KHẢO SÁT CÁC CHỈ SỐ NIỆU ĐỘNG HỌC Ở BỆNH NHÂN CÓ TRIỆU CHỨNG ĐƯỜNG TIỂU DƯỚI
Nguyễn Đặng Đình Thi1, Nguyễn Trường An2, Nguyễn Nhật Minh2, Lê Đình Đạm2, Nguyễn Xuân Mỹ2, Võ Minh Nhật2, Lê Đình Khánh2
TÓM TẮT37
Đặt vấn đề: Các triệu chứng đường tiểu dưới là tập hợp các triệu chứng về rối loạn tiểu tiện được gây ra bởi nhiều nguyên nhân riêng lẻ hoặc phối hợp nên thường gây khó khăn trong chẩn đoán và điều trị. Ở những bệnh nhân có các triệu chứng đường tiểu dưới đáp ứng chưa như mong đợi với điều trị thì niệu động học có thể được chỉ định với mục đích tìm hiểu các nguyên nhân gây ra các triệu chứng đó. Nghiên cứu này của chúng tôi nhằm tìm hiểu một số các chỉ số niệu động học ở những bệnh nhân có triệu chứng đường tiểu dưới.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hàng loạt trường hợp. Đối tượng là những bệnh nhân có các triệu chứng đường tiểu dưới tại khoa ngoại Tiết niệu - Thần kinh, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế với IPSS ≥ 8 điểm. Các chỉ số nghiên cứu: lưu lượng dòng tiểu tối đa và trung bình; thể tích nước tiểu; thể tích tồn lưu;
dung tích bàng quang và áp lực detrusor tại các mốc: cảm giác đầu tiên, cảm giác mắc tiểu đầu tiên và dung tích bàng quang; áp lực detrusor tại thời điểm đạt lưu lượng dòng tiểu tối đa; chỉ số tắc nghẽn đường ra bàng quang; chỉ số co bóp bàng quang và hiệu quả đi tiểu.
Kết quả: Có 68 bệnh nhân gồm 8 nữ và 60 nam. Tuổi trung bình ở nam là 65,9 ± 15,9 năm
1Bệnh viện Tỉnh Khánh Hòa
2Trường Đại học Y-Dược, Đại học Huế Liên hệ: Nguyễn Đặng Đình Thi.
Email: [email protected] Ngày nhận bài: 10/9/2021 Ngày phản biện: 15/9/2021 Ngày duyệt bài: 25/9/2021
(từ 16 đến 88), nữ là 54,2 ± 12,3 năm (từ 29 đến 69). Các chỉ số niệu dòng đồ tự do và niệu động học lần lượt là: lưu lượng dòng tiểu tối đa 12,6 ± 6,0 và 7,7 ± 6,6 ml/giây; thể tích nước tiểu 233,1
± 130,7 và 126,0 ± 153,7 ml; thể tích tồn lưu là 108,1 ± 79,3 và 152,7 ± 162,7 ml. Dung tích bàng quang tại các mốc cảm giác đầu tiên; mắc tiểu và dung tích tối đa lần lượt là: 151,1 ± 110,7;
182,4 ± 120,5 và 260,2 ± 125,7ml. Áp lực detrusor tại dung tích bàng quang 21,4 ± 21,5 cmH₂O. Độ giãn nở bàng quang là 30,9 ± 41,3 ml/ cmH₂O. Áp lực detrusor tại thời điểm đạt lưu lượng dòng tiểu tối đa, chỉ số tắc nghẽn, chỉ số co bóp và hiệu quả tiểu tiện lần lượt là: 56,7 ± 38,1 cmH₂O; 48,9 ± 36,2; 94,8 ± 41,9 và 54,2 ± 87,0%. Tỷ lệ tắc nghẽn bàng quang là 55,9% và bàng quang co bóp kém là 57,1%.
Kết luận: Kết quả niệu động học ghi nhận tỷ lệ tắc nghẽn đường ra bàng quang là 55,9%; nghi ngờ 25,0% và không tắc nghẽn là 19,1%. Tỷ lệ bàng quang co bóp yếu là 57,1%; bình thường 28,6% và mạnh là 14,3%. Tắc nghẽn bàng quang là nguyên nhân chính gây ra các triệu chứng đường tiểu dưới, trong đó bàng quang giảm co bóp và tăng hoạt detrusor có thể là nguyên nhân phối hợp hoặc độc lập làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị.
Từ khóa: Các triệu chứng đường tiểu dưới, niệu động học, áp lực đồ bàng quang, niệu dòng đồ.
SUMMARY
URODYNAMIC PARAMETERS IN LOWER URINARY TRACT
SYMPTOMS PATIENTS
Objectives: Lower urinary tract symptoms (LUTS) in men result from a complex interplay of pathophysiology, including bladder and bladder outlet dysfunction. This study prospectively analyzed bladder dysfunction in men with LUTS based on the results of urodynamic studies (UDS).
