• Tidak ada hasil yang ditemukan

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH PHÒNG NGỪA COVID-19 CỦA NGƯỜI BỆNH TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 2, TP. HỒ CHÍ MINH

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH PHÒNG NGỪA COVID-19 CỦA NGƯỜI BỆNH TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 2, TP. HỒ CHÍ MINH"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH PHÒNG NGỪA COVID-19 CỦA NGƯỜI BỆNH TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 2, TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Giao1, Nguyễn Đăng Dung1, Nguyễn Thị Ngọc Hân2

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đại địch do chủng mới Coronavirus (COVID-19) đã gây ảnh hưởng lớn đến kinh tế xã hội và đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như vắc xin phòng ngừa. Do đó, nghiên cứu nhằm đánh giá tỷ lệ kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của người bệnh tại bệnh viện Quận 2 là cần thiết.

Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 351 người bệnh tại bệnh viện Quận 2 thực hiện từ tháng 2/2020 đến tháng 4/2020, số liệu được thu thập bằng cách phỏng vấn dựa vào bộ câu hỏi soạn sẵn và quan sát rửa tay.

Kết quả: Tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng là 79,2%, 70,7% và 76,1%, trong đó thời gian rửa tay

≥20 giây chỉ đạt 36,8%. Thực hành có mối liên quan với kiến thức (PR 1,5 KTC 95%: 1,2-1,8) và thái độ (PR 1,3 KTC 95%: 1,1-1,6). Hầu hết người bệnh biết đại dịch COVID-19 (91,7%), chủ yếu từ tivi và mạng xã hội (60,5% và 60,5%).

Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người bệnh có kiến thức, thái độ và thực hành đúng về phòng ngừa COVID-19 còn thấp. Chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe cần tiếp tục thực hiện thông qua tivi và mạng xã hội trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo thời gian rửa tay tối thiểu 20 giây.

Từ khoá: kiến thức, thái độ, thực hành, COVID-19

ABSTRACT

KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PREVENTIVE PRACTICE TOWARD COVID-19 AMONG PATIENTS AT DISTRICT 2 HOSPITAL, HO CHI MINH CITY

Huynh Giao, Nguyen Dang Dung, Nguyen Thi Ngoc Han

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 103 - 110 Background: COVID-19 pandemic has influenced the economy and society and there are no specific treatments as well as vaccines so that complying with preventive practice COVID-19 is necessary. This study aims to assess the knowledge, attitude, and preventive practice toward COVID-19 among outpatients at District 2 Hospital, Ho Chi Minh City.

Methods: A cross-sectional study was carried out between February and April 2020. Data were collected by interviewing of a structured questionnaire and observed the timescale for washing hands.

Results: the rate of sufficient knowledge, positive attitude, and good practices was 79.2%, 70.7%, and 76.1%, respectively, the timescale for washing hands ≥20s was only 36.8%. Most of them reported seeing information regarding the COVID-19 pandemic (91.7%) via mainly television and social media (60.5% and 60.5%). The good practice was associated with knowledge and attitude (PR 1.5 95% CI: 1.2-1.8, PR 1.3 95% CI:

1.1-1.6, respectively, all p <0.05).

Conclusion: There still exists an amount of insufficient knowledge, attitude, and practice in outpatients at District 2 hospital. Interventions should be continued via television and social media and emphasize the timescale for washing hands at least 20 seconds.

Keywords: knowledge, attitude, practice, COVID-19

1Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh - Cơ sở 2 Tác giả liên lạc: TS.BS. Huỳnh Giao ĐT: 0908608338 Email: [email protected]

(2)

