• Tidak ada hasil yang ditemukan

Điều kiện sống và thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở

N/A
N/A
Nguyễn Gia Hào

Academic year: 2023

Membagikan "Điều kiện sống và thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

1

Điều kiện sống và thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở hai bản người dân tộc mông tại huyện Đồng Hỷ và huyện Võ Nhai

tỉnh Thái Nguyên, năm 2011

Lê Minh Chính1, Nguyễn Thị Bình2, Nguyễn Thị Hồng3, Tạ Quốc Bản4

ChChọọnn ttooàànn bbộộ phụ nữ có thai ((PPNNCCTT)) vvàà phụ nữ tuổi sinh đẻ 15-49, nghiên cứu mô tả cắt ngang, vào tháng 6/ 2011, nhằm: mô tả những bất cập trong đời sống kinh tế, xã hội và thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở 2 bản dân tộc Mông, ở huyện Đồng Hỷ và Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, nơi khó khăn nhất về kinh tế và công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) và làm mẹ an toàn (LMAT). Kết quả: 100% là hộ nghèo và cận nghèo. Thói quen không dùng hố xí chiếm 46,4%. Tỷ lệ mù chữ của phụ nữ 15-49 là 27,1%, TH 47,1% và THCS 24,7%. Tỷ lệ khám thai đủ số lần là 20,4%, PNCT uống sắt nhiều hơn 150 viên chỉ có 17,1% và tiêm phòng UV đủ mũi 48,1%. Tỷ lệ dưới 25,0% hiểu biết đúng về CSSKSS và LMAT. Sử dụng dịch vụ CSSKSS và kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) chiếm 20 - 30%.

Từ khóa: điều kiện sống; sức khỏe sinh sản; người Mông; Lân Vai; Khe Cạn; Thái Nguyên

Living condition and the status of reproductive health in two ethnic Mong villages in Dong Hy and Vo Nhai district, Thai Nguyen

province in 2011

Le Minh Chinh1, Nguyen Thi Binh2, Nguyen Thi Hong3, Ta Quoc Ban4

Living conditions and the status of reproductive health in two ethnic Mong villages in Dong Hy and Vo Nhai district, Thai Nguyen province - 2011. Select all pregnancy women (PW) and women of childbearing age 15-49, cross-sectional descriptive study, in May/2011, to describe the gaps in economic life, society and the status of reproductive health in two villages of ethnic Mongolia, in Dong Hy & Vo Nhai districts, Thai Nguyen Pro, where the most difficult on economic, safe motherhood and reproductive health work. Results: 100% households are poor and near poor.

People do not have the habit of using toilet the rate of 46.4%. Illiteracy rate of women 15-49 is 27.1%, 47.1% Primary and secondary 24.7%. Prenatal care enough times the rate of 20.4%, PW take iron only 17.1% fully, vaccinated against tetanus 48.1% full nose. Knowledge of RHC and Safe Motherhood rate of 25.0% from the correct understanding. Use of family planning & RHC services accounted for 20- 30%.

Keywords: Living condition; status of reproductive health; ethnic; Thai Nguyen province; 2011 Tác giả:

1Ts. Lê Minh Chính, Giảng viên chính Bộ Môn Phụ Sản, Trưởng khoa Phụ sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên. Địa chỉ: SN 284 Đường Lương Ngọc Quyến Thành phố Thái Nguyên. ĐTDĐ: 0912257863. Email: minhchinhyk@yahoo.com.vn.

2Ths. Nguyễn Thị Bình, Giảng viên Bộ môn Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên

3Ths. Nguyễn Thị Hồng, Giảng viên Bộ môn Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên

4BS. Tạ Quốc Bản, Giảng viên Bộ môn Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên

(2)

2 1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Bản Lân Vai thuộc xóm Đồng Chuối, xã Dân Tiến huyện Võ Nhai và bản Khe Cạn, xã Văn Lăng huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên là hai bản của bà con dân tộc Mông ở Hà Quảng và Trà Lĩnh Cao Bằng chuyển đến từ 1980 - 1988. Các hộ gia đình tại hai bản đều ở trên các sườn núi đất và núi đá dốc, bốn bề là núi cao, ở giữa là thung lũng nhỏ hẹp, bị ngăn cách bởi núi cao, đèo dốc, đường độc đạo qua lại rất khó khăn. Hai bản cách trung tâm xã 5km và xa huyện lỵ gần 40 km.

