KIẾN THỨC - THỰC HÀNH VỀ TIÊM AN TOÀN CỦA ĐIỀU DƢỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI CÁC BỆNH VIỆN CÔNG LẬP TỈNH
TÂY NINH
Võ Thị Mỹ Linh1, Nguyễn Duy Phong2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong điều trị và chăm sóc sức khỏe tiêm có vai trò rất quan trọng giúp đưa thuốc, chất dinh dưỡng vào cơ thể. Do đó, việc đánh giá kiến thức, thực hành về tiêm an toàn của điều dưỡng tại các bệnh viện công lập tỉnh Tây Ninh là cần thiết.
Mục tiêu: Mô tả kiến thức - thực hành và xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức – thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng tại các bệnh viện công lập tỉnh Tây Ninh.
Đối tượng - Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang kết hợp quan sát kín, khảo sát trên tổng số 403 điều dưỡng và quan sát kín 403 mũi tiêm của điều dưỡng trực tiếp thực hiện trên bệnh nhân tại 12 bệnh viện công lập tại tỉnh Tây Ninh.
Kết quả: Có 90,3% điều dưỡng tham gia nghiên cứu là nữ, trình độ của điều dưỡng chủ yếu là trung cấp (74,7%), độ tuổi từ 21-40 tuổi chiếm ưu thế. Điều dưỡng đã được tập huấn về tiêm an toàn chiếm tỉ lệ 71,0%, tuy nhiên nhu cầu mong muốn được tập vẫn chiếm tỉ lệ rất cao (92,1%). Tỉ lệ điều dưỡng đạt kiến thức và thực hành về tiêm an toàn là 44,7% và 47,2%. Kiểm định Chi bình phương cho kết quả có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức và thực hành đạt về tiêm an toàn (p=0,029).
Kết luận: Tỉ lệ điều dưỡng có kiến thức và thực hành đạt về tiêm an toàn chưa đến 50%. Điều dưỡng có thực hành đạt thường ít kiến thức hơn điều dưỡng có thực hành không đạt. Cần thực hiện nghiên cứu định tính nhằm lý giải cụ thể nghịch lý tại sao điều dưỡng thực hành đạt có kiến thức chưa đạt cao hơn nhóm thực hành chưa đạt.
Từ khóa: điều dưỡng, kiến thức, thực hành, tiêm an toàn, Tây Ninh
ABSTRACT
KNOWLEDGE AND PRACTICE OF INJECTION SAFETY AMONG NURSES AND ASSOCIATED FACTORS IN TAY NINH PUBLIC HOSPITALS
Vo Thi My Linh, Nguyen Duy Phong
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 35 - 41 Background: In health care and medical treatment, injection plays a crucial role to introduce drugs and nutrients into the body. Therefore, it is necessary to assess knowledge and practice of injection safety among nurses in Tay Ninh public hospitals.
Objectives: The objectives of this study was to assess knowledge and practice about injection safety among nurses and associated factors to knowledge and practice in Tay Ninh public hospitals.
Methods: A cross-sectional study was conducted in combination with close observation. A total of 403 nurses from 12 public hospitals in Tay Ninh province were recruited and 403 injection events that nurses directly performed on patients were observed.
Results: 90.3% of nurses participating in this study were female, nurses’ degrees were mainly
1Trường Trung cấp Y tế Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 2Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Võ Thị Mỹ Linh ĐT: 0946457652 Email: [email protected]
intermediate (74.7%), the age group from 21 to 40 years was dominant. Nurses who had been trained in injection safety accounted for 71.0%, yet the needs to be trained remained very high (92.1%). The proportion of nurses with good knowledge and good practice about injection safety was 44.7% and 47.2%, respectively. The Chi-square test showed a statistically significant correlation between knowledge and good practice about injection safety (p=0.029).