ĐẶT VẤN ĐỀ

Vi rút Corona là một họ vi rút lớn gây bệnh từ cảm lạnh thông thường đến bệnh nặng, đe dọa tính mạng của người bệnh được biết đến như Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS- CoV) năm 2002 và Hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS-CoV) năm 2012. Từ cuối tháng 12 năm 2019, một chủng vi rút Corona mới (nCoV) gây viêm phổi được phát hiện đầu tiên tại Vũ Hán (Trung Quốc) và sau đó Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)công bố đại dịch COVID-19 trên toàn cầu trong tháng 3/2020(1,2). Tính đến ngày 29/01/2021, COVID-19 đã ảnh hưởng đến 223 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với số ca nhiễm lên đến 100.455.529 và 2.166.440 ca tử vong(1), trong đó Việt Nam ghi nhận 1.651 người bị nhiễm và 35 trường hợp tử vong(3). Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại Việt Nam được xem là một trong những quốc gia kiểm soát tốt đại dịch COVID-19(4). Theo WHO, đường lây truyền COVID-19 đã được biết là do tiếp xúc gần với dịch tiết của người nhiễm bệnh khi ho hoặc hắt hơi. Nghiên cứu của Koh J ghi nhận triệu chứng lâm sàng thường gặp của người bệnh nhập viện là sốt (90%), ho (58%), khó thở (25%), các triệu chứng đau cơ, nhức đầu, tiêu chảy, đau họng ít gặp hơn với tỷ lệ 7-10%(5). Tuy nhiên, WHO ghi nhận hơn 80% người bệnh COVID-19 có triệu chứng nhẹ và có thể tự hồi phục mà không cần điều trị, ngoại trừ người bệnh trên 60 tuổi và có kèm bệnh nền như tim mạch, đái tháo đường, béo phì… có khả năng diễn tiến bệnh nặng và có nguy cơ tử vong cao(6). Các nghiên cứu trước đây ghi nhận kiến thức và thái độ có mối liên quan với thực hành phòng ngừa lây truyền bệnh SARS, MERS(7,8). Do đó, việc cung cấp kiến thức, nâng cao nhận thức về bệnh là cần thiết để hạn chế sự lây lan mầm bệnh. Gần đây, một số nghiên cứu đánh giá tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành (KAP) phòng ngừa COVID-19 đã được thực hiện tại Việt Nam. Nghiên cứu của tác giả Hà Văn Như và cộng sự trên người dân ghi nhận vẫn còn một tỷ lệ người dân có KAP chưa đúng trong phòng ngừa COVID-19(9). Nghiên

cứu của chúng tôi trên đối tượng nhân viên y tế cho thấy tỷ lệ kiến thức về đường lây truyền, thời gian cách ly và điều trị chỉ từ 58,5%-67% và thái độ về việc bản thân và thành viên trong gia đình có khả năng mắc bệnh chiếm 79,8%- 82,3%(10). Trong khi đó nghiên cứu trên đối tượng sinh viên và bệnh nhân bệnh mãn tính ghi nhận chỉ 41% và 77,2% đối tượng có thực hành đúng, tỷ lệ tuân thủ thời gian rửa tay chỉ đạt 40,4% -50,5%(11,12). Đại địch COVID-19 vẫn tiếp tục diễn tiến phức tạp và việc phòng chống sự bùng phát trở lại vẫn là thách thức lớn đối với Việt Nam. Đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như vắc xin phòng ngừa COVID-19, các loại vắc xin vẫn đang được phát triển và trong giai đoạn thử nghiệm pha lâm sàng(13). Do đó, việc đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của người bệnh là cần thiết nhằm đóng góp bằng chứng cho truyền thông giáo dục sức khỏe để nâng cao hiệu quả chương trình can thiệp.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Người bệnh đến khám tại bệnh viện Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 2/2020 đến tháng 4/2020.

Tiêu chuẩn chọn mẫu

Tất cả người bệnh đến khám tại Bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.

Đồng ý tham gia nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả.

Cỡ mẫu

Áp dụng công thức ước lượng một tỷ lệ:

=

(1 − )

n: cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu.

α: xác suất sai lầm loại I (α = 0,05).

Z: trị số từ phân phối chuẩn (Z0,95= 1,96 với khoảng tin cậy 95%).

d: Sai số cho phép (d = 0,05).

(3)

p: dựa vào nghiên cứu trước đây của chúng tôi đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành về COVID-19 trên bệnh nhân mãn tính tại Thành phố Hồ Chí Minh (2020)(11).

Tỷ lệ kiến thức đúng: p1=0,684 với d=0,05 =>

n1 = 333.

Tỷ lệ thái độ tích cực: p2= 0,908 với d=0,05 =>

n2 = 129.

Tỷ lệ thực hành đúng: p3= 0,772 với d = 0,05

=> n3 = 271.

Cỡ mẫu tối thiểu cần cho nghiên cứu là 333.

Kĩ thuật chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện.