Điều kiện kinh tế, xã hội đều khó khăn vào bậc nhất của 2 huyện. Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS), thực hiện làm mẹ an toàn (LMAT) ở nơi đây còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu nhằm mục tiêu: Mô tả những bất cập trong đời sống kinh tế, xã hội và thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở 2 bản dân tộc Mông.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Đối tượng, phương pháp và cỡ mẫu: CChhọọnn ttooàànn bbộộ phụ nữ có thai ((PPNNCCTT)) vvàà phụ nữ tuổi sinh đẻ 15-49 người dân tộc Mông ở 2 bản Lân Vai và Khe Cạn. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, vào tháng 6/ 2011. Phỏng vấn các đối tượng theo bộ câu hỏi. Kết hợp khảo sát nhà ở, chăn nuôi và các công trình nguồn nước, nhà tắm, hố xí.

- Chỉ số nghiên cứu: Tỷ lệ các loại nhà ở, chăn nuôi và vật nuôi, 3 công trình. Chỉ số tiếp cận các dịch vụ CSSKSS, LMAT. Xử lý số liệu trên phần mềm Epi Info 6.04V.

- Các chỉ tiêu đánh giá: Hố xí hợp vệ sinh là tự hoại hoặc hai ngăn, đảm bảo diệt mầm bệnh, không phát sinh ruồi nhặng, không làm bẩn đất xung quanh và tránh được thấm rỉ, không gây mùi hôi thối. Nước hợp vệ sinh: Trong, không mùi, xa chuồng gia súc, xa nhà vệ sinh > 20m [4]. Lấy chuẩn hộ nghèo theo quy định hiện hành.

3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

3.1. Thực trạng về đời sống kinh tế

Bảng 1. Thực trạng nhà ở của nhân dân ở mỗi bản và tỷ lệ chung

Bản Nhà kiên cố Nhà bán kiên cố Nhà tạm

n % n % n %

Lân Vai (n = 53) 6 11,3 29 54,7 18 34,0

Khe Cạn (n = 31) 9 29,0 14 45,2 8 25,8

Cả 2 bản (n = 84) 15 17,9 43 51,2 26 30,9

Nhận xét: Tỷ lệ gia đình có nhà kiên cố còn thấp (11,3 và 29,0%), chủ yếu là nhà bán kiên cố (54,7 và 45,2%), tỷ lệ ở nhà tạm còn cao, chung cho cả 2 xã chiếm 30,9%.

Nhìn chung các gia đình đều có nền nhà ở cao ráo, thoáng mát do địa hình đồi núi tạo nên, nhưng chưa vệ sinh, gọn sạch. Vệ sinh ngoại cảnh, như rãnh nước rất bẩn, ứ đọng. Rác thải không được thu gom xử lý, phân gia súc lan tràn bừa bãi. Thực trạng này cũng tương đương như kết quả nghiên cứu ở người dân tộc Mường vùng cao Tây Bắc của tác giả Đàm Khải Hoàn (1999) [2].

Bảng 2. Tỷ lệ hộ gia đình có chăn nuôi của mỗi bản và các loại vật nuôi

Bản Có nuôi trâu/ bò Có nuôi lợn Có nuôi gia cầm

n % n % n %

Lân Vai (n = 53) 17 32,0 7 13,2 28 52,8

Khe Cạn (n = 31) 18 58,1 11 35,5 23 74,2

Cả 2 bản (n = 84) 34 40,5 18 21,4 42 50,0

(3)

3

Nhận xét: Tỷ lệ gia đình duy trì chăn nuôi thấp, có nuôi trâu/ bò 32,0 và 58,1%, có nuôi lợn là 13,0 và 35,5%, có nuôi gà, vịt… là 52,8 và 74,2% (chủ yếu là vài con gà).