Conclusions: The proportion of nurses with good knowledge and good practice about injection safety was less than 50%. Nurses with good practice had low level of good knowledge than nurses with not-good practice. Qualitative research should be done to explain the reasons whynurses with good practice had unfavorable knowledge than those with satisfactory knowledge.
Keywords: nurse, knowledge, practice, injection safety, Tay Ninh
Đ Ấ ĐỀ
Tiêm là một trong những biện pháp đưa thuốc vào cơ thể với vai trò quan trọng là điều trị và phòng bệnh. Hàng năm, số lượng mũi tiêm được thực hiện trên thế giới và tại Việt Nam là rất lớn, nhưng một số nghiên cứu cho thấy khoảng 50% các mũi tiêm ở các nước thu nhập trung bình và thu nhập thấp như: Châu Phi, khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ và Mông Cổ không an toàn(1). Tại Việt Nam, nghiên cứu của Duy Thị Thanh Huyền (2019) thực hiện tại 23 trạm y tế ở Hà Nội cho thấy tỉ lệ điều dưỡng có kiến thức đạt là 61,8% và thực hành đạt là 38,2%(2). Nghiên cứu đối với học sinh điều dưỡng tại trường Trung cấp Y tế Kon Tum (2016) cho thấy tỉ lệ đạt kiến thức và thực hành gần như tương đương (khoảng 50%)(3).
Các nghiên cứu trước đây khi chưa đồng nhất về công cụ đánh giá kiến thức cũng như thực hành về tiêm an toàn. Quan sát viên đánh giá thực hành của điều dưỡng là người làm việc tại địa điểm thực hiện nghiên cứu, nên dễ dẫn đến sai lệch thông tin trong quá trình đánh giá.
Đồng thời, các nghiên cứu thực hiện trên nhiều đối tượng ở những ngành nghề khác nhau nên chưa đại diện cho quần thể điều dưỡng. Nghiên cứu này với mục tiêu mô tả kiến thức - thực hành và xác định một số yếu tố liên quan đến tiêm an toàn của điều dưỡng tại các bệnh viện công lập tỉnh Tây Ninh. Kết quả nghiên cứu là tiền đề để trường Trung cấp Y tế Tây Ninh đánh giá lại kết quả đào tạo của điều dưỡng về tiêm an toàn. Từ đó, trường xây dựng lại chương
trình đào tạo điều dưỡng cho phù hợp với chuẩn năng lực cơ bản cho điều dưỡng Việt Nam.
ĐỐI ƢỢNG - PHƢƠ G PHÁP GHIÊ CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuTại Tỉnh Tây Ninh có 15 bệnh viện trong đó gồm 09 bệnh viện tuyến huyện, 01 bệnh viện tuyến tỉnh và 02 bệnh viện chuyên khoa thuộc nhóm bệnh viện công lập. Hiện tại có khoảng 700 điều dưỡng đang công tác tại các bệnh viện công lập bao gồm 435 điều dưỡng lâm sàng và 265 điều dưỡng hành chính. (3 bệnh viện tư nhân không đưa vào nghiên cứu).
Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu tối thiểu của nghiên cứu là 385 người được xác định theo công thức ước lượng 1 tỉ lệ với p= 0,5 theo nghiên cứu của Đặng Thị Thanh Thủy(3). Dự trù 10% mất mẫu do điều dưỡng từ chối tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn lựa chọn điều dưỡng tham gia nghiên cứu là toàn bộ 435 điều dưỡng có trực tiếp thực hiện kỹ thuật tiêm. Sau quá trình tiếp cận, có 32 điều dưỡng từ chối tham gia nghiên cứu (Chiếm 8,3%), cỡ mẫu thực tế thu được là 403 điều dưỡng.
Công cụ thu thập
Bộ câu hỏi trong nghiên cứu gồm 03 phần:
- Phần 1: Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu (10 câu);
- Phần 2: Kiến thức về tiêm an toàn (10 câu) được xây dựng theo Hướng dẫn tiêm an toàn của Bộ Y tế và các nghiên cứu trước;
- Phần 3: Thực hành tiêm an toàn được đánh giá bằng bảng kiểm trong Hướng Dẫn tiêm an toàn của Bộ Y tế (2012) cho từng kỹ thuật tiêm.