Materials and methods: Both sex patients with LUTS and an International Prostate Symptom Score more than 8, who were refractory to medicine treatment were prospectively recruited and evaluated with UDS.
Patients were further divided into two subgroups according to sex. Age, free uroflowmetry and UDS findings were compared among different subgroups.
Results: There were 68 patients with median ages were 58,6 ± 15,4 years (range: 26 - 88) with 65,9 ± 15,9 years for men and 54,2 ± 12,3 years for women. Median UFM free and UDS of Qmax; void volume; PVR were 12,6 ± 6,0 and 7,7 ± 6,6 ml/s; 233,1 ± 130,7 and 126,0 ± 153,7 ml; 108,1 ± 79,3 and 152,7 ± 162,7 ml. The median bladder volume at first sensation; first desire and maximum cystometric capacity were:
151,1 ± 110,7 ml; 182,4 ± 120,5 ml and 260,2 ± 125,7 ml. Median bladder compliance was 30,9 ± 41,3 ml/cmH₂O. Medians of Pdet@Qmax;
BOOI; BCI and BVE were 56,7 ± 38,1 cmH₂O;
48,9 ± 36,2; 94,8 ± 41,9 and 54,2 ± 87,0%.
Bladder outlet obstruction was 55,9% and detrusor contractility impaired was 57,1%.
Conclusion: The bladder sensations and bladder compliance were in the range of abnormal. The degree of obstruction was in the obstruction range, detrusor contractility was mildly decreasing. The bladder outlet obstruction and detrusor underactive may be the main results for lower urinary tract symptoms.
Key words: Lower urinary tract symptoms (LUTS), urodynamic study (UDS), uroflowmetry (UFM).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các triệu chứng đường tiểu dưới (triệu chứng đường tiểu dưới) thường được chia thành nhóm triệu chứng về chứa đựng, tống xuất và các triệu chứng khi vừa đi tiểu xong.
Có nhiều nguyên nhân gây ra các triệu chứng đường tiểu dưới thường gặp như: tắc nghẽn đường ra BQ, BQ tăng hoạt, BQ giảm hoạt, tiểu đêm…, ngoài ra còn có những nguyên nhân khác như: nhiễm khuẩn tiết niệu, ung thư các cơ quan đường tiểu dưới và các yếu tố thần kinh…
Quá trình chẩn đoán và điều trị thường gặp nhiều khó khăn do chưa đánh giá đúng các nguyên nhân gây ra các triệu chứng đường tiểu dưới. Ở những bệnh nhân (BN) đáp ứng không như mong đợi với điều trị nội khoa thì khảo sát niệu động học nên được tiến hành để tìm hiểu các nguyên nhân gây ra các triệu chứng đường tiểu dưới đó trước khi quyết định can thiệp ngoại khoa.
Chức năng của niệu động học là chuyển đổi các triệu chứng định tính của BN thành những phát hiện khách quan để hiểu được quá trình sinh lý bệnh cơ bản. Hiện nay, nghiên cứu niệu động học được xem là “tiêu chuẩn vàng” để đánh giá các rối loạn chức năng của đường tiểu dưới [7]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận các chỉ số niệu động học ở những BN có các triệu chứng đường tiểu dưới.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu: bao gồm những bệnh nhân có các triệu chứng đường tiểu dưới đáp ứng không đầy đủ trong quá trình điều trị nội khoa. Loại trừ các BN có nhiễm khuẩn tiết niệu, ung thư, bàng quang thần kinh, tiền sử chấn thương niệu dục hoặc cột sống, tổn thương hệ thần kinh trung ương
hoặc ngoại biên, rối loạn trương lực cơ hoặc bất thường về phản xạ thần kinh nông và sâu.
- Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu hàng loạt trường hợp.
- Cách thức tiến hành: Các BN có các triệu chứng đường tiểu dưới được đo niệu dòng đồ đánh giá các chỉ số: Qmax, thể tích tồn lưu (TTTL) khi vào khám lần đầu tiên và tùy theo nguyên nhân ban đầu sẽ được điều trị nội khoa với các nhóm thuốc ức chế thụ thể alpha 1-adrenergic, anti-muscarinic, desmopressin…và đánh giá lại sau 1 - 3 tháng. Những BN ít đáp ứng với điều trị sẽ được khảo sát niệu động học
- Quy trình thực hiện các phép đo niệu động học
+ Đo niệu dòng đồ: được chỉ định cho tất các BN vào khám và tái khám. Chấp nhận những BN với lượng nước tiểu bài xuất nên trong khoảng từ 150 - 250 ml.