Thu thập số liệu

Phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi được thiết kế dựa trên hướng dẫn của WHO và nghiên cứu của chúng tôi đánh giá kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về COVID-19(1,10) và quan sát thời gian rửa tay. Bộ câu hỏi được nghiên cứu thử trên 10 người bệnh tại bệnh viện Quận 2 để hiệu chỉnh cho phù hợp. Bộ câu hỏi gồm 3 phần:

Phần 1: bao gồm các câu hỏi về đặc điểm dân số – xã hội của đối tượng nghiên cứu như tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nguồn thông tin về COVID-19, loại khẩu trang, số lượng trung bình khẩu trang/ngày.

Phần 2: đánh giá kiến thức và thái độ bao gồm 9 câu hỏi về kiến thức COVID-19, và 6 câu hỏi thái độ đối với COVID-19 sử dụng thang đo Likert 5 mức độ từ hoàn toàn đồng ý đến hoàn toàn không đồng ý.

Phần 3: đánh giá thực hành, người bệnh trả lời 2 câu hỏi “luôn mang khẩu trang khi đến chỗ đông người” và “thường xuyên rửa tay bằng xà phòng hoặc dung dịch rửa tay nhanh có cồn”.

Ngoài ra, người bệnh thực hiện rửa tay và nghiên cứu viên ghi nhận thời gian.

Định nghĩa các biến số

Mỗi câu hỏi kiến thức được đánh giá đúng và không đúng, ứng với mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm và không đúng 0 điểm, điểm kiến

thức chung được ghi nhận từ 0 (không có câu trả lời đúng) đến 9 (tất cả các câu đều trả lời đúng) và điểm cắt ≥6 được xem là có kiến thức đúng(14). Đánh giá thái độ, mỗi câu trả lời hoàn toàn đồng ý và đồng ý được cho 1 điểm, điểm cắt ≥4 được xem là thái độ chung tích cực(14). Đánh giá thực hành ứng với mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm và không đúng là 0 điểm, thời gian rửa tay đúng là ≥20 giây, điểm cắt ≥2 được xem là thực hành đúng(14).

Xử lý số liệu

Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 14. Thống kê mô tả tính tần số và tỷ lệ các biến số đặc điểm dịch tễ học, kiến thức đúng, thái độ tích cực, và thực hành đúng. Sử dụng phép kiểm Chi bình phương để xác định mối liên quan giữa thực hành phòng ngừa COVID-19 với đặc điểm dân số xã hội, kiến thức chung đúng và thái độ chung tích cực về COVID-19. Phân tích đa biến được thực hiện bằng mô hình hồi quy Poisson đưa vào những biến số sinh học và biến số tiềm năng (p <0,2). Mức độ mối liên quan được tính bằng tỷ số tỷ lệ hiện mắc PR (Prevalence ratio) với khoảng tin cậy (KTC) 95%, p <0,05 được xác định có ý nghĩa thống kê.

Y đức

Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM số 192/HĐĐĐ, ngày 26/02/2020.

KẾT QUẢ

Đặc điểm dân số-xã hội của đối tượng nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội của đối tượng nghiên cứu (n=351)

Đặc điểm n (%)

Nhóm tuổi (<60) 296(84,3) Giới tính (Nam) 159 (45,3) Trình độ học vấn

Tiểu học 67 (19,1)

Trung học cơ sở 81 (23,1)

≥ Trung học phổ thông 203 (57,8) Nghề nghiệp

Nhân viên văn phòng 130(37,1)

(4)

Đặc điểm n (%)

Công nhân 116(33,1)

Nội trợ 73(20,8)

Nghỉ hưu/ mất khả năng lao động 32(9,0) Biết COVID-19 đang xảy ra trên toàn cầu (Có) 322 (91,7)

Nguồn thông tin về COVID-19 (Có)

Tivi 211 (60,5)

Mạng xã hội 211 (60,5)

Trang web bệnh viện, BYT 122 (34,9) Bạn bè, người thân 104 (29,8) Mang khẩu trang (Có) 345(98,3) Số lượng khẩu trang sử dụng/ ngày

1 khẩu trang 154 (44,6)

2 – 3 khẩu trang 140 (40,6)

≥ 4 khẩu trang 51 (14,8)

Nghiên cứu ghi nhận đa số đối tượng nghiên cứu dưới 60 tuổi (84,3%) trong đó giới nữ (54,7%), trình độ học vấn trên trung học phổ thông (57,8%), nhân viên văn phòng (37,1%) chiếm đa số. Hầu hết đối tượng nghiên cứu biết về đại dịch COVID-19 đang xảy ra trên toàn cầu (91,7%) trong đó nguồn thông tin từ tivi và mạng xã hội được tiếp cận cao nhất chiếm 60,5%.