Điều dưỡng được đánh giá có kiến thức đạt khi trả lời đúng ≥80% số câu hỏi, tương đương với ≥8 câu hỏi thuộc phần kiến thức.
Thực hành đạt khi điều dưỡng có ≥80% điểm của các nội dung trong bảng kiểm phần thực hành, trong đó:
- Thực hành đúng: 2 điểm, - Thực hành sai: 1 điểm, và - Không thực hành: 0 điểm.
Điều dưỡng được đánh giá có kiến thức - thực hành đạt tiêm an toàn là người đúng
≥80% số lượng các nội dung đánh giá theo kết luận của Biddle RE (1993) về việc lựa chọn điểm giới hạn kiến thức(4). Đồng thời, nghiên cứu của Duy Thị Thanh Huyền đánh giá kiến thức – thực hành đạt về tiêm an toàn cũng lựa chọn điểm giới hạn ≥80% (2).
Quy trình thu thập số liệu
Nghiên cứu viên liên hệ các địa điểm nghiên cứu, sắp xếp thời gian để tiến hành lấy mẫu vào cuối các buổi giao ban, giới thiệu, giải thích về nghiên cứu và giải đáp thắc mắc về bộ câu hỏi.
Tiến hành phát bộ câu hỏi, thu lại bộ câu hỏi sau 15 phút và kiểm tra đảm bảo đối tượng điền đầy đủ thông tin sau khi kết thúc buổi giao ban.
Kiểm tra thông tin, liên hệ và hoàn thành những bộ khảo sát chưa hoàn thiện.
Sau khi lấy mẫu kiến thức, nghiên cứu viên báo khoảng thời gian tiến hành quan sát kín thực hành tiêm an toàn cho điều dưỡng. Quan sát viên là sinh viên điều dưỡng liên thông đang thực tập tại các bệnh viện và hiện tại đang giữ chức vụ điều dưỡng trưởng khoa tại các bệnh viện. Cho quan sát viên quan sát thử trên một số đối tượng có sự giám sát, đánh giá độ chính xác từ nghiên cứu viên. Quan sát viên với vai trò là sinh viên thực tập, trực tiếp quan sát mỗi điều
dưỡng lâm sàng thực hành 01 mũi tiêm bất kỳ và đánh dấu vào bảng kiểm như đang ghi chép kinh nghiệm thực hành.
Xử lý số liệu
Số liệu sau khi thu thập được làm sạch và nhập bằng phần mềm EpiData 3.1, phân tích bằng phần mềm Stata 14.2. Kiểm định Chi bình phương và số đo kết hợp tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR) được sử dụng để tính mối liên quan giữa các biến số thông tin chung của điều dưỡng với kiến thức – thực hành về tiêm an toàn; giữa kiến thức và thực hành về tiêm an toàn.
Y đức
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM số 82/HĐĐĐ, ngày 16/01/2020.