+ Đo thể tích tồn lưu: ngay sau khi thực hiện xong phép đo niệu dòng mỗi khi khám, tái khám.
+ Đo niệu động học: được chỉ định cho các BN đáp ứng không đầy đủ với điều trị nội khoa sau 1 - 3 tháng. Tiến hành sau khi được đo niệu dòng đồ với những BN đã được cho tạm ngưng sử dụng các thuốc đang điều trị 3 ngày trước đó.
- Các chỉ số cần ghi nhận: các chỉ số niệu dòng đồ tự do như lưu lượng dòng tiểu tối đa (Qmax), thể tích tồn lưu và thể tích đi tiểu; các chỉ số niệu động học sẽ được ghi nhận như: thể tích BQ và áp lực detrusor (Pdet) tại các mốc cảm giác đầu tiên, cảm giác mắc tiểu và tại dung tích BQ cùng với các chỉ số ở pha tống xuất như: áp lực
detrusor tại lưu lượng dòng tiểu tối đa (Pdet@Qmax), chỉ số co bóp BQ (BCI), chỉ số tắc nghẽn BQ (BOOI) và chỉ số hiệu quả tiểu tiện (BVE).
- Phương tiện nghiên cứu
+ Máy niệu động học Delphis Laborie®
+ Máy siêu âm thể tích tồn lưu BQ cầm tay Bio-Conn 700
- Địa điểm nghiên cứu: khoa Ngoại tiết niệu - thần kinh, Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế.
- Xử lý số liệu: biến định lượng được tính trung bình ± độ lệch chuẩn, mô tả biến định tính theo tỷ lệ %. Số liệu được xử lý theo chương trình phần mềm MedCalc® phiên bản 18.11.3.
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu chúng tôi có 68 bệnh nhân (8 nữ và 60 nam).
1. Đặc điểm của bệnh nhân
Tuổi trung bình nam giới là 65,9 ± 15,9 năm (từ 16 đến 88) và ở nữ giới là 54,2 ± 12,3 năm (từ 29 đến 69). Ở nam giới lý do vào viện chủ yếu là tiểu yếu 16 (26,6%); các triệu chứng tiểu đêm; tiểu khó và tiểu ngắt quãng là 15% và ở nữ giới thì lý do vào viện chủ yếu là tiểu gấp và tiểu nhiều lần (50% và 37,5%).
Chẩn đoán ban đầu: ở nam giới, tắc nghẽn chiếm 86% (51/60 BN), trong đó tắc nghẽn phối hợp với BQ tăng hoạt là 20% (12/60 BN), tiểu đêm là 16,7% (10/60 BN). Ở nữ giới, được chẩn đoán ban đầu là BQ tăng hoạt chiếm 62,5% (5/8 BN) và tắc nghẽn là 37,5% (3/8 BN).
Bảng 1.1. Nhóm tuổi
Giới Nhóm tuổi
Tổng Dưới 30 Từ 30 - 50 Từ 50 - 70 Trên 70
Nam 3 6 19 32 60 (88,2%)
Nữ 1 1 6 0 8 (11,8%)
Tổng 4 (5,9%) 7 (10,3%) 25 (36,8%) 32 (47,1%) 68 Nhóm tuổi hay gặp ở nam là trên 50 tuổi
(85,0%), ở nữ trên 50 tuổi là (75,0%).
2. Các chỉ số niệu động học 2.1. Áp lực đồ bàng quang
Dựa vào biểu đồ áp lực bàng quang, tăng hoạt cơ detrusor là 13 BN (19,1%), trong đó nam giới là 9/60 BN (15%) và nữ giới là 4/8
BN (50%)). Giảm hoạt cơ detrusor là 19 BN (27,9%), trong đó nam giới là 17/60 BN (28,3%) và nữ giới là 2/8 BN (37,5%).
Độ giãn nở bàng quang kém là 72,1%, trong đó ở nam giới là 44/60 BN (73,3%) và nữ giới là 5/8 BN (62,5%).