Về chăn nuôi, có gia đình còn duy trì nuôi trâu để có sức cày kéo và là nguồn thu nhập.

Nhưng vài năm nay các hộ đã giảm hẳn chăn nuôi. Một mặt sợ dịch, nhưng mặt khác vì giống nuôi đắt và thức ăn chăn nuôi cũng đắt. Bà con không tự sản xuất được con giống và thức ăn chăn nuôi. Mặc dù quanh nhà có vườn rộng, nhưng không biết và không thích trồng rau để chăn nuôi.

Ngay cả rau xanh cây quả như rau muống, rau ngót, đu đủ, chanh, na… cũng ít có.

Bà con vẫn còn thói quen phụ thuộc vào thiên nhiên, trông chờ vào rừng để khai thác nguồn lợi tự nhiên. Trong khi hiện nay đa số rừng đã lùi xa, ruộng thì có ít, nương rẫy thì bị sói mòn vì ở đồi núi dốc, khô hạn liên tục… Khi quan sát bữa ăn của nhiều gia đình ngoài cơm hoặc ngô bột đồ (mèn mén), có nhà không có canh rau gì. Với PNCT hầu hết chỉ có 1, 2 bữa ăn có thịt cá mỗi tháng. PNCT và trẻ nhỏ rất ít có điều kiện ăn hoa quả, đường sữa, bánh kẹo. Ăn thêm bữa, ăn vặt, ăn bổ dưỡng ở PNCT là khó thực hiện, vì mỗi ngày chỉ nấu ăn 2 bữa, sáng không nấu ăn, chỉ ăn cơm nguội của ngày trước. Tại bản Lân Vai, 100% là hộ nghèo (thu nhập dưới 400.000đ/tháng/người), bản Khe Cạn cũng 100% là hộ nghèo và cận nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo có xu hướng tăng, nghèo ở ngay cả hộ gia đình cán bộ sở tại. Bà con suy nghĩ hưởng chế độ hộ nghèo là quyền lợi và nhiều người còn mong muốn là hộ nghèo.

Bảng 3. Thực trạng nguồn nước của nhân dân ở mỗi bản và tỷ lệ chung cả 2 bản Bản

Dùng nước hợp vệ sinh

Nước không hợp vệ sinh

Thiếu nước thường xuyên

n % n % n %

Lân Vai n = 53 4 7,5 29 54,8 20 37,7

Khe Cạn n =31 14 45,2 8 25,8 9 29,0

Cả 2 bản (n = 84) 18 21,4 37 44,1 29 34,5

Nhận xét: Tỷ lệ gia đình có nước sạch ở bản Lân Vai rất thấp, chỉ 7,5%, còn lại 54,8%

không hợp vệ sinh và 37,7% thường xuyên thiếu nước. Bản Khe Cạn, tỷ lệ có nước sách cao hơn 45,2%, nước không hợp vệ sinh và thiếu nước là 25,8 và 29,0%.

Bản Lân Vai chỉ có nguồn nước mỏ (nước mạch nhỏ lẻ, chảy ra từ khe đá, hẻm núi), không đủ lượng để xây dựng bể chứa và lọc. Việc dẫn nước về từng hộ còn mất vệ sinh, nguồn nước mỏ không thường xuyên có nước, mùa khô có rất ít và thường đứt mạch. Bản Khe Cạn có nguồn nước khá ổn định, có công trình được nhà nước đầu tư xây dựng, bể chứa và lọc trên thượng nguồn, hệ thống ống dẫn hợp lý, có nguồn nước duy trì 4 mùa. Tuy nhiên, tại một số hộ chưa có bể chứa hợp lý, không có nắp che đậy, không lau rửa bể, chum vại, bởi vậy vẫn có tình trạng nước bẩn.

