboza-Corona JE, 2016 The endochitinase ChiA Bt t of Bacillus thuringiensis subsp. tenebrionis DSM-2803 and its potential use to control the

phytopathogen Colletotrichum

gloeosporioides. Microbiology Open 5(5), 819–829.

3. George Z and Crickmore N, 2012. Bacillus thuringiensis Applications in Agriculture-Bacillus thuringiensis Biotechnology, Springer Science+Business Media, DOI 10.1007/978-94- 007-3021-2_2.

4. Gomaa EZ, 2012. Chitinase production by Bacillus thuringiensis and Bacillus licheniformis:

their potential in antifungal biocontrol. J Microbiol 50, 103-11

5. Ni H, Zeng S, Qin X, Sun X, Zhang S, Zhao X, Yu Z, Li L, 2015. Molecular docking and site- directed mutagenesis of a Bacillus thuringiensischitinase to improve chitinolytic, synergistic Lepidopteran-larvicidal and Nematicidal activities. Int J Biol Sci 11(3), 304-315

6. Saleem F, Younas A, Bashir R, Naz S, Munir N and Shakoori AR (2014) Molecular cloning and characterization of exochitinase agene of indigenous Bacillus thuringiensis isolates. Pakistan J Zool 46(6), 1491-1501.

7. Shivalee A, Divatar M, Sandhya G, Ahmed S, Lingappa K, 2016. Isolation and screening of soil microbes for extracellular chitinase activity. J Adv Sci Res 7(2), 10-14

8. V Thị Thanh, V Văn Hạnh, Nghiêm Ngọc Minh, Quyền Đình Thi, 2013. Tối ưu hóa các điều kiện môi trường ảnh hưởng đến khả năng sinh tổng hợp chitinase của chủng nấm Penicillium sp. M4 phân lập từ ruộng mía. Kỷ yếu Hội nghị Công nghệ Sinh học toàn quốc 2013. Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ 1, 484-488.

Phản biện: PGS.TS. Lê V n Trịnh

HIỆU QUẢ CỦA TINH DẦU SẢ VÀ DẦU TỎI TRONG LÀM GIẢM SỰ GÂY HẠI CỦA SÂU ĐỤC QUẢ CÂY CÓ MÖI Citripestis sagittiferella

(Lepidoptera: Pyralidae)

Effectiveness of Lemon Grass Essential and Garlic Oil in Reducing The Damage of The Citrus Fruit Borer Citripestis sagittiferella

(Lepidoptera: Pyralidae)

Trần Trọng Dũng, Phạm V n Sol, Dƣơng Kiều Hạnh, Châu Nguyễn Quốc Khánh và Lê V n Vàng

Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ

Ngày nhận bài: 10.1.2019 Ngày chấp nhận: 15.2.2019

Abstract

The citrus fruit borer (Citripestis sagittiferella) is an important insect pest of citrus fruits in the Mekong delta of Viet Nam. In order to utilization of semiochemical as tool for a sustainable management program, effects of lemon grass essential and garlic oils on the damage of C. sagittiferella was evaluated at a “Nam roi” pomelo orchard in Soc Trang province. Results shown that, when used as disruptants, lemon grass essential and garlic oils gave effectiveness in decreasing the damage of C. sagittiferella from 37% to 66.7%, dependently on the kinds of

(2)

dispensers and volatile speed (g/day). Among materials of dispensers, zipper nylon bag (0.055 g/day for garlic oil and 0.077 g/day for lemon grass essential oil) was more effective than those of conventional nylon bag (0.051 g/day for garlic oil and 0.072 g/day for lemon grass essential oil) and Eppendorf tube (0.008 g/day for garlic oil and 0.011 g/day for lemon grass essential oil). Volatile speeds of lemon grass essential and garlic oils on the pomelo orchard tightly correlated with fruit damaged ratio with the correlation coefficient r = 0.81.