Bảng 2.1. Các chỉ số áp lực bàng quang tại các mốc cảm giác khi đo NĐH
Chỉ số
Giới
Nam (n = 46) Nữ (n = 17) Cả hai giới Trung
bình Biên độ Trung
bình Biên độ Trung
bình Biên độ Thể tích đạt
CG đầu tiên
150,1
± 108,2
18 - 481
154,1
± 121,3
16,7 - 409
151,1
± 110,7
16,7 - 481 Thể tích đạt
CG mắc tiểu đầu tiên
179,5
± 116,7
21- 510
191,5
± 134,7
27,5 - 439
182,4
± 120,5
21 - 510 Dung tích bàng
quang
250,4
± 114,8
69,8 - 545
289,3
± 253,9
59 - 559
260,2
± 125,7
59 - 559 Áp lực
Detrusor tại Dung tích BQ
21,5
± 21,8
1,2 - 109,4
20,9
± 21,7
0,7 - 81,5
21,4
± 21,5
0,7 - 109,4 Độ giãn nở
bàng quang
26,7
± 29,2
1,3 - 112,7
43,5
± 65,1
1,4 - 266,6
30,9
± 41,3
1,3 - 266,6 2.2. Áp lực niệu dòng
Bảng 2.2. Các chỉ số niệu dòng đồ tự do và niệu dòng đồ khi đo niệu động học
Chỉ số
Giới
Nam (n = 46) Nữ (n = 17) Cả hai giới Trung bình Biên độ Trung bình Biên độ Trung bình Biên độ Qmax tự do 12,3
± 5,9
1,7 - 29,4
13,7
± 6,6
1,7 - 29,4
12,6
± 6,0
1,7 - 29,4
Qmax NĐH 7,7
± 6,6
0,6 - 29,4
7,6
± 6,9
1,3 - 26,9
7,7
± 6,6
0,6 - 29,4 Thời gian đi
tiểu tự do
45,4
± 18,9
8 - 72,8
52,2
± 29,8
23,8 - 143,7
47,1
± 22,1*
8,0 - 143,7 Thời gian đi
tiểu NĐH
104,4
± 140,2
1,1 - 859,3
144,9
±187,6
2,3 - 801,3
115,3
± 153,9
1,1 - 859,3 Thể tích đi
tiểu tự do
228,9
± 138,0
16,2 - 471,8
245,9
± 108,5
27,5 - 471,8
233,1
± 130,7
16,2 - 471,8 Thể tích đi
tiểu NĐH
111,2
± 127,1
0,1- 552,6
166,0
± 209,2
0,2 - 553,6
126,0
± 153,7
0,1 - 553,6 Thể tích tồn
lưu tự do
101,9
± 67,1
35,0- 518,0
126,6
± 108,5
55,0- 518,0
108,1
± 79,3
35,0 - 518,0 Thể tích tồn
lưu NĐH
166,7
± 174,3
3,0 - 1050
109,8
± 114,5
5,0 - 339,0
152,7
± 162,7
3 - 1050 Hiệu quả
tống xuất % (BVE) tự do
64,9
± 21,5
5 - 87,9
66,8
± 13,5
41,3 - 84,1
65,1
± 20,6
5 - 87,9 Hiệu quả
tống xuất % (BVE) NĐH
42,9
± 50,6
0,0 - 233,4
88,1
± 148,6
0,0 - 558,3
54,2
± 87,0
0,0 - 558,3 Lưu lượng dòng tiểu tối đa (Qmax) và thể tích nước tiểu khi đo niệu dòng đồ thường cao hơn khi đo niệu động học. Ngược lại, thời gian đi tiểu và thể tích tồn lưu khi đo niệu động học thường cao hơn khi đo niệu dòng đồ. Ở nam giới, hiệu quả tống xuất khi đo niệu dòng đồ thường tốt hơn khi đo NĐH. Ngược lại ở nữ giới thì hiệu quả tống xuất khi đo NĐH thường tốt hơn.
Bảng 2.3. Các chỉ số áp lực niệu dòng khi đo niệu động học
Chỉ số
Giới
Nam (n = 55) Nữ (n = 8) Cả hai giới (n=63) Trung
bình Biên độ Trung
bình Biên độ Trung
bình Biên độ Áp lực detrusor
tại LL dòng tiểu tối đa
60,5
± 38,8
0,5 - 157,3
31,8
± 18,7
0,7- 64,3
56,7
± 38,1 0,5- 157,3 Áp lực Detrusor
tối đa (n=60)
77,5
± 45,3
2,4 - 193,6
49,5
± 26,2
20 - 88,2
74,2
± 44,3
2,4 - 193,6 Áp lực Detrusor
trung bình (n=60)
51,6
± 35,2
0,6 - 160,2
29,4
± 17,5
5,7 - 60,4
49,0
± 34,3
0,6 - 160,2
Chỉ số co bóp BQ (BCI)
99,6
± 41,4
20,0 - 171,8
62,1
± 31,6
2,2 - 108,1
94,8
± 41,9
2,2 - 171,8 Chỉ số tắc nghẽn
BQ (BOOI)
52,3
± 37,2
3,0 - 154,7
26,5
± 15,9
12,5 - 59,7
48,9
± 36,2
4,1 - 154,7 Áp lực detrusor tại lưu lượng dòng tiểu tối đa, áp lực detrusor tối đa và trung bình, chỉ số co bóp BQ và chỉ số tắc nghẽn đường tiểu dưới ở nam thường cao hơn nữ.