Đa số đối tượng nghiên cứu sử dụng 1-3 khẩu trang/ngày chiếm 85,2%.

Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng ngừa COVID-19

Kết quả nghiên cứu ở Bảng 2 ghi nhận đa số đối tượng nghiên cứu có kiến thức đúng về COVID-19 với tỷ lệ từ 40,2% đến 90,3% và kiến thức chung đúng chiếm 79,2% trong đó kiến thức thấp nhất về thời gian cách ly tối thiếu 2 tuần đối với người mắc COVID-19 chiếm 49,3%

và kháng sinh là không phải là thuốc điều trị đặc hiệu chỉ 40,2%. Thái độ về bản thân và thành viên trong gia đình có khả năng mắc bệnh chiếm tỷ lệ thấp là 67,8% và 65,2%, các nội dung còn lại đều có thái độ tốt từ 90,1% và thái độ chung chiếm 70,7%. Về thực hành phòng ngừa COVID- 19 ghi nhận chỉ 36,8% người bệnh có thời gian rửa tay ≥20 giây và thực hành chung là 76,1%.

Các yếu tố liên quan đến thực hành phòng ngừa COVID-19

Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức chung đúng, thái độ tích cực với thực hành phòng ngừa COVID-19, với p <0,05. Theo đó người bệnh có kiến thức đúng và thái độ tích cực thì có thực hành đúng gấp 1,6 và 1,4 lần so với người bệnh có kiến thức chưa đúng và thái độ chưa tích cực (PR 1,6 KTC 95%: 1,26-1,98 và PR 1,4 KTC 95% 1,21-1,70) (Bảng 3).

Bảng 2: Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng ngừa COVID-19 (n=351)

Nội dung n (%)

Kiến thức về COVID-19

Kháng sinh là thuốc điều trị đặc hiệu (Không) 141 (40,2)

Người mắc COVID-19 cần phải cách ly tối thiểu 2 tuần (Có) 173 (49,3) Rửa tay, mang khẩu trang, hạn chế đến nơi đông người là những biện pháp phòng ngừa (Có) 202 (57,6) Ho, sốt, đau họng và khó thở là những triệu chứng thường gặp của bệnh (Có) 208 (59,3) Bệnh nhân đang mắc bệnh mãn tính có nguy cơ cao mắc COVID-19 (Có) 214 (60,9)

Hiện đã có vắc xin phòng ngừa (Không) 245 (69,8)

COVID-19 là bệnh do virus gây ra (Có) 278 (79,2)

COVID-19 có thể dẫn đến tử vong (Có) 311 (88,6)

Lây truyền do tiếp xúc chất tiết của người bệnh COVID-19 (Có) 317 (90,3)

Kiến thức chung (đúng) 278 (79,2)

Thái độ về COVID-19

Thành viên trong gia đình có thể mắc bệnh (Có) 229 (65,2)

Bản thân có thể mắc bệnh (Có) 238 (67,8)

Tiêm ngừa vắc xin COVID-19 để phòng bệnh (nếu có) (Có) 318 (90,1) Phòng lây truyền COVID-19 bằng cách rửa tay, mang khẩu trang, hạn chế đến nơi đông người (Có) 322 (91,7) Chấp nhận cách ly ở cơ sở y tế nếu bản thân bị nghi ngờ/ nhiễm COVID-19 (Có) 331 (94,3) Người được chẩn đoán COVID-19 nên được cách ly tại cơ sở y tế (Có) 333 (94,9)

(5)

Nội dung n (%)

Thái độ chung (tích cực) 248 (70,7)

Thực hành về COVID-19

Thời gian rửa tay ≥ 20 giây (Có) 129 (36,8)

Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng hoặc dung dịch rửa tay nhanh sau khi tiếp xúc bề mặt nơi công cộng