Keywords: Citripestis sagittiferella, citrus fruit borer, lemon grass essential oil, garlic oil disruptant, semiochemical

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Cây có múi là loại cây được trồng từ rất lâu đời ở nước ta, có phân bố rộng khắp từ Bắc đến Nam và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với nhiều loại cây trồng khác (Huỳnh Trí Đức và ctv., 2006).

Trong những năm gần đây, quả cây có múi, đặc biệt là quả bưởi, ở ĐBSCL bị gây hại nghiêm trọng bởi sâu đục quả Citripestis sagittiferella (Lepidoptera: Pyralidae). Từ ghi nhận xuất hiện rãi rác trên bưởi Năm roi ở tỉnh Sóc Trăng vào năm 2011, đến năm 2013, C. sagittifrella đã được xem là đối tượng gây hại nghiêm trọng trên bưởi ở ĐBSCL. Nguy hiểm hơn, bên cạnh quả bưởi, C. sagittiferella còn tấn công hầu hết các loại quả cây có múi khác như cam sành, cam xoàn, cam mật, quít đường, chanh núm, chanh giấy, chanh không hạt, hạnh và chúc (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2015). Do ấu trùng của sâu đục quả sống bên trong quả nên biện pháp phòng trừ bằng cách phun thuốc bảo vệ thực vật với chúng cho hiệu quả không cao. Nông dân thường phải phun thuốc trừ sâu 7 - 10 ngày/lần trong suốt thời gian phát triển của quả để phòng trị sâu đục quả bưởi (Trần Trọng D ng và ctv., 2017). Ngăn chặn trưởng thành sinh sản để từ đó ngăn chặn sự gây hại của ấu trùng được xem là biện pháp hiệu quả, cả về mặt kỹ thuật và môi trường, đối với những loài côn trùng gây hại bên trong mô ký chủ (Ando et al., 2004; Huỳnh Thị Ngọc Linh và ctv, 2012; Nguyễn Hồng Lĩnh và ctv., 2016). Hiện nay, biện pháp bao quả được áp dụng rộng rãi để quản lý sự gây hại của sâu đục quả trên bưởi.

Tuy nhiên, biện pháp bao quả đòi hỏi nhiều công lao động, đồng thời gặp khó khăn đối với những loại quả cây có múi có kích thước nhỏ. Ứng dụng hóa chất tín hiệu để điều chỉnh hành vi của côn trùng trưởng thành, từ đó bảo vệ cây trồng chống lại sự gây hại đang được được xem là một trong những công cụ hiệu quả để thay thế cho thuốc bảo vệ thực vật hóa học (Lê Văn Vàng, 2016).

Cây sả (Cymbopogon spp.) thuộc họ hòa thảo

Poaceae (Gramineae), có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và ôn đới ẩm. Bên cạnh được dùng như một loại thảo dược, tinh dầu chiết xuất từ cây sả c ng được sử dụng trong bảo vệ thực vật làm thuốc phòng trừ côn trùng gây hại cây trồng (Pinheiro, 2013; Tripathi et al., 2009). Kết quả nghiên cứu của Shivankar và Singh (2005) cho thấy, phun dầu sả có hiệu quả trong quản lý sâu đục quả bắp Helicoverpa armigera. Tinh dầu chiết xuất từ Cymbopogon winterianus có khả năng ức chế sự sinh trưởng của sợi nấm, làm thay đổi hình dạng tế bào và ảnh hưởng sự nẩy mầm của bào tử nấm Mentagrophytes trichophyton gây bệnh nấm da trên người (Fillipe et al., 2011). Theo Aakanksha et al. (2013), tinh dầu của Cymbopogon winterianus như một tác nhân trừ nấm, ký sinh trùng, vi khuẩn và xua đuổi muỗi. Kết quả đánh giá trong điều kiện nhà lưới và ngoài đồng cho thấy tinh dầu sả cho hiệu quả cao trong quấy rối sự tìm ký chủ và đẻ trứng của các loài ngài sâu đục củ khoai lang (Nacoleiae sp.) và ngài sâu kéo màng hại cải (Hellula undalis) (Nguyễn Thị Hồng Lĩnh và ctv., 2016;

Trần Thanh Thy và ctv., 2016). Kết quả khảo sát của Douangvilavanh (2018) cả tinh dầu sả và dầu tỏi đều cho hiệu quả gây nhiễu sự tìm ký chủ của sùng khoai lang (Cylas formicarius) cái, qua đó làm giảm có ý nghĩa số lượng trứng đẻ.