Ở 5 BN không thể tiểu được trong pha tống xuất, chúng tôi ghi nhận áp lực detrusor tối đa (Pdet Max) và trung bình (Pdet Ave) lần lượt là 35,6 ± 16,1 và 17,8 ± 5,9 cmH₂O và độ giãn nở BQ là 51,8 ± 32,2 ml/cmH₂O.
Bảng 2.4. Phù hợp giữa chẩn đoán ban đầu với chỉ số co bóp bàng quang (BCI) Những thay đổi giữa chẩn
đoán ban đầu và chẩn đoán niệu động học ở hai
giới
Khả năng co bóp theo chỉ số co bóp BCI
Tổng Co bóp
bình thường
Co bóp
mạnh Co bóp yếu
Giới Nam 17 9 29 55 (87,3%)
Nữ 1 0 7 8 (12,7%)
Chẩn đoán ban
đầu
Tắc nghẽn 8 1 17 26 (41,3%0
Tiểu đêm 1 0 0 1 (1,6%)
Tiểu đêm/ Tắc
nghẽn 2 0 7 9 (14,3%0
Tăng hoạt 5 1 6 12 (19%0
Tăng hoạt/ Tắc
nghẽn 2 7 3 12 (19%)
Giảm hoạt/ Tắc
nghẽn 0 0 3 3 (4,8%)
Tổng 18
(28,6%)
9 (14,3%)
36
(57,1%) 63
Bàng quang co bóp yếu chiếm là 57,1%; bình thường là 28,6% và mạnh là 14,3%. Trong số 26 BN được chẩn đoán ban đầu là tắc nghẽn thì có đến 17 BN có chỉ số co bóp yếu khi đo NĐH.
Bảng 2.5. Phù hợp giữa chẩn đoán ban đầu với chỉ số tắc nghẽn (BOOI) Những thay đổi giữa chẩn đoán
ban đầu và chẩn đoán niệu động học ở 2 giới
Khả năng tắc nghẽn theo chỉ số tắc nghẽn BOOI
Tổng Không tắc
nghẽn
Nghi ngờ
Tắc nghẽn
Giới Nam 10 13 32 55 (87,3%)
Nữ 3 4 1 8 (12,7%)
Chẩn đoán ban đầu
Tắc nghẽn 4 6 16 26 (41,3%)
Tiểu đêm 0 0 1 1 (1,6%)
Tiểu đêm/ Tắc nghẽn 2 3 4 9 (14,3%)
Tăng hoạt 3 5 4 12 (19,0%)
Tăng hoạt/ Tắc nghẽn 3 3 6 12 (19,0%)
Giảm hoạt/ Tắc nghẽn 1 0 2 3 (4,8%)
Tổng 13
(20,6%)
17 (27,0%)
33
(52,4%) 63
Tắc nghẽn đường ra bàng quang được chẩn đoán ban đầu ở 50/68 BN (73,5%). Khi đo NĐH, tắc nghẽn chiếm tỷ lệ là 52,4%; nghi ngờ là 27,0% và không tắc nghẽn là 20,6%.
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu chúng tôi có 68 BN (8 nữ và 60 nam). Tuổi trung bình nam là 65,9 và ở nữ là 54,2. Nhóm tuổi hay gặp ở nam là trên 50 tuổi chiếm 85,0%, ở nữ trên 50 tuổi là 75,0%. Trần Ngọc Sinh ghi nhận tuổi trung bình 44,0 ± 9,1 năm, tuổi nhỏ nhất 22 tuổi, lớn nhất 59 tuổi. Lớp tuổi: 30 đối tượng nghiên cứu phần lớn ở lớp tuổi từ 41 - 50 tuổi chiếm 50,0%. Lớp tuổi có phân bố tương đối đồng đều từ 30 đến 59 tuổi [2].
Về lý do vào viện: ở nam giới lý do vào viện chủ yếu là tiểu yếu chiếm 26,6%; các triệu chứng tiểu đêm; tiểu khó và tiểu ngắt quãng là 15%; ở nữ giới thì lý do vào viện chủ yếu là tiểu gấp và tiểu nhiều lần (50% và 37,5%). Ở nam giới, được chẩn đoán ban đầu là tắc nghẽn chiếm 86%, trong đó tắc nghẽn phối hợp với BQ tăng hoạt là 20%, tiểu đêm là 16,7%. Ở nữ giới, được chẩn đoán ban đầu là BQ tăng hoạt chiếm 62,5% và tắc nghẽn là 37,5%.