(nút bấm thang máy, khóa cửa…) (Có) 260 (74,1)

Luôn mang khẩu trang khi đi đến chỗ đông người (Có) 282 (80,3)

Thực hành chung (đúng) 267 (76,1)

Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến thực hành phòng ngừa COVID-19 (n=351)

Đặc điểm Thực hành

p* PR

(KTC 95%) Đúng n (%) Không đúng n (%)

Nhóm tuổi

<60 228(77,1) 68(22,9)

0,329 0,9(0,77-1,10)

≥60 39(70,9) 16(29,1)

Giới tính

Nam 117 (73,6) 42 (26,4)

0,321 1,1(0,94-1,19)

Nữ 150 (78,1) 42 (26,4)

Trình độ học vấn

Tiểu học 46 (68,7) 21 (31,3)

0,086

1

Trung học cơ sở 58 (71,6) 23 (28,4) 1,1(0,84-1,29)

≥Trung học phổ thông 163 (80,3) 40 (19,7) 1,2(0,58-0,81)

Nghề nghiệp

Công nhân 91(78,5) 25(21,5)

0,409

1

Nhân viên văn phòng 97(74,6) 33(25,4) 0,9(0,83-1,09)

Nội trợ 58(79,5) 15(20,5) 1,0(0,87-1,18)

Nghỉ hưu/mất khả năng lao động 21(65,6) 11(34,4) 0,8(0,64-1,09)

Kiến thức

Đúng 229 (82,4) 49 (17,6)

<0,001 1,6 (1,26-1,98)

Chưa đúng 38 (52,1) 35 (47,9)

Thái độ

Tích cực 207 (83,5) 41 (16,5)

<0,001 1,4 (1,21-1,70)

Chưa tích cực 60 (58,3) 43 (41,7)

*Kiểm định Chi bình phương

Bảng 4: Mô hình đa biến các yếu tố liên quan đến thực hành phòng ngừa COVID-19 (n=351)

Đặc điểm Thực hành

p** PR

(KTC 95%) Đúng n (%) Không đúng n (%)

Trình độ học vấn

Tiểu học 46 (68,7) 21 (31,3) 1

Trung học cơ sở 58 (71,6) 23 (28,4) 0,510 1,1(0,8-1,3)

≥Trung học phổ thông 163 (80,3) 40 (19,7) 0,426 1,1(0,9-1,2)

Kiến thức

Đúng 229 (82,4) 49 (17,6) 0,002 1,5(1,2-1,8)

Chưa đúng 38 (52,1) 35 (47,9)

Thái độ

Tích cực 207 (83,5) 41 (16,5) 0,001 1,3(1,1-1,6)

Chưa tích cực 60 (58,3) 43 (41,7)

**Hồi quy Poisson

Phân tích đa biến cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức chung đúng

và thái độ tích cực với thực hành phòng ngừa COVID-19. Cụ thể những người bệnh có kiến

(6)

thức chung đúng có thực hành đúng gấp 1,5 lần so với những người bệnh có kiến thức chưa đúng (PR 1,5 KTC 95%: 1,2-1,8, p <0,05). Người bệnh có thái độ tích cực thì có thực hành đúng gấp 1,3 lần người bệnh có thái độ chưa tích cực (PR 1,3 KTC 95%: 1,1-1,6, p <0,05) (Bảng 4).

BÀN LUẬN

Nghiên cứu đã đánh giá kiến thức thái độ thực hành phòng ngừa COVID-19 trên người bệnh đến khám tại bệnh viện Quận 2 trong giai đoạn đầu của đại dịch COVID-19 trước khi thực hiện giãn cách xã hội theo chỉ thị 16 của Thủ tướng chính phủ. Đến thời điểm hiện tại, COVID-19 vẫn đang là mối đe dọa sức khỏe toàn thế giới do đó việc phòng ngừa bằng cách nâng cao kiến thức thái độ và thực hành phòng ngừa về COVID-19 là cần thiết. Nghiên cứu ghi nhận đa số đối tượng nghiên cứu dưới 60 tuổi (84,3%), giới nữ (54,7%), trình độ học vấn trên trung học phổ thông (57,8%). Hầu hết đối tượng nghiên cứu đều biết thông tin về đại dịch COVID-19 đang xảy ra trên toàn cầu (91,7%). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Melesie G trên bệnh nhân ghi nhận tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 44,6 ± 9,84, trong đó giới nữ chiếm 44,4%(15). Nguồn thông tin về COVID-19 được ghi nhận đa số từ tivi, mạng xã hội chiếm 60,5%, trong khi đó chỉ có 34,9% người bệnh biết thông tin từ trang web bệnh viện, Bộ y tế. Kết quả này cũng được tìm thấy trong nghiên cứu trước đây của chúng tôi và nghiên cứu của Khan