KẾT QUẢ
Thông tin chung về đối tƣợng nghiên cứu Bảng 1: Thông tin chung của điều dưỡng (n=403)
Đặc tính mẫu Tần số (n) Tỉ lệ (%) Nhóm tuổi
≤ 30 tuổi 31-40 tuổi
>40 tuổi
164 167 72
40,7 41,4 17,9 Giới tính
Nữ Nam
364 90,3
39 9,7
Trình độ chuyên môn Trung cấp Cao đẳng Đại học
301 10 92
74,7 2,5 22,8 Thâm niên công tác ngành điều
dưỡng
<5 năm 5- 10 năm
>10 năm
122 128 153
30,3 31,7 38,0 Thời gian thực hiện công tác tiêm
<5 năm 5- 10 năm
>10 năm
137 128 138
34,0 31,8 24,2 Đã được đào tạo tiêm an toàn
Có Không
286 117
71,0 29,0 Nhu cầu đào tạo lại
Có Không
371 32
92,1 7,9
Có 90,3% điều dưỡng tham gia nghiên cứu
là nữ, trình độ của điều dưỡng chủ yếu là trung cấp (74,7%), độ tuổi từ 21-40 tuổi chiếm ưu thế. Thời gian thực hiện công tác tiêm phân bố tương đối đều nhau, trong đó cao nhất là ít hơn 5 năm kinh nghiệm (chiếm 34%). Nhóm điều dưỡng có thâm niên công tác trên 10 năm chiếm tỉ lệ cao nhất là 38,0%. Điều dưỡng đã được đào tạo về tiêm an toàn chiếm tỉ lệ 71,0%, tuy nhiên nhu cầu đào tạo lại vẫn chiếm tỉ lệ rất cao (92,1%) (Bảng 1).
Mô tả kiến thức về tiêm an toàn
ảng 2: Mô tả kiến thức về tiêm an toàn (n=403)
Nội dung Đạt Không đạt
Thời điểm vệ sinh tay 91,6 8,4 Tiêu chuẩn “5 đúng” trong tiêm an toàn 88,6 11,4
Tiêm bắp nhiều lần cùng một vị trí 88,1 11,9 Định nghĩa tiêm an toàn 85,1 14,9 Yếu tố phơi nhiễm nghề nghiệp 82,9 17,1 Dụng cụ cần chuẩn bị khi tiêm 81,4 18,6 Hậu quả của tiêm không an toàn 44,7 55,3 Hộp thuốc cấp cứu phản vệ theo
TT51/2017/TT-BYT 42,9 57,1
Các bước xử trí sau phơi nhiễm 42,9 57,1 Thời điểm áp dụng tiêu chuẩn 5 đúng 31,5 68,5
Kiến thức chung 44,7 55,3
Các nội dung được tiếp xúc thường xuyên trong quá trình tiêm có tỉ lệ điều dưỡng đạt kiến thức cao hơn so với các nội dung lý thuyết được đề cập trong hướng dẫn của Bộ Y tế. Tỉ lệ điều dưỡng đạt kiến thức về tiêm an toàn là 44,7%
(Bảng 2).
Mô tả thực hành đạt về tiêm an toàn
Kỹ thuật tiêm bắp được thực hành đạt cao nhất và tiêm trong da là thấp nhất. Tỉ lệ thực hành đạt chung của 4 mũi tiêm là 47,2% (Hình 1).
nh : Thực hành đạt về tiêm an toàn (n=403) Mối liên quan giữa đặc tính nền với kiến thức
Điều dưỡng đã thực hiện công tác tiêm trên 10 năm có kiến thức về tiêm an toàn cao hơn 1,36 lần so với nhóm dưới 5 năm (Bảng 3).
Mối liên quan giữa đặc tính nền với thực hành Điều dưỡng trên 40 tuổi, điều dưỡng có thâm niên trên 10 năm hoặc điều dưỡng có thời gian thực hiện công tác tiêm trên 10 năm thực hành đạt về tiêm an toàn nhiều hơn (Bảng 4).