Bảng 4. Thực trạng hố xí của nhân dân ở mỗi bản và tỷ lệ chung cả 2 bản

Bản Có hố xí hợp vệ sinh Hố xí

không hợp vệ sinh Không có hố xí

n % n % n %

Lân Vai (n = 53) 0 0 24 45,3 29 54,7

Khe Cạn (n = 31) 0 0 21 67,7 10 32,3

Cả 2 bản (n = 84) 0 0 45 53,6 39 46,4

Nhận xét: Cả 2 bản không có hố xí hợp vệ sinh, chủ yếu là không hợp vệ sinh và tỷ lệ không có hố xí còn cao, như bản Lân Vai 54,7%.

(4)

4

Gia đình có hố xí đều trong tình trạng mất vệ sinh, phổ biến là không có cửa, không nắp che đậy và rò rỉ. Những hộ không có hố xí đều đi tùy tiện quanh nhà trên núi. Nhà có hố xí, nhưng vẫn có người trong gia đình không sử dụng, vì có thói quen thích đi tùy tiện ngoài bụi cây. Có gia đình hố xí được xây do quỹ hỗ trợ, nhưng lối mòn ra hố xí đã bị cỏ mọc kín vì không có người qua lại.

Khi trao đổi, bà con đều cho việc đó là bình thường vì có thói quen không dùng hố xí.

Bảng 5. Thực trạng nhà tắm của nhân dân ở mỗi bản và tỷ lệ chung cả 2 bản Bản

Có nhà tắm hợp vệ sinh

Nhà tắm

không hợp vệ sinh Không có nhà tắm

n % n % n %

Lân Vai n = 53 0 0 33 62,3 20 37,7

Khe Cạn n = 31 0 0 21 67,7 10 32,3

Cả 2 bản (n = 84) 0 0 54 64,3 30 35,7

Nhận xét: Gia đình có nhà tắm, đều tạm bợ, xây chật hẹp, không có hệ thống vòi nước tắm và đường dẫn nước thải, gây mất vệ sinh.

Thực trạng vệ sinh môi trường, vệ sinh nhà ở, nguồn nước, nhà tắm và hố xí của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Mông nói riêng đã có một số nghiên cứu và đánh giá, nhiều chục năm nay có sự thay đổi nhưng chậm và thói quen không sử dụng hố xí vẫn là nổi bật, chưa giải quyết được cơ bản [1, 2, 5].

3.2. Trình độ học vấn và tình hình CSSKSS

Bảng 6. Trình độ văn hóa của phụ nữ nhóm tuổi 15 - 49 của 2 bản (đã nghỉ học) Chỉ số trình độ văn hóa Lân Vai Khe Cạn Cả 2 bản

n = 49 % n = 36 % n = 85 %

Không biết chữ 14 28,6 9 25,0 23 27,1

Tiểu học (TH) 25 51,0 15 41,7 40 47,1

Trung học cơ sở (THCS) 10 20,4 11 30,6 21 24,7

Trung học phổ thông (THPT) 0 0 1 2,7 1 1,1

Cộng 49 100 36 100 85 100

Nhận xét: Tỷ lệ mù chữ chung ở phụ nữ 15-49 của 2 bản là 27,1%. Chủ yếu là tiểu học (47,1%), chỉ có 24,7% có trình độ THCS, trình độ THPT là hiếm.

Trình độ học vấn thấp, tập trung ở cấp tiểu học và THCS (71,8%) là một thực tế ở 2 bản người dân tộc Mông nơi đây. Tìm hiều về việc học tập của trẻ em, cho thấy chỉ được diễn ra ở trên lớp. Đó là một thói quen, về nhà không ai nhắc nhở học ôn bài, bố mẹ không nhắc, ông bà chưa già, nhưng thuộc lớp người không biết chữ. Trong nhà cũng không có góc học tập, không có bàn học, không có đèn dành riêng cho các em học. Khảo sát 100% gia đình đều không có bàn ghế cho con ngồi học, mặc dù các nhà đều đủ rộng để có một chỗ làm góc học tập. Thất học và trình độ học vấn thấp là yếu tố bắt nguồn của các vấn đề bất cập ở người dân tộc thiểu số vùng cao, như tảo hôn, đời sống kinh tế thấp kém, văn hóa lạc hậu, thực hiện CSSKSS khó khăn…