Lưu lượng dòng tiểu là một chỉ số cơ bản nhất, phản ánh kết quả của quá trình bài xuất nước tiểu và khi kết hợp với thể tích tồn lưu thì sẽ đánh giá được hiệu quả bài xuất nước
tiểu [1]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, Qmax khi đo niệu dòng đồ tự do ở nam thường thấp hơn nữ (Bảng 2.2). Nghiên cứu của Trần Ngọc Sinh ghi nhận Qmax trung bình khi đo áp lực niệu dòng là 24,84 ± 5,26 ml/giây, thể tích nước tiểu khi đi tiểu bình thường ở nữ 330,09 ± 147,88ml (từ 112 đến 731 ml) [2] và đây là kết quả nghiên cứu ở những phụ nữ không có các triệu chứng đường tiểu dưới. Nghiên cứu của Jiang cũng có những ghi nhận tương tự nghiên cứu của chúng tôi khi đo NĐH ở 131 BN bình thường và 1011 BN có triệu chứng đường tiểu dưới với các kết quả lần lượt tương ứng là: Qmax là 19,5 và 7,58 ml/giây; áp lực detrusor (Pdet) là 31,8 và 66,2 cmH₂O; thể tích nước tiểu là 496 và 162 ml và thể tích tồn lưu là 28,9 và 94,8 ml [5]. Kết quả trên của Jiang cho thấy rõ sự chênh lệch về kết quả Qmax, áp lực detrusor, thể tích đi tiểu cũng như thể tích tồn lưu giữa 2 nhóm không và có triệu chứng đường tiểu dưới.
Thể tích nước tiểu cũng là một đại lượng mang tính tương đối, có thể thay đổi tùy theo thời điểm và tâm lý của con người [2], đặc biệt trong bối cảnh có thể có sự gia tăng sức
cản niệu đạo vì BN phải mang ống thông áp lực trong khi đo niệu động học, đặc biệt là ở nam giới. Có thể vì vậy cho nên khi so với niệu dòng đồ tự do, thể tích nước tiểu của nam giới trong pha tống xuất là tương đối thấp, hầu như không vượt quá 150 ml, điều này có thể dẫn đến Qmax khi đo NĐH thường thấp hơn Qmax tự do và thể tích tồn lưu cao, cuối cùng là hiệu quả đi tiểu bị giảm (Bảng 2.2).
Trong pha làm đầy của áp lực đồ BQ, các chỉ số áp lực được ghi nhận theo các mốc cảm giác, các cơn co bóp không tự chủ của detrusor và độ giãn nở của BQ. Thể tích đạt CG đầu tiên ở nam là 150,1 ± 108,2 và ở nữ là 54,1 ± 121,3 ml; thể tích đạt cảm giác mắc tiểu đầu tiên ở nam là 179,5 ± 116,7 và ở nữ là 191,5 ± 134,7 ml; dung tích BQ ở nam là 250,4 ± 114,8 và ở nữ là 289,3 ± 253,9 ml.
Trần Ngọc Sinh nghiên cứu ở nữ không có các triệu chứng đường tiểu dưới, ghi nhận thể tích tại các mốc cảm giác: buồn tiểu đầu tiên là 157,5 ± 36,6 ml; buồn tiểu dữ dội là 261,5 ± 54,5 ml và dung tích BQ là 351,5 ± 67,1 ml [2]. Giảm hoạt detrusor thường gặp ở những trường hợp giảm cảm giác thường đặc trưng bằng giảm cảm giác đầu tiên, giảm các mức cảm giác buồn tiểu, thường ít có cảm giác buồn tiểu dữ dội và trong nhiều trường hợp vẫn không có cảm giác gì khi đã đạt dung tích BQ tối đa [2].
Về áp lực detrusor tại các mốc cảm giác:
trên biểu đồ áp lực BQ, thông thường áp lực detrusor duy trì gần như bằng 0 trong toàn bộ chu kỳ làm đầy cho đến khi bắt đầu có cảm giác mắc tiểu. Điều đó có nghĩa là áp suất cơ bản không đổi, thường duy trì thấp và không có các cơn co thắt không tự chủ [1], [8]. Áp
lực detrusor tại dung tích BQ của chúng tôi lần lượt là 21,5 ± 21,8 ở nam và 20,9 ± 21,7 cmH₂O ở nữ, ở cả hai giới trung bình là 21,4
± 21,5 cmH₂O (Bảng 2.1). Trị số trung bình của áp lực detrusor ở nữ giới bình thường trong nghiên cứu Trần Ngọc Sinh [2] là 45,1
± 13,1 cmH₂O. Như vậy, áp lực detrusor tại thời điểm đạt dung tích BQ của chúng tôi cũng nằm trong giới hạn bình thường 40 - 60 cmH2O theo nghiên cứu của Patel [9]. Áp lực detrusor không còn ở giá trị bình thường khi đo áp lực BQ có thể giúp phát hiện được sự tăng hoạt hoặc giảm hoạt detrusor và giúp ích rất nhiều trong chẩn đoán bệnh lý BQ nếu đi kèm với tình trạng lâm sàng của BN.