ảng 3: Mối liên quan giữa đặc tính nền với kiến thức (n=403)
Đặc điểm Kiến thức tiêm an toàn
Giá trị p* PR (KTC 95%) Đạt n (%) Không đạt n (%)
Nhóm tuổi
≤ 30 31-40
> 40
66 (40,2) 76 (45,5) 38 (52,8)
98 (59,8) 91 (54,5) 34 (47,2)
0,335 0,065
1 1,13 (0,88 - 1,45) 1,31 (0,98 – 1,75) Giới tính
Nam Nữ
18 (46,2) 162 (44,5)
21 (53,8)
202 (55,5) 0,844 1,03 (0,73 -1,48) Trình độ chuyên môn
Trung cấp Cao đẳng Đại học
135 (44,8) 5 (50,0) 40 (44,7)
166 (55,2) 5 (50,0) 52 (55,3)
0,737 0,818
1 1,11 (0,59 – 2,10) 0,97 (0,74 – 1,26) Thâm niên công tác trong ngành điều dưỡng
<5 năm 5 - 10 năm
>10 năm
46 (34,7) 60 (46,9) 74 (48,4)
76 (62,3) 68 (53,1) 79 (51,6)
0,146 0.083
1 1,24 (0,93 – 1,67) 1,28 (0,97 – 1,70) 44,2%
25%
54,6% 59,3%
47,2%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Tiêm tĩnh mạch (n=269)
Tiêm trong da
(n=20)
Tiêm dưới da
(n=43) Tiêm
bắp (n=81)
Thực hành chung
Thực hành đạt về tiêm an toàn
Đặc điểm Kiến thức tiêm an toàn
Giá trị p* PR (KTC 95%) Đạt n (%) Không đạt n (%)
Thời gian thực hiện công tác tiêm
<5 năm 5- 10 năm
>10 năm
51 (37,2) 59 (46,1) 70 (50,7)
86 (62,8) 69 (53,9) 68 (49,3)
0,145 0,026
1 1,24 (0,93 – 1,65) 1,36 (1,04 – 1,79)
* Kiểm định Chi bình phương
ảng 4: Mối liên quan giữa đặc tính nền với thực hành (n=403)
Đặc điểm Thực hành tiêm an toàn
Giá trị p* PR (KTC 95%) Đạt n (%) Không đạt n (%)
Nhóm tuổi
≤ 30 68 (41,5) 96 (58,5) 1
31-40 80 (47,9) 87 (52,1) 0,241 1,15(0,90 – 1,47)
> 40 42 (58,3) 30 (41,7) 0,012 1,40 (1,08 – 1.83)
Giới tính
Nam 19 (48,7) 20 (51,3)
0,836 1,04 (0,74 – 1,46)
Nữ 171(47,0) 193 (53,0)
Trình độ chuyên môn
Trung cấp 146 (48,5) 155 (51,5) 1
Cao đẳng 3 (30,0) 7 (70,0) 0,324 0,62 (0,24 – 1,61)
Đai học 41 (44,6) 51 (55,4) 0,517 0,92 (0,71 – 1,2)
Thâm niên công tác ngành điều dưỡng
<5 năm 50 (41,0) 72 (59,0) 1
5- 10 năm 54 (42,2) 74 (57,8,2) 0,847 1,03 (0,77 – 1,38)
>10 năm 86 (56,2) 67 (43,8) 0,015 1,37 (1,06 – 1,77)
Thời gian thực hiện công tác tiêm
<5 năm 59 (43,1) 78 (56,9) 1
5- 10 năm 54 (42,2) 74 (57,8) 0,885 0,98 (0,74 – 1,30)
>10 năm 77 (55,8) 61 (44,2) 0,037 1,30 (1,02 – 1,65)
* Kiểm định Chi bình phương
Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về tiêm an toàn
ảng 5: Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về tiêm an toàn (n=403)
Đặc điểm Thực hành tiêm an toàn Giá trị p*
PR (KTC 95%) Đạt n (%) Chưa đạt n (%)
Kiến thức Đạt Chưa đạt
74 (38,9) 116 (61,1)
106 (49,8)
107 (51,2) 0,029 0,79 (0,64 – 0,98)
* Kiểm định Chi bình phương
Nhóm điều dưỡng có thực hành đạt có kiến thức thấp hơn so với nhóm điều dưỡng có thực hành không đạt và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Mô tả kiến thức tiêm an toàn
Kết quả nghiên cứu tìm thấy tỉ lệ điều dưỡng