Bài báo này cung cấp dẫn liệu về đánh giá sự ảnh hưởng của tinh dầu sả và dầu tỏi lên sự gây hại của sâu đục quả cây có múi (C. sagittiferella) trên vườn bưởi tại tỉnh Sóc Trăng.

2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Chất gây nhiễu

Tinh dầu sả công nghiệp (98%) được mua từ công ty Vật tư Hóa chất Nông nghiệp Cần Thơ.

Dầu tỏi tía nguyên chất (99%) của công ty TNHH Tuệ Linh sản xuất.

Các hợp chất gây nhiễu: Tinh dầu sả (1,4 g) và dầu tỏi (1,4 g) được cho vào ba kiểu vật liệu chứa gồm tuýp eppendorf (thể tích 1,5 ml), túi

(3)

nilon zipper bên trong đặt miếng bông gòn (~2 cm), túi nilon thông thường bên trong đặt miếng bông gòn (~2 cm) để làm chất gây nhiễu. Nắp

của tuýp Eppendorf và miệng túi nilon được đậy kín lại, đối với túi nilon thông thường dùng lửa hơ để hàn miệng túi (hình 1).

Hình 1. Tinh dầu sả và dầu tỏi đƣ c chứa trong tuýp eppendorf (A), túi nilon zipper (B) và túi nilon thƣơng (C) để làm chất quấy rối 2.2 Khảo sát ảnh hƣởng của tinh dầu sả

và dầu tỏi lên sự gây hại của sâu đục quả cây có múi

Thí nghiệm được bố trí theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 7 công thức (bảng 1) và 3 lần lặp lại trên một vườn trồng chuyên canh bưởi Năm roi (cây 15 năm tuổi, mật số 25 cây/1.000 m2) có diện tích 15.000 m2 tại xã Xuân Hòa, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Mỗi lần lặp lại của một công thức là một cây bưởi Năm roi đang cho quả được treo một loại chất gây nhiễu. Công thức đối

chứng không treo chất gây nhiễu. Tất cả các công thức xử lý và đối chứng đều không phun thuốc trừ sâu.

Trên các cây bưởi thí nghiệm, trước khi treo chất gây nhiễu, tiến hành kiểm tra, ghi nhận và loại bỏ toàn bộ những quả có trứng sâu và quả bị sâu đục. Treo chất gây nhiễu và tiến hành quan sát khi trái được 4 tuần tuổi (R> 5 cm). Chất gây nhiễu được cân và ghi nhận khối lượng ngay trước khi được treo ở giữa tán lá của cây bưởi vào buổi chiều mát và được thay mới 14 ngày/lần.

Bảng 1. Các công thức trong thí nghiệm đánh giá hiệu quả của chất gây nhiễu đối với sâu đục quả cây có múi C. Sagittiferella

. Mô tả công thức

NT-1 Ống eppendorf (dung tích 1,5 ml) chứa 1,4 g tinh dầu sả NT-2 Túi nilon zipper chứa bông gòn tẩm 1,4 g tinh dầu sả NT-3 Túi nilon thường chứa bông gòn tẩm 1,4 g tinh dầu sả NT-4 Ống eppendorf (dung tích 1,5 ml) chứa 1,4 g dầu tỏi NT-5 Túi nilon zipper chứa bông gòn tẩm 1,4 g dầu tỏi NT-6 Túi nilon thường chứa bông gòn tẩm 1,4 g dầu tỏi NT-7 Đối chứng (không treo chất gây nhiễu)

(4)