MU(10,16). Nghiên cứu gần đây của Trần Xuân

Bách cũng ghi nhận nguồn thông tin chính mà đối tượng nghiên cứu cập nhật kiến thức liên quan đến phòng chống dịch bệnh là internet và mạng xã hội (52,4%), chương trình đào tạo (51%) và người thân (50,4%). Ít phổ biến nhất là hướng dẫn tại khu phố (46,9%), đào tạo tại nơi làm việc (46,6%) và ghi nhận không có sự khác biệt giữa khả năng tiếp cận nguồn thông tin giữa nông thôn và thành thị(17). Kết quả cho thấy cần đẩy mạnh truyền thông qua trang web bệnh viện, Bộ Y tế là những kênh thông tin chính thống để cập nhật những tin tức mới nhất về phòng ngừa

COVID-19. Nghiên cứu cho thấy chỉ 79,2%

người bệnh có kiến thức đúng về COVID-19 trong đó chỉ 40,2% biết được kháng sinh không phải là thuốc điều trị đặc hiệu cũng như chỉ 49,3% biết được người mắc COVID-19 cần cách ly tối thiểu 2 tuần. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Ferdous MZ khi ghi nhận chỉ 48,3% đối tượng nghiên cứu có kiến thức đúng trong đó 91,3% đối tượng nghiên cứu biết thời gian ủ bệnh 2-14 ngày và điều trị COVID-19 là điều trị hỗ trợ (80,7%), trong khi đó vẫn tồn tại tỷ lệ 18,3% đối tượng nghiên cứu không biết về điều trị COVID-19(18). Kết quả này có thể là do nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trong giai đoạn đầu của COVID-19 tại Thành phố Hồ Chí Minh nên số ca nhiễm trong cộng đồng chưa cao do đó người bệnh có thể chưa quan tâm nhiều đến việc điều trị và thời gian cách ly. Nghiên cứu ghi nhận chỉ 59,3% và 57,6% người bệnh biết triệu chứng thường gặp của bệnh và cách phòng ngừa trong khi khuyến cáo của CDC nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin về vi rút, đường lây truyền và biện pháp phòng ngừa góp phần kiểm soát đại dịch. Gần đây, Bộ Y tế cũng đưa khuyến cáo “5K”: khẩu trang-khử khuẩn-khoảng cách-không tập trung-Khai báo y tế” để phòng chống COVID-19(19). Trong bối cảnh chưa có vắc xin phòng ngừa thì việc đeo khẩu trang, vệ sinh tay là biện pháp hiệu quả để chung sống an toàn với COVID-19. Ngoài ra, chỉ 60,9% người bệnh có kiến thức về người bệnh mắc bệnh mãn tính có nguy cơ cao mắc COVID- 19. Kết quả này cho thấy cần tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao kiến thức của người bệnh cũng như phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà cho nhóm người bệnh cao tuổi để góp phần hạn chế sự lây lan của COVID-19.

Nhìn chung, đa số người bệnh có thái độ tích cực về COVID-19, tuy nhiên có 65,2% - 67,8%

người tham gia cho rằng bản thân và thành viên trong gia đình có khả năng mắc bệnh. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu trước đây của chúng tôi và có thể lý giải do sự thiếu kiến thức