Bởi vì, tăng hoạt detrusor vô căn có thể gặp trong 30% - 35% ở những trường hợp tiểu không kiểm soát gắng sức đã trải qua phẫu thuật hoặc giảm hoạt detrusor có thể gặp ở những trường hợp BQ thần kinh hay trong những trường hợp BQ giãn nở nhiều do bị tắc nghẽn đường ra bàng quang kéo dài [8].
Về độ giãn nở BQ, trên thực tế tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về giảm độ giãn nở BQ đã được sử dụng (ví dụ, từ 10 - 20 ml/cmH₂O), tuy nhiên, không có một định nghĩa nhất quán dựa trên ml/cmH₂O. Stöhrer cho rằng giá trị nhỏ hơn 20 ml/cmH₂O phù hợp với sự giảm độ dãn nở BQ và có nghĩa là BQ có sức chứa kém [10]. Với mốc 30 ml/cmH₂O [8] chúng tôi ghi nhận BQ kém giãn nở thường gặp ở nam giới với độ giãn nở trung bình là 26,7 ± 29,2 hơn là ở nữ giới (43,5 ± 65,1) và ở cả hai giới là 30,9 ± 41,3 ml/cmH₂O, trong đó BN có độ giãn nở BQ kém chiếm tỷ lệ 72,1% (Bảng 2.1).
Trong pha tống xuất khi đo NĐH, hai thông số quan trọng của quá trình tống xuất
BQ là sức co bóp của detrusor (BCI) và sức cản đường ra của BQ do tắc nghẽn đường ra bàng quang (BOOI) cùng với chỉ số hiệu quả tống xuất của bàng BQ (BVE) [4]. Những bất thường về tống xuất BQ được gây ra bởi hai nguyên nhân chủ yếu là tăng sức cản đường ra BQ và giảm hoạt cơ detrusor hoặc kết hợp cả hai nguyên nhân trên [4], [8]. Ở những BN tiểu được trong pha tống xuất, chúng tôi ghi nhận áp lực detrusor tại thời điểm đạt lưu lượng dòng tiểu tối đa là 56,7 ± 38,1; chỉ số tắc nghẽn trung bình là 94,8 ± 41,9 và trong đó tỷ lệ BN có tắc nghẽn chiếm tỷ lệ 52,4%; nghi ngờ 27,0% và không tắc nghẽn 20,6%; chỉ số co bóp trung bình là 48,9 ± 36,2; trong đó tỷ lệ co bóp BQ yếu chiếm 57,1%; bình thường 28,6% và mạnh là 14,3% (Bảng 2.3, 2.4 và 2.5). Các chỉ số trên ở nam và nữ giới trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt, tuy nhiên hiệu quả đi tiểu (BVE) ở nữ (88,1 ± 148,6) là cao hơn nam (42,9 ± 50,6) (Bảng 2.2).
Chúng tôi phân ra 2 nhóm khi đo NĐH là tiểu được và không tiểu được trong pha tống xuất. Trong nhóm tiểu được khi đo niệu động học, các BN được chẩn đoán ban đầu tắc nghẽn (kể cả những BN tiểu đêm, BQ tăng hoạt và BQ giảm hoạt trên nền của sự tắc nghẽn) là 50/63 BN chiếm 79,36%, nhưng kết quả NĐH ghi nhận tỷ lệ tắc nghẽn của nhóm này là 26/50 BN (52,0%), có 12/50 BN (24,0%) thuộc nhóm nghi ngờ tắc nghẽn và 10 BN (20,0%) còn lại thì chưa phát hiện sự tắc nghẽn. Trong số 26 BN được chẩn đoán ban đầu là tắc nghẽn đơn thuần thì có 16 BN được khẳng định tắc nghẽn, 6 BN thuộc nhóm nghi ngờ và 4 BN không phát hiện được tắc nghẽn khi đo NĐH. Một số
BN được chẩn đoán ban đầu là tiểu đêm và BQ tăng hoạt đơn thuần thì phát hiện có tắc nghẽn khi đo NĐH (Bảng 2.4). Cùng ở nhóm được chẩn đoán ban đầu là tắc nghẽn trên thì kết quả NĐH phát hiện có detrusor co bóp yếu là 30/50 BN (60,0%), co bóp bình thường là 18 BN (28,6%) và co bóp mạnh là 9 BN (14,3%). Detrusor co bóp yếu còn tìm thấy trong khoảng 6/12 BN (50%) được chẩn đoán ban đầu là BQ tăng hoạt đơn thuần và 7/12 BN có detrusor co bóp mạnh được chẩn đoán ban đầu là BQ tăng hoạt do tắc nghẽn (Bảng 2.5).