Chỉ tiêu theo d i: Tỷ lệ quả bị hại trên cây ở các thời điểm 7, 14, 21, 28, 35, 42 ngày sau khi treo chất gây nhiễu. Quả có trứng ngài và quả bị sâu đục trên cây bưởi thí nghiệm được loại bỏ,

ngay sau khi ghi nhận chỉ tiêu

Hiệu quả làm giảm tỷ lệ quả bị hại được tính theo công thức:

Tỷ lệ quả bị hại ở NT đối chứng – Tỷ lệ quả bị hại ở NT xử lý

HQ (%) = --- x 100 Tỷ lệ quả bị hại ở NT đối chứng

2.3 Khảo sát tốc độ bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi ở điều iện vƣờn bƣởi thí nghiệm

Để xác định tốc độ bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi ở các vật liệu chứa, thí nghiệm được thực hiện tương tự như mô tả ở Mục 2.2, bố trí trên cùng vườn bưởi, nhưng ở vị trí khác, theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 6 công thức và 3 lần lặp lại. Khối lượng của chất gây nhiễu được cân mỗi ngày cho đến 16 ngày sau khi treo.

2.4 Xử lý số liệu

Số liệu thu thập trong các thí nghiệm được xử lý bằng Microsoft Office Excel và thống kê bằng phần mềm thống kê MSTAT-C.

3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1 Hiệu quả của chất gây nhiễu làm giảm sự gây hại của C. sagittiferella

Tỷ lệ quả bị hại ở các công thức xử lý dầu tỏi và tinh dầu sả (từ 0,7-3,5%) là thấp hơn có ý nghĩa so với công thức đối chứng không xử lý (trung bình 5,4%), chứng tỏ mùi từ dầu tỏi và tinh dầu sả đã ảnh hưởng đến sự đẻ trứng của ngài C. sagittiferella trên quả bưởi và đã cho hiệu quả làm giảm sự gây hại của chúng. Ở thời điểm 2 tuần sau khi treo, công thức dầu tỏi đựng trong bọc nilon thường có tỷ lệ quả bị hại (0,7%) là thấp nhất trong các côngthức. Tuy nhiên, từ các thời điểm 4 và 6 tuần sau khi treo, tỷ lệ quả bị hại giữa các công thức dầu tỏi và dầu sả là không khác biệt ý nghĩa (bảng 2).

Giữa các loại vật liệu chứa thì công thức tuýp eppendoft có tỷ lệ quả bị hại tương đương với túi nilon thường, nhưng thấp hơn có ý nghĩa so với túi nilon zipper, trong khi tỷ lệ quả bị hại ở công thức túi nilon zipper và túi nilon thường là không có sự khác biệt có ý nghĩa.

Bảng 2. Ảnh hƣởng của tinh dầu sả và dầu tỏi lên sự gây hại của sâu đục quả bƣởi C. sagittiferela

Công thức

Tổng số quả quan

sát

Tỷ lệ (%) quả bị hại ở các thời

điểm sau khi treo Hiệu quả Trung bình (%) 2 tuần 4 tuần 6 tuần

- Dầu tỏi (Tuýp Eppendorf) 269 3,3±0,6b 3,1±1,5b 3,5±0,6b 38,9 b - Dầu tỏi (Túi nilon thường) 256 0,7±0,6d 2,9±0,9bc 3,0±1,4b 59,3 bc - Dầu tỏi (Túi nilon zipper) 239 2,0±0,6c 1,8±1,0bc 2,4±1,1b 61,1 bc - Tinh dầu sả (Tuýp eppendorf) 311 4,0±0,3b 3,1±0,4b 3,1±0,6b 37,0b - Tinh dầu sả (Túi nilon thường) 229 3,4±0,7b 1,7±1,7bc 3,4±0,3b 48,2 bc - Tinh dầu sả (Túi nilon zipper) 286 2,1±0,6c 1,3±1,1c 1,9±0,3b 66,7 c

- Đối chứng 258 5,3±0,5a 5,5±0,4a 5,4±1,1a 0 a

CV (%) 19,60 53,19 26,94 23,08

Mức ý nghĩa ** ns * **

Giá trị trong cột có cùng một ký tự theo sau thì không khác biệt ý nghĩa theo phép thử DUNCAN.*

Khác biệt ở mức ý nghĩa 5 %; ** Khác biệt ở mức ý nghĩa 1%. Số trong ngoặc đơn thể hiện hiệu quả (% làm giảm tỷ lệ quả bị hại.