Lân Vai chưa có nhân viên y tế thôn bản (NVYTTB), đó là một yếu tố làm hạn chế tới công tác CSSKSS cho phụ nữ nơi đây. Tại 2 bản, chính quyền bản cũng không có phương tiện gì phục vụ cho truyền thông, như tiếp sóng đài truyền thanh hoặc loa phóng thanh có hệ thông tăng âm…

Việc PNCT và phụ nữ tuổi sinh đẻ được hướng dẫn khám thai hay thực hiện kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) là rất hạn chế, kết quả cũng thấp.

(5)

5

Bảng 7. Thực trạng khám thai ở PNCT và phụ nữ tuổi 18-49 ở lần có thai gần nhất

Các chỉ số Lân Vai Khe Cạn Cả 2 bản

n = 31 % n = 23 % n = 54 %

Khám 1 lần/3 quý 8 25,8 5 21,7 13 24,1

Khám 2 lần/3 quý 19 61,3 12 52,2 31 57,4

Khám ≥3 lần/3 q 4 12,9 5 21,7 9 16,7

Khám thai định kỳ đúng đủ 2 6,5 9 39,1 11 20,4

Khám vì có bệnh 29 93,5 16 69,6 45 96,3

Khám Quý I 5 16,1 4 17,4 9 16,7

Khám Quý II 9 29,0 8 34,8 17 31,5

Khám Quý III 17 54,8 11 47,8 28 51,9

Nhận xét: Thực hiện khám thai định kỳ chưa được tốt, các tỷ lệ về chăm sóc thai đều chỉ mức thấp, dưới 50%.

Phỏng vấn chị em, đều nói là “không thấy làm sao, nên không thích đi khám”. Trong khi điều tra phỏng vấn, nhìn xét thực tế thấy PNCT đều có vóc dáng gầy yếu, mệt mỏi, không có hiểu biết đúng về thai nghén, dinh dưỡng và cần được thăm khám và tư vấn cũng như nhiều vấn đề khác như uống viên sắt, tiêm phòng uốn ván (UV)…

Bảng 8. Thực trạng uống sắt, tiêm phòng ở PNCT và phụ nữ ở lần có thai gần nhất

Các chỉ số Lân Vai Khe Cạn Cả 2 bản

n = 31 % n = 23 % n = 54 %

Không uống sắt 9 28,2 4 19,2 13 24,1

Có uống sắt (n = [22, 19, 41]) 22 71,8 19 80,8 41 75,9

- Uống sắt < 50 viên 10 45,5 8 34,8 18 43,9

- Uống sắt 50- 100 v 8 36,4 8 34,8 16 39,0

- Uống sắt >100 viên 4 18,1 3 30,4 7 17,1

Tiêm phòng UV 28 89,7 21 91,3 49 90,7

Tiêm đủ UV 11 35,9 15 65,2 26 48,1

Nhận xét: Tỷ lệ PNCT uống viên sắt đủ và tiêm phòng UV đủ mũi còn rất thấp.

Thói quen ở PNCT không uống viên sắt và uống không thường xuyên, bỏ dở…, (uống đủ phải từ trên 150-180 viên sắt). PNCT được cán bộ y tế cho biết cần phải uống viên sắt, đồng ý uống và mua thuốc, nhưng chỉ uống vài viên sau đó không uống nữa. Vì không hiểu biết tầm quan trọng phải uống viên sắt, hoặc vì có những hiểu biết sai lệch về uống viên sắt. Qua điều tra thấy việc bỏ không uống sắt của PNCT không do viên thuốc sắt gây nên, mà do chủ quan, thói quen bất cần, không hiểu tầm quan trọng hoặc do không tiếp thu lời khuyên của cán bộ y tế. Cũng tương tự như vậy với tiêm phòng UV, đồng ý với việc tiêm phòng, nhưng không quan tâm, bỏ quên.

Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hải Nguyên (2007) với dân tộc Cơ Ho tỉnh Bình Thuận và với một số dân tộc khác cũng có kết quả thấp kém như vậy [1- 3].

(6)

6

Bảng 9. Thực trạng kiến thức của phụ nữ tuổi sinh đẻ về LMAT Các chỉ số kiến thức SKSS

Trả lời đúng

Lân Vai Khe Cạn Cả 2 bản

n = 49 % n = 36 % n = 85 %

Khám thai đầy đủ là mấy lần (1) 47 95,9 33 91,7 80 94,1 Tại sao phải đi khám thai (2) 29 59,2 22 61,1 51 60,0 Bệnh gì hay gặp khi có thai (3) 12 24,5 12 33,3 24 28,2 Uống sắt có tác dụng bổ gì (4) 9 18,4 7 19,5 16 18,8 Mẹ tăng mấy cân khi sắp đẻ (5) 13 26,5 10 27,8 23 27,1 Có thai phù phải ăn kiêng gì (6) 8 16,3 7 19,4 15 17,6

Có dọa sẩy sẽ bị thế nào (7) 9 18,4 8 22,2 17 20,0

Nếu thiếu máu thấy thế nào (8) 11 22,4 12 33,3 23 27,1 Ghi chú: (1)≥3 lần, (2)Bất thường mẹ và thai, (3)Dọa sẩy, thiếu máu, phù, (4)bổ máu, (5)12kg, (6)Kiêng muối, (7) đau bụng, ra huyết, (8)Mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt.

Nhận xét: Kiến thức của phụ nữ tuổi sinh đẻ về LMAT còn hạn chế, tỷ lệ trả lời đúng dao động từ dưới 25,0%.

Kiến thức về CSSKSS và LMAT của PNCT và các bà mẹ người Mông ở 2 bản còn thấp kém, hầu hết các câu hỏi đều không được trả lời đúng, ngay cả ở những phụ nữ đã có 2, 3 con hoặc phụ nữ ở những lần chửa đẻ trước đó đã từng bị phù, đau bụng ra huyết, hoa mắt chóng mặt… cũng không biết mình bị làm sao. Tác giả Hạc Văn Vinh nghiên cứu về kiến thức thái độ và thực hành trong CSSKSS và LMAT của PNCT và phụ nữ có con nhỏ dưới 5 tuổi người Mông, tại những bản có sự quan tâm TT-GDSK hợp lý ở huyện Võ Nhai, thì có kết quả khả quan hơn [5].

Bảng 10. Thực trạng sử dụng dịch vụ CSSKSS, KHHGĐ ở phụ nữ tuổi sinh đẻ

Các dịch vụ CSSKSS Lân Vai Khe Cạn Cả 2 bản

n = 49 % n = 36 % n = 85 %

Nghe TT-GDSK vệ sinh phụ nữ 34 69,4 25 69,4 59 69,4 Nghe TT-GDSK vệ sinh có thai 39 79,6 25 69,4 64 75,3

Nghe TT-GDSK bệnh tình dục 25 51,0 12 33,3 37 43,5

Nghe TT-GDSK tránh thai 25 51,0 20 55,6 45 52,9

Đã đi khám phụ khoa 14 28,6 8 22,2 22 25,9

Đã hoặc đang mang DCTC 6 12,2 9 25,0 15 17,6

Đã/đang dùng thuốc tránh thai 9 18,4 8 22,2 17 20,0 Đã hoặc đang sử dụng bao cao su 5 10,2 5 13,9 10 11,8

Nhận xét: Tỷ lệ phụ nữ sử dụng một số dịch vụ CSSKSS, KHHGĐ ở bản dân tộc Mông còn ở mức thấp.