Ngoài ra, ở nhóm không thể tiểu được trong pha tống xuất khi đo NĐH có 5/68 BN (4,7%), tất cả đều được chẩn đoán ban đầu là tắc nghẽn. Mặc dù không thể loại trừ hẳn một số yếu tố tâm lý, nhưng chúng tôi vẫn xem đó là do nguyên nhân tắc nghẽn vì một lý do là Qmax tự do của họ là dưới 10 ml/giây và một số nghiên cứu hồi cứu về NĐH trên thế giới cũng xem nhóm không tiểu được trong pha tống xuất là do tắc nghẽn. Trong số 5 BN này, có 3 BN giảm co bóp detrusor, 1 BN tăng hoạt và 1 BN có chức năng detrusor bình thường trên nền tắc nghẽn đường ra BQ.
Như vậy, tắc nghẽn vẫn là những chẩn đoán ban đầu ở các BN có các triệu chứng đường tiểu dưới chiếm 80,9% (55/68 BN) tổng số BN được chẩn đoán ban đầu, mặc dù tỷ lệ này có giảm xuống còn 55,9% (38/68 BN) khi kiểm tra NĐH . Cơ detrusor co bóp yếu là 39/68 BN, chiếm tỷ lệ 57,4% khi đo NĐH so với chẩn đoán ban đầu là 3 BN (4,8%). Tóm lại, có thể nói rằng tắc nghẽn vẫn là một nguyên nhân phổ biến ở các BN có các triệu chứng đường tiểu dưới, tuy
nhiên tắc nghẽn thường không phải là đơn thuần mà thường phối hợp với các nguyên nhân khác, trong đó nguyên nhân hay đi kèm là detrusor co bóp yếu và một số ít là tăng hoạt detrusor.
V. KẾT LUẬN
Kết quả niệu động học ghi nhận tỷ lệ tắc nghẽn đường ra bàng quang là 55,9%; nghi ngờ 25,0% và không tắc nghẽn 19,1%. Tỷ lệ bàng quang yếu co bóp là 57,1%; bình thường 28,6% và mạnh 14,3%. Có 19,1%
trường hợp tăng hoạt động detrusor. Độ giãn nở bàng quang kém chiếm tỷ lệ 72,1%. Tắc nghẽn đường ra bàng quang vẫn là chẩn đoán ban đầu thường gặp, nhưng trên thực tế các hội chứng khác như bàng quang co bóp yếu, bàng quang tăng hoạt thường đi kèm hoặc đôi khi là đơn độc, chính điều này đã gây ra những khó khăn trong chẩn đoán và điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Ân (2003), "Đại cương về các phép đo niệu động học", Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 7(2), tr. 68-74.
2. Trần Ngọc Sinh (2012), "Kết Quả Đo Các Chỉ Số Niệu Động Bình Thường Ở Nữ", Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 16(3), tr. 441- 455.
3. Abrams P., Cardozo L., Fall M., Griffiths D., Rosier P., Ulmsten U., Van Kerrebroeck P., Victor A., Wein A. (2003),
"The standardisation of terminology in lower urinary tract function: report from the standardisation sub-committee of the
International Continence Society", Urology.
61(1), tr. 37-49.
4. Abrams P., Cardozo L., Fall M., Griffiths D., Rosier P., Ulmsten U., van Kerrebroeck P., Victor A., Wein A., Standardisation Sub- committee of the International Continence S.
(2002), "The standardisation of terminology of lower urinary tract function: report from the Standardisation Sub-committee of the International Continence Society", Neurourol Urodyn. 21(2), tr. 167-78.
5. Jiang Y.H., Liao C.H., Kuo H.C. (2018),
"Role of Bladder Dysfunction in Men with Lower Urinary Tract Symptoms Refractory to Alpha-blocker Therapy: A Video-urodynamic Analysis", Lower Urinary Tract Symptoms.
10(1), tr. 32-37.
6. Klevmark B., "Natural pressure-volume curves and conventional cystometry", Scandinavian Journal Urology Nephrology.
20(1), tr. 1-4.
7. Nitti V.W. (2005), "Pressure flow urodynamic studies the gold standard for diagnosing bladder outlet obstruction", Rev. Urol. 7, tr.
S14-S21.
8. Nitti V.W.B., Benjamin M. (2015),
"Urodynamic and video urodynamic evaluation of the LUTS", Campbell 2016, tr.
1718-1742e3.
9. Patel U. (2010), Imaging and Urodynamics of the lower urinary tract, Springer. tr .21
10. Stöhrer M. G.M., Kondo A., Kramer J., Madersbacher H., Millard R., Rossier A., Wyndaele J. J. (1999), "The standardization of terminology in neurogenic lower urinary tract dysfunction with suggestions for diagnostic procedures", Neurourology and Urodynamics. 18(2), tr. 139-158.