(5)

Kết quả đánh giá sự ảnh hưởng của tinh dầu sả và dầu tỏi lên sự gây hại của sâu đục quả cây cam có múi trên vườn bưởi Năm roi tại tại xã Xuân Hòa, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng cho thấy tinh dầu sả và dầu tỏi có hiệu quả trong việc làm giảm tỷ lệ quả bị đục với hiệu quả tương đương nhau (bảng 2). Do tinh dầu sả và dầu tỏi được áp dụng theo hình tác động bằng mùi (đựng trong các vật liệu chứa) và quả bưởi được kiểm tra hoàn toàn không bị sâu đục quả xâm nhiễm (những quả có mang trứng sâu và bị đục là bị loại bỏ) trước khi xử lý, nên ảnh hưởng của tinh dầu sả và dầu tỏi là trên hoạt động sinh sản của thành trùng C. sagittiferella. Hiệu quả ảnh hưởng của tinh dầu sả lên sự tìm ký chủ và đẻ trứng của ngài cái đã được ghi nhận trên các loài sâu hại cây trồng phổ biến ở ĐBSCL như đục củ khoai lang Nacoleia sp. (Nguyễn Thị Hồng Lĩnh

và ctv., 2016) và sâu kéo màng hại cải Hellular undalis (Trần Thanh Thy và ctv., 2016). Các loài ghi nhận trên, bao gồm C. sagittiferella, đều thuộc tổng họ Pyraloidea, bộ cánh vảy (Lepidoptera).

3.2 Tốc độ bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi ở các vật liệu chứa trên vƣờn

Tốc độ bay hơi (g/ngày) của tinh dầu sả và dầu tỏi ở 3 loại vật liệu chứa khác nhau là khác nhau. Tốc độ bay hơi ở công thức eppendort (0,008 g/ ngày đối với dầu tỏi và 0,011 g/ngày dối với tinh dầu sả) là thấp hơn có ý nghĩa so với công thức túi nilon zipper (0,051 g/ ngày đối với dầu tỏi và 0,072 g/ngày đối với tinh dầu sả) và túi nilon thường (0,055 g/ ngày đối với dầu tỏi và 0,077 g/ngày đối với tinh dầu sả).

Bảng 3: Khối lƣ ng bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi ở các vật liệu chứa hác nhau

Vật liệu chứa Khối lượng mất đi (g/ngày)

Dầu tỏi Tinh dầu sả

- Túi nilon thường 0,051 a 0,072 a

- Túi nilon zipper 0,055 a 0,077 a

- Ống eppendorf 0,008 b 0,011 b

CV (%) 4,84 3,44

Giá trị trong cột có cùng một ký tự theo sau thì không khác biệt ý nghĩa 1% theo phép thử DUNCAN.

Diễn biến tốc độ bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi được trình bày trong hình 3. Đường biểu diễn khối lượng còn lại của chất quấy rối có xu hướng tương tự nhau ở cả ba loại vật liệu chứa, giảm dần đều theo thời gian. Trong đó, túi nilon zipper có khối lượng suy giảm nhiều nhất, tiếp

đến là túi nilon thường và sau cùng là tuýp eppendoft. Mặt khác, đường biểu diễn thể hiện gần như là đường thẳng qua các thời gian ghi nhận chỉ tiêu cho thấy tốc độ bay hơi (g/ngày) của tinh dầu sả và dầu tỏi ở các loại vật liệu chứa là tương đối ổn định.