(7)

về đường lây truyền bệnh điều này có thể dẫn đến việc thiếu tuân thủ thực hành phòng ngừa COVID-19 và trở thành nguồn lây nhiễm cho cộng đồng(10). Nghiên cứu cho thấy 76,1% người bệnh có thực hành tốt. Tuy nhiên chỉ 36,8%

người bệnh đến khám được quan sát có thời gian rửa tay ≥20 giây. WHO và CDC khuyến cáo thời gian rửa tay cần đảm bảo tối thiểu 20 giây để loại bỏ vi sinh vật trên bàn tay trong khi nghiên cứu của Ryan MA đã nhấn mạnh tầm quan trọng của vệ sinh tay thường xuyên giúp làm giảm 45% người bệnh ngoại trú nhập viện vì bệnh đường hô hấp(20). Nghiên cứu gần đây của Hà Văn Như cho thấy 75,8% đối tượng nghiên cứu tuân thủ thực hành phòng ngừa COVID-19 trong đó 58,8% ghi nhận rào cản là khó thay đổi thói quen hàng ngày (55,1%)(9). Nghiên cứu ghi nhận kiến thức và thái độ có mối liên quan đến thực hành phòng ngừa COVID-19. Kết quả này cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Al- Hanawi MK khi ghi nhận kiến thức, thái độ có liên quan đến thực hành và đối tượng nghiên cứu lớn tuổi có kiến thức và thực hành tốt hơn(21). Nhìn chung tỷ lệ người bệnh có KAP đúng trong phòng ngừa COVID-19 còn thấp, theo tác giả Bloom BS thì kiến thức, thái độ thực hành tốt cần đạt tỷ lệ từ 80%(14). Tuy nhiên, nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Quận 2 với kĩ thuật chọn mẫu thuận tiện nên kết quả có thể chưa đại diện cho toàn bộ người bệnh tại TP.

Hồ Chí Minh.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có kiến thức, thái độ và thực hành đúng trong phòng ngừa COVID-19 lần lượt là 79,2%, 70,7% và 76,1%, trong đó thời gian rửa tay ≥20 giây chỉ đạt 36,8%. Chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe cần tiếp tục thực hiện thông qua tivi và mạng xã hội để nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống COVID-19, đảm bảo duy trì liên tục trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo thời gian rửa tay tối thiểu 20 giây.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. WHO (2020). Coronavirus disease 2019 (COVID-19) 2020. URL:

www.who.int/emergencies/diseases/novel-coronavirus-2019.

2. WHO (2020). Timeline: WHO's COVID-19 response 2020. URL:

https://www.who.int/emergencies/diseases/novel-coronavirus- 2019/interactive-

timeline?gclid=Cj0KCQiAwMP9BRCzARIsAPWTJ_FdWwxkW rOjBesVEeebC2tZ9CIaCL3p-

KYc0hEnfJb3EYO14hDzGlMaAoXQEALw_wcB#event-115.

3. Bộ Y Tế (2020). Trang tin về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19. URL: https://ncov.moh.gov.vn/.

4. Quach HL, Hoang NA (2020). COVID-19 in Vietnam: A lesson of pre-preparation. J Clin Virol, 127:104379.

5. Koh J, Shah SU, Chua PEY, et al (2020). Epidemiological and Clinical Characteristics of Cases During the Early Phase of COVID-19 Pandemic: A Systematic Review and Meta-Analysis.

Front Med, 7:295.

6. WHO. (2020). WHO Director-General’s opening remarks at the

mission briefing on COVID-19. URL:

https://www.who.int/dg/speeches/detail/who-director-general- s-opening-remarks-at-the-mission-briefing-on-covid-19.

7. Bener A, Al-Khal A (2004). Knowledge, attitude and practice towards SARS. JR Soc Promot Health, 124(4):167-179.

8. Albarrak AI, Mohammed R, Al Elayan A, et al (2019). Middle east respiratory syndrome (MERS): comparing the knowledge, attitude and practices of different health care workers. J Infect Public Health, 19:30239-30244.

9. Van Nhu H, Tuyet-Hanh TT, Van NTA, Linh TNQ, Tien TQ (2020). Knowledge, Attitudes, and Practices of the Vietnamese as Key Factors in Controlling COVID-19. J Community Health, 45(6):1263-1269.

10. Huynh G, Nguyen TNH, Vo VT, Vo TKN, Tran VK, et al (2020).

Knowledge and attitude toward COVID-19 among healthcare workers at District 2 Hospital, Ho Chi Minh City. Asian Pac J Trop Med, 13:260.

11. Huynh G, Nguyen MQ, Nguyen TNH et al (2020). Knowledge, Attitude, and Practices Regarding COVID-19 Among Chronic Illness Patients at Outpatient Departments in Ho Chi Minh City, Vietnam. Risk Management and Healthcare Policy, 13:1571–1578 12. Huynh G, Nguyen MQ, Nguyen TNH, et al (2020). Factors

Relating to Preventive Practices of Health Science Students during the Early Stage of the COVID-19 Pandemic.