tại các bệnh viện công lập tỉnh Tây Ninh đạt kiến thức chung về tiêm an toàn tương đối thấp (chiếm 44,7%). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu đánh giá kiến thức trên điều dưỡng của tác giả Balamurugan D khi kết luận 41,3% điều dưỡng có kiến thức đạt về tiêm an toàn(5). Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Đặng Thị Thanh Thủy (2016) đánh giá kiến thức của học sinh tại Kom Tum (chiếm 51,4%)(3). Sự khác biệt này có thể được lý giải do nghiên cứu này chỉ đánh giá trên điều dưỡng, các nghiên cứu trước đây thực hiện trên nhiều đối tượng gồm điều dưỡng, hộ sinh và y sĩ. Bên cạnh đó, việc sử dụng khác bộ câu hỏi và việc sử dụng điểm cắt 80% để đánh giá kiến thức đạt cũng hình thành sự khác biệt so với các nghiên cứu trước đây(4). Mặc dù, kết quả nghiên cứu cho kết quả tương
đối thấp, tuy nhiên kết quả này vẫn cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Adejumo PO (2013) với tỉ lệ đạt kiến thức là 13,2% và 21,2% ở bệnh viện ở Ibadan và Nigeria(6). Sự khác biệt này có thể lý giải do các đặc điểm nhân khẩu học được lựa chọn là khác nhau. Đồng thời, các chính sách liên quan đến tiêm an toàn được chính phủ ban hành và yêu cầu thực hiện tại mỗi quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ điều dưỡng có kiến thức về tiêm an toàn.
Mô tả thực hành tiêm an toàn
Thực hành trong nghiên cứu này được đánh giá bằng 2 bảng kiểm theo Hướng dẫn tiêm an toàn của Bộ Y tế (2012). Tuy nhiên có sự khác biệt khi chúng tôi đánh giá thông qua việc điều dưỡng thực hiện đúng, thực hiện sai hay không thực hiện ở mỗi bước. Khi điều dưỡng thực hiện sai hay không thực hiện đều được đánh giá là thực hiện sai và điều dưỡng phải thực hành đúng ít nhất 80% các bước đánh giá mới đạt tiêu chuẩn. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 47,2%
điều dưỡng đạt thực hành chung về tiêm an toàn. Tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu của tác giả Phí Đức Long khi cùng sử dụng cùng bảng kiểm của Bộ Y tế và cho kết quả có 21,4% điều dưỡng có thực hành tiêm an toàn đạt tiêu chuẩn(7). Việc thực hành chưa đạt tiêu chuẩn trong nghiên cứu này chủ yếu do điều dưỡng lượt bỏ một số bước.
Điều này có thể làm ảnh hưởng đến an toàn của người bệnh và gây ra các sự cố y khoa có thể phòng ngừa.
Mối liên quan giữa đặc tính nền với kiến thức Những người có thời gian thực hiện công tác tiêm trên 10 năm có kiến thức đạt nhiều hơn 36%
so với người có ít hơn 5 năm kinh nghiệm. Điều này được lý giải do tiêm có vai trò rất quan trọng, là một trong những thủ thuật được điều dưỡng thực hiện nhiều nên điều dưỡng có thời gian công tác càng dài thì càng có nhiều kinh nghiệm và kiến thức đạt trong việc thực hiện tiêm an toàn.
Mối liên quan giữa đặc tính nền với thực hành Đối với thực hành về tiêm an toàn, điều
dưỡng trên 40 tuổi, có kinh nghiệm điều dưỡng trên 10 năm hoặc có thâm niên thực hành tiêm trên 10 năm có thực hành đạt cao hơn so với nhóm khác (p <0,05). Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu trước đây của Birhanu D (2019)(8). Điều này được lý giải do tiêm có vai trò rất quan trọng, là một trong những thủ thuật được điều dưỡng thực hiện nhiều nên điều dưỡng có thời gian công tác càng dài thì càng có nhiều kinh nghiệm và kiến thức đạt trong việc thực hiện tiêm an toàn.
Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về tiêm an toàn
Nhóm điều dưỡng có thực hành đạt có kiến thức thấp hơn so với nhóm điều dưỡng có thực hành không đạt và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Kết quả này trái ngược với nghiên cứu của tác giả Duy Thị Thanh Huyền (2019) và nghiên cứu của tác giả Đặng Thị Thanh Thủy (2016)(2,3). Sự khác biệt này có thể được giải thích do điều dưỡng trên 40 tuổi, điều dưỡng có thâm niên trong công tác điều dưỡng và công tác tiêm có thực hành tốt hơn. Bên cạnh đó, những điều dưỡng mới làm thường được hướng dẫn trực tiếp bởi các điều dưỡng có kinh nghiệm nên sẽ thực hành đạt nhưng chưa thật sự nắm vững kiến thức.
Điểm hạn chế
Nghiên cứu chưa đánh giá sự khác biệt giữa kiến thức – thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng của bệnh viện công lập và bệnh viện tư nhân tại tỉnh Tây Ninh. Đồng thời, chưa kiểm soát được hết các sai lệch khi quan sát kín điều dưỡng thực hành kỹ thuật tiêm.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ điều dưỡng có kiến thức và thực hành đạt về tiêm an toàn chưa đến 50%. Điều dưỡng có thực hành đạt thường ít kiến thức hơn điều dưỡng có thực hành không đạt (p=0,029).
Trường Trung cấp Y tế Tây Ninh cần xây dựng lại chương trình đào tạo kiến thức và thực hành để đảm bảo tiêu chuẩn đầu ra cho điều dưỡng về tiêm an toàn. Đồng thời, cần thực hiện nghiên
cứu định tính nhằm lý giải cụ thể nghịch lý điều dưỡng thực hành đúng có kiến thức chưa đạt cao hơn nhóm thực hành chưa đúng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kermode M (2004). Unsafe injections in low-income country health settings: need for injection safety promotion to prevent the spread of blood-borne viruses. Health Promotion International, 19(1):95-103.
2. Duy Thị Thanh Huyền, Trần Như Nguyên (2019). Kiến thức, thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên Trung tâm y tế quận Nam-Bắc Từ Liêm, Hà Nội năm 2018. Y học Thực hành, 3(1092):30-32
3. Sở Y tế (2016). Kiến thức, kỹ năng thực hành tiêm an toàn và một số yếu tố liên quan của học sinh trường trung cấp y tế tỉnh Kon Tum năm 2016. Sở Y tế, pp.28-40.
4. Biddle RE (1993). How to set cutoff scores for knowledge tests used in promotion, training, certification, and licensing. Public Personnel Management, 22(1):63-79.
5. Balamurugan D, Bhuvaneswari N, Bhuvaneswari V, et al (2017). Assessment of Knowledge of Staff Nurses on Safe
Injection Techniques in Pediatric Care Settings of JIPMER, Puducherry. Imperial Journal of Interdisciplinary Research, 3(2):1135-1139.
6. Adejumo PO, Dada FA (2013). A comparative study on knowledge, attitude, and practice of injection safety among nurses in two hospitals in Ibadan, Nigeria. International Journal of Infection Control, 9(1):1-6.
7. Phí Đức Long, Đinh Thị Huyền Trang, Đặng Thị Bích Hợp (2018). Thực trạng thái độ và thực hành của điều dưỡng viên về tiêm an toàn tại bệnh viên đa khoa huyện Vũ Thư năm 2018. Y học Cộng đồng, 5(52):73-76.
8. Birhanu D, Amare E, Belay A, Belay Y (2019). Injection Safety Knowl-edge and Practice among Nurses Working in Jimma University Medical Center; Jimma South West Ethiopia; 2018.
International Journal of Community Medicine and Public Health, 6(2):1-7.
Ngày nhận bài báo: 16/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021