Hình 2. Khối lƣ ng của dầu tỏi và tinh dầu sả trong các vật liệu chứa ở các thời điểm (ngày) sau hi treo trên vƣờn bƣởi N m roi thí nghiệm

(6)

Hình 3. Tƣơng quan giữa tốc độ bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi với tỷ lệ quả bị C. sagittiferella gây hại trên vƣờn bƣởi N m roi Hiệu quả làm giảm tỷ lệ quả bị đục dao động

trung bình từ 37% đến 67% trong điều kiện ngoài đồng, tùy thuộc vào vật liệu chứa để phóng thích mùi của tinh dầu sả và dầu tỏi (bảng 2). Mặc dù tỷ lệ quả bị hại ở công thức thức dùng tuýp ependorf là không khác biệt với công thức túi nilon thường và nghiệm thức túi nilon thường không khác biệt với công thức túi nilon zipper.

Tuy nhiên, tỷ lệ quả bị hại ở công thức dùng tuýp eppendorf là cao hơn có ý nghĩa so với công thức túi nilon zipper cho thấy xu hướng hiệu quả giảm dần từ túi nilon zipper > túi nilon thường >

tuýp eppendorf. Điều này có thể do ảnh hưởng bởi tốc độ bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi ở các vật liệu chứa. Tốc độ bay hơi ở công thức Eppendorf là thấp hơn so với các công thức bọc nilon zipper và bọc nilon thường (bảng 3). Thêm vào đó, xu hướng tỷ lệ quả bị hại giảm dần từ công thức túi nilon zipper đến tuýp eppendorf cho thấy khi tốc độ bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi tăng thì tỷ lệ quả bị hại giảm, hay hiệu quả phòng trừ tăng. Phân tích tương quan giữa tốc độ bay hơi và tỷ lệ quả bị hại cho hệ số tương quan chặt với r = 0,81 (hình 3) chứng tỏ tiềm năng gia tăng hiệu quả phòng trừ bằng cách cải tiến vật liệu chứa để làm gia tăng tốc độ bay hơi của tinh dầu sả và dầu tỏi.

4. KẾT LUẬN

Cả dầu tỏi và tinh dầu sả điều có hiệu quả làm giảm tỷ lệ gây hại của sâu đục quả ở điều kiện ngoài đồng dao động trung bình từ 37% đến

67%. Trong đó, kiểu vật liệu chứa bằng túi nilon cho hiệu quả cao hơn so với tuýp eppendoft.

Tốc độ bay hơi của tinh dầu sả là cao hơn dầu tỏi ở cùng vật liệu chứa. Trong đó, ở vật liệu chứa là túi nilon zipper và túi nilon thường có tốc độ bay hơi tương tự nhau, tuýp Eppendoft có tốc độ bay hơi thấp nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huỳnh Thị Ngọc Linh, Châu Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Thị Huyền Trang, Phạm Kim Sơn và Lê Văn Vàng, 2012. Nghiên cứu điều kiện thích hợp cho việc áp dụng pheromone giới tính của sùng khoai lang, Cylas formicarius Fab., trên đồng ruộng. Tạp Chí Khoa Học Trường Đại Học Cần Thơ, 21b: 54-61.

2. Huỳnh Trí Đức, Nguyễn Hữu Thoại và Nguyễn Bảo Toàn, 2006. Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây có múi. Trong: Quản lý dịch hại tổng hợp cây có múi, hướng dẫn về sinh thái. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, trang: 17-80.

3. Lê Văn Vàng, 2016. Nghiên cứu và ứng dụng hóa chất tín hiệu của côn trùng trong bảo vệ thực vật ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trong: Quản lý dịch hại cây trồng thân thiện môi trường. Nhà xuất bản Trường Đại học Cần Thơ, trang 73-102.

4. Nguyễn Thị Hồng Lĩnh và Nguyễn Minh Luân , Lê Vĩnh Thúc và Lê Văn Vàng, 2016. Hiệu quả của một số chất xua đuổi đối với trưởng thành sâu đục của khoai lang Nacoleia sp. (Lepidoptera: Crambidae) trong điều kiện phòng thí nghiệm và nhà lưới. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề (3): 107-110.

(7)

5. Nguyễn Thị Thu Cúc, 2015. Côn trùng, nhện gây hại cây ăn quả tại Việt Nam và thiên địch. Nhà Xuất bản Đại học Cần Thơ, 623 trang.

6. Trần Thanh Thy , Lê Văn Vàng, Nguyễn Lộc Hiền và Nguyễn Hữu Minh Tiến, 2016. Nghiên cứu ứng dụng hóa chất tín hiệu để quản lý ngài Hellula undalis Fabricius (Lepidoptera: Crambidae) hại rau cải tại Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề (3): 200-209.

7. Trần Trọng D ng, Phạm Văn Sol, Châu Nguyễn Quốc Khánh, Trần V Phến và Lê Văn Vàng, 2017.

Tình hình gây hại, đặc điểm hình thái và sinh học của sâu đục quả Citripestis sagittiferalis gây hại bưởi ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp Chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 52b: 64-69.

8. Ando, T., S. Inomata and M. Yamamoto, 2004.

Lepidopteran sex pheromones. Topics Current Chemistry. 239:51-96.

9. Douangvilavanh Keomanivone, 2018. “Khảo sát

ảnh hưởng của một số hóa chất tín hiệu đối với sùng khoai lang, Cylas formicarius (Coleoptera:

Curculionidae)”. Luận văn Thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Bảo vệ Thực vật, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ, 36 trang.

10. Pinheiro, P.F., Queiroz, V.T., Rondelli, V. M., Costa, A. V., Marcelino, T. P. and Pratissoli, D., 2013.

Insecticidal activity of citronella grass essential oil on Frankliniella schultzei and Myzus persicae. Agricultural Sciences, 37(2): 413-454.

11. Shivankar, V.J. and Singh, S. , 2005. Insect pests of citrus and magagement. Kalyani Publishers, New Delhi: 122-123.

12. Tripathi, A.K., Upadhyay, S., Bhuiyan, M. and Bhattacharya, B. R., 2009. A review on prospect of essential oils as biopesticide in insect-pest managenment. Academic, 1(5): 052-063.

Phản biện: TS. Nguyễn V n Liêm

TƢƠNG QUAN GIƢA MẬT ĐỘ TRƢỞNG THÀNH ĐỰC VÀO BẪY PHEROMONE GIỚI TÍNH VÀ TỶ LỆ GÂY HẠI CỦA SÂU TƠ (Plutella xylostella)

TRÊN RUỘNG RAU CẢI

Correlation between Numbers of Captured Males by Sex Pheromone Trap and Damage Ratio of the Diamond Back moth (Plutella xylostella)

in Cruciferous Vegetable Fields

Đinh Thị Chi2, Châu Nguyễn Quốc Khánh1, Hồ Trọng Nghĩa1 và Lê V n Vàng1 Ngày nhận bài: 18.02.2019 Ngày chấp nhận: 05.3.2019

Abstract

The Diamond back moth (Plutella xylostella) is one of the destructive insect pests of cruciferous vegetables. In order to supply basic information for establishment of effective management program, dynamics of population and damage of P. xylostella were monitored at brassica vegetable fields in Vinh Long and Soc Trang provinces by use of sex pheromone traps and field survey. P. xylostella presented and damaged at surveyed fields through out the crop season with the dynamics of population and damage kept at low level at the early crop season and then gradually increased until before harvest (exception at broccoli field). Furthermore, the numbers of captured males tightly correlated with damage ratios (correlation coefficient r = 0.74- 0.98) indicating that sex pheromone trap is able to be utilize as tool for monitoring the popualtion dynamics and supplying action threshold for timing control

of P. xylostella in field.

Keywords. Action threshold, diamond back moth, monitoring, Plutella xylostella, sex pheromone

1. Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ 2. Khoa Nông nghiệp, Trường Cao đẳng Cộng đồng Sóc Trăng

Referensi

Dokumen terkait

Mặt khác, kết quả giải phẫu và quan sát hình thái nội quan bên trong xoang bụng của cá mú thí nghiệm cho thấy không có bất kì dấu hiệu bất thường nào được quan sát ở xoang bụng của cá