Medpharmres, 4:27-32.

13. WHO (2020) The push for a COVID-19 vaccine 2020. URL:

https://www.who.int/emergencies/diseases/novel-coronavirus- 2019/covid-19-vaccines.

14. Bloom BS (1956) Taxonomy education, In: Ralph WT Taxonomy of Educational Objectives, V1, pp.25-86. David McKay Company, New York.

15. Melesie G, Bose L, Beressa TB, Tefera GM, Mosisa B, et al (2020).

COVID-19 Knowledge, Attitudes, and Prevention Practices Among People with Hypertension and Diabetes Mellitus Attending Public Health Facilities in Ambo, Ethiopia. Infect Drug Resist.13:4203-4214.

16. Khan MU, Shah S, Ahmad A, et al (2014). Knowledge and attitude of healthcare workers about Middle East Respiratory Syndrome in mul-tispecialty hospitals of Qassim, Saudi Arabia.

BMC Public Health, 14:1281.

17. Xuan Tran B, Thi Nguyen H, Quang Pham H, Thi Le H, Thu Vu G, Latkin CA, et al (2020). Capacity of local authority and

(8)

community on epidemic response in Vietnam: Implication for COVID-19 preparedness. Saf Sci, 130:104867.

18. Ferdous MZ, Islam MS, Sikder MT, Mosaddek ASM, Zegarra- Valdivia JA, et al (2020). Knowledge, attitude, and practice regarding COVID-19 outbreak in Bangladesh: An online-based cross-sectional study. PLoS One, 15(10):e0239254.

19. Bộ Y tế. (2020). Bộ Y tế khuyến cáo "5K" chung sống an toàn với dịch bệnh. URL: https://ncov.moh.gov.vn/vi/web/guest/-/bo-y- te-khuyen-cao-5k-chung-song-an-toan-voi-dich-benh.

20. Ryan MA, Christian RS, Wohlrabe J (2001). Handwashing and respiratory illness among young adults in military training. Am J Prev Med, 21(2):79-83.

21. Al-Hanawi MK, Angawi K, Alshareef N, Qattan AMN, Helmy HZ, et al (2020) Knowledge, Attitude and Practice Toward COVID-19 Among the Public in the Kingdom of Saudi Arabia:

A Cross-Sectional Study. Front Public Health, 8:217.

Ngày nhận bài báo: 16/11/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

Referensi

Dokumen terkait

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá sự hài lòng của người bệnh và người nhà người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định” với mục tiêu: Mô tả hài

Hồ Chí Minh 1 Tóm tắt khóa luận tốt nghiệp NGHIÊN CỨU MỘT SỐ VIRUS TMV, CMV GÂY BỆNH TRÊN CÂY ỚT TẠI HUYỆN CỦ CHI, TP.. Thu mẫu theo triệu chứng bệnh virus, 5-15

Để tạo những tiền đề cho các nghiên cứu về loại bệnh này, chúng tôi sử dụng phương pháp RFLP – PCR để phân tích tính đa dạng di truyền của quần thể nấm C.. cassiicola tại Lai Khê, Bến

TỶ LỆ CÁC LOẠI BỆNH TIM MẠCH ĐỒNG MẮC Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH BẮC NINH Trần Thị Yến1*, Nguyễn Minh Hiệp1, Trịnh Xuân

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm và chiến lược ứng phó với stress của sinh viên ngành Y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Đã có nghiên cứu về vấn đề này, nhưng ít có đề tài tiến hành ở khu vực miền núi và câu hỏi của chúng tôi đặt ra rằng liệu thực trạng KAP về phòng chống sốt xuất huyết ở người dân tại

Trong một nghiên cứu chúng tôi tiến hành song song với nghiên cứu này, khảo sát tỷ lệ bệnh nhân tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định được tư vấn ngắn cai nghiện thuốc lá 5A, chúng tôi nhận

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ra sai sót trong việc thực hiện quy chế hồ sơ bệnh án với người bệnh có Bảo hiểm Y tế.8 Cho đến nay tại bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An chưa có nghiên cứu