Thực trạng về trình độ học vấn và kiến thức về CSSKSS, Làm mẹ an toàn cũng như sử dụng các dịch vụ KHHGĐ của bà mẹ người Mông còn thấp hơn so với nhiều dân tộc thiểu số khác trong khu vực Thái Nguyên [1, 5].

Qua điều tra cho thấy, số phụ nữ không biết và không được nghe về TT-GDSK và CSSKSS chủ yếu là chị em lớn tuổi (≥35) và phụ nữ trẻ mới xây dựng gia đình (15- 17). Đặc biệt số phụ nữ diện tảo hôn và phụ nữ đẻ con thứ 3, thứ 4 thì không muốn tiếp xúc với cán bộ điều tra hoặc không trả lời đầy đủ các câu hỏi khi phỏng vấn. Vấn đề ít quan tâm tới nạo hút thai và đẻ con thứ 3, 4 chị em lý giải là được hưởng thì đẻ và nuôi, khi có con trai rồi (2 trai) lại muốn có con gái và ngược lại. Quan niệm của người Mông về sinh con trai hay gái không nặng nề theo cách nghĩ vì

(7)

7

trọng nam khinh nữ, không vì mục đích đẻ con trai để “nối dõi tông đường, hay để có người chống gậy và thờ cúng khi về già”, như một số dân tộc khác với tư tưởng phong kiến Nho giáo.

4. KẾT LUẬN

- Đồng bào dân tộc Mông vùng cao tỉnh Thái nguyên còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống, điều kiện sinh sống thiếu thốn mọi mặt. Tại 2 bản nghiên cứu có tới gần 100% là hộ nghèo và cận nghèo. Các điều kiện về nhà ở, các công trình vệ sinh còn thiếu và kém vệ sinh. Thói quen không dùng hố xí chiếm 46,4% hộ gia đình. Phụ nữ tuổi sinh đẻ có tỷ lệ mù chữ 27,1%, tiểu học 47,1% và trung học cơ sở 24,7%.

- Thực hiện khám thai định kỳ đúng và đủ số lần chiếm tỷ lệ 20,4%. Tỷ lệ PNCT uống viên sắt đủ chỉ có 17,1% và tiêm phòng UV đủ mũi là 48,1%.. Kiến thức của phụ nữ về CSSKSS và LMAT với tỷ lệ từ dưới 25,0% có hiểu biết đúng. Tỷ lệ phụ nữ sử dụng các dịch vụ về CSSKSS và KHHGĐ ở mức 20 - 30%.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Minh Chính, Đàm Khải Hoàn (2008), Tình hình thiếu máu và kiến thức vệ sinh dinh dưỡng phòng chống thiếu máu ở phụ nữ Sán Dìu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, Tạp chí Y học thực hành, (4) tr.79-81.

2. Đàm Khải Hoàn, Cs., Thực trạng tình hình chăm sóc sức khoẻ cho người dân tộc thái và Mường ở các xã vùng cao của miền núi Tây Bắc Việt nam, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1999 – 2001, tập XI, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, Tr. 299.

3. Nguyễn Hải Nguyên (2007), Vấn đề chăm sóc thai phụ trước và sau khi sinh ở dân tộc Cơ Ho tỉnh Bình Thuận, Viện Dân tộc học, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 636-640.

4. Trường Đại học Y Hà nội - Bộ môn Vệ sinh môi trường dịch tễ (1997), Vệ sinh môi trường dịch tễ, tập I, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

5. Hạc Văn Vinh, Đào Văn Dũng (2010), “Thực trạng kiến thức thái độ và thực hành của phụ nữ tuổi 15-49 có con dưới 5 tuổi về chăm sóc sức khỏe sinh sản tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Y học thực hành, (9/732), tr.118-222.

Referensi

Dokumen terkait

Chính vì vậy vai trò của điều dưỡng trong công tác phòng ngừa té ngã được quy định cụ thể tại Điều 4 Thông tư số 07/2011/ TT-BYT hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh