MỐI LIÊN QUAN CÁC YẾU TỐ VỚI CHIỀU DÀI KÊNH CỔ TỬ CUNG Ở THAI PHỤ TỪ 16 - 24 TUẦN QUA SIÊU ÂM ĐƯỜNG ÂM ĐẠO
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG
Lê Anh Nam1, Phạm Thị Phương Thảo2 TÓM TẮT54
Mục tiêu: Mô tả một số yếu tố liên quan của thai phụ như tuổi, BMI tiền thai, tiền sử sản khoa, tuổi thai với chiều dài kênh cổ tử cung.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang ở 199 thai phụ có tuổi thai từ 16 tuần - 24 tuần đến khám thai tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng từ 01.01.2019 đến 30.04.2019.
Kết quả và kết luận: Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa số lần sinh con đủ tháng của thai phụ và tuần tuổi thai với chiều dài kênh cổ tử cung, chưa tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố tuổi thai phụ, BMI trước khi mang thai, tiền sử sảy thai với chiều dài kênh cổ tử cung.
Từ khóa: mối liên quan, chiều dài kênh cổ tử cung, tuổi thai 16 - 24 tuần, siêu âm đường âm đạo.
SUMMARY
RELATIONSHIP FACTORS TO THE LENGTH OF THE CERVICAL IN PREGNANCY FROM 16 TO 24 WEEK BY VAGINAL ULTRASOUND AT HAI
PHONG OBSTETRICS AND GYNECOLOGY HOSPITAL Objective: Describe some relevant factors of the pregnant woman such as age, pre-natal BMI,
1Trường Đại học Y Dược Hải Phòng
2Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng Chịu trách nhiệm: Lê Anh Nam Email: [email protected]
obstetric history, gestational age with cervical length.
Materials and study method: Cross- sectional descriptive study in 199 pregnant women from 16 weeks to 24 weeks gestation to the antenatal check-up at Hai Phong Obstetrics Hospital from 01.01.2019 to 30.04.2019
Result and conclusion: There was a statistically significant correlation between the number of term births of pregnant women and the gestational age week with the length of the cervical canal, no association was found between the factors of gestational age, pre-pregnancy BMI, a history of miscarriage with cervical length.
Keywords: cervical canal length, 16-24 weeks gestation, vaginal ultrasound.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cổ tử cung là cửa ngõ vào buồng tử cung, đóng vai trò quan trọng trong quá trình mang thai, giữ cho thai phát triển. Độ dài cổ tử cung là một trong những triệu chứng thực thể, phần nào phản ánh kết quả tác động của cơn co tử cung. Sự ngắn đi của cổ tử cung trước khi thai đủ trưởng thành là một dấu chứng quan trọng của dọa sảy thai hoặc chuyển dạ sinh non. Sinh non hiện vẫn là một thách thức của y học và là nguyên nhân chính của bệnh và tử vong chu sinh. Sinh non không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe từng cá thể mỗi gia đình, mà còn là gánh nặng cho
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu sử dụng chỉ số chiều dài kênh cổ tử cung nhằm đánh giá nguy cơ dẫn đến sảy thai to hay chuyển dạ sinh non, đa số những nghiên cứu này được thực hiện ở ba tháng giữa. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
"Mối liên quan các yếu tố với chiều dài kênh cổ tử cung ở thai phụ từ 16 - 24 tuần qua siêu âm đường âm đạo" ở Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng với mục tiêu sau: "Mô tả một số yếu tố liên quan của thai phụ như tuổi, BMI tiền thai, tiền sử sản khoa, tuổi thai với chiều dài kênh cổ tử cung".
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn: tất cả các thai phụ đơn thai, thai sống, tuổi thai từ 16 - 24 tuần đến khám tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Tiền sử phẫu thuật trên tử cung như mổ lấy thai, mổ bóc nhân xơ tử cung…
+ Tiền sử sảy thai tự nhiên ≥ 2 lần hay ít nhất 1 lần sinh non tự nhiên > 20 tuần.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: từ 01.01.2019 đến 30.04.2019 tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng.
Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu:
Trong đó:
- n: cỡ mẫu (số đối tượng cần nghiên cứu).
- Z: khoảng tin cậy: Z = 1,96.
- sd: độ lệch chuẩn, sd = 4,095 (theo Nguyễn Công Định năm 2009).
- d: độ chính xác tuyệt đối mong muốn được tính bằng ε. , trong đó:
: trung bình nghiên cứu = 40,256 mm (theo Nguyễn Công Định năm 2009).
ε: độ chính xác = 0,05.
Áp dụng công thức ta có thể tính được cỡ mẫu cho nghiên cứu:
Do n = 15,09, ước tính tỉ lệ mất mẫu là 10% nên ở mỗi tầng nghiên cứu chúng tôi làm tròn thành 18 đối tượng nghiên cứu.
Mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát độ dài cổ tử cung tương ứng với mỗi tuổi thai từ 16 - 24 tuần nên số tầng nghiên cứu là 9. Như vậy, nghiên cứu này cần phải có mẫu ít nhất là 162 đối tượng nghiên cứu. Trong thời gian từ 01/01/2019 đến 30/04/2019, tại khoa Chẩn đoán trước sinh có 204 trường hợp đến khám thai thỏa mãn tiêu chuẩn nghiên cứu nên chúng tôi lấy cả 204 trường hợp để nghiên cứu có độ tin cậy cao hơn. Trong đó có 5 trường hợp nghiên cứu thử không được đưa vào kết quả.
- Phương tiện nghiên cứu: máy siêu âm 4D và 5D tại khoa chẩn đoán trước sinh Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng
Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 0.1. Đặc điểm của nhóm đối tượng nghiên cứu
n = 199 Tỉ lệ (%)
Tuổi (năm)
< 20 2 1,0
≥ 20 197 99,0
≤ 30 123 61,8
≥ 31 76 38,2
BMI tiền thai
Nhẹ cân 40 20,1
Bình thường 136 68,3
Thừa cân 23 11,6
Số lần sinh
Chưa sinh 83 41,7
1 con 89 44,7
2 con 23 11,6
3 con 4 2,0
Số lần sảy
Không 138 69,3
1 lần 61 30,7
Nhận xét: Ở ngưỡng cắt 20 tuổi, 99% là thai phụ ≥ 20 tuổi. Ở ngưỡng cắt 30 tuổi, số thai phụ ≤ 30 tuổi chiếm tỉ lệ là 61,8%. Nhóm BMI bình thường gặp với tỉ lệ cao nhất là 68,3%.
Mối liên quan giữa giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung với đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 0.2. Bảng so sánh giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung giữa các nhóm tuổi, tiền sử sảy thai
Mẫu Trung bình (mm) p
Nhóm tuổi
< 20 2 34,50 (4,95)
0,727 > 0,05
≥ 20 197 34,90 (5,04)
≤ 30 123 35,86 (5,40)
0,075 < 0,05
≥ 31 76 34,30 (4,70)
Tiền sử sảy thai Không 138 34,88 (4,91)
0,560 > 0,05
1 lần 61 34,94 (5,31)
Nhận xét: Ở ngưỡng cắt 30 tuổi, qua phép kiểm T-Test cho thấy rằng sự khác biệt giữa 2 nhóm tuổi là có ý nghĩa thống kê với = 0,075 và p = 0,033. Bằng phép kiểm T-Test so sánh giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung giữa 2 nhóm có và không có tiền sử sảy thai
Bảng 0.3. Bảng so sánh giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung giữa các nhóm BMI tiền thai, sinh con đủ tháng
Mẫu Trung bình (mm) F p
BMI tiền thai
Nhẹ cân. 40 33,36 (4,70)
2,375 > 0,05
Bình thường. 136 35,23 (5,06)
Thừa cân. 23 35,57 (5,03)
Sinh con đủ tháng
Chưa sinh. 83 33,95 (4,92)
4,964 < 0,05
1 con. 89 35,03 (4,97)
≥ 2 con. 27 37,30 (4,73)
Nhận xét: So sánh chiều dài kênh cổ tử cung giữa các nhóm BMI, chiều dài kênh cổ tử cung chênh lệch không nhiều. Khi thực hiện phép kiểm ANOVA, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê: F = 2,375 với p = 0,096.
Bảng 0.4. Bảng so sánh giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung giữa các nhóm tiền sử sinh con đủ tháng
Số lần Mẫu Trung bình (mm) F p
Chưa sinh. 83 33,95 (4,92)
4,964 < 0,05
1 con. 89 35,03 (4,97)
≥ 2 con. 27 37,30 (4,73)
Tổng số. 199 34,90 (5,02)
Nhận xét: Phân tích ANOVA so sánh giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung giữa các nhóm có số lần sinh con khác nhau, chúng tôi thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê: F
= 4,964 với p = 0,008.
Bảng 0.5. Bảng so sánh giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung giữa các nhóm tiền sử sinh con đủ tháng
Số lần sinh con đủ tháng Trung bình (mm) p
Chưa sinh.
1 con.
33,95 (4,92)
35,03 (4,97) 0,639 > 0,05
≥ 2 con.
Chưa sinh.
37,30 (4,73)
33,95 (4,92) 0,983 < 0,05
≥ 2 con.
1 con.
37,30 (4,73)
35,03 (4,97) 0,750 < 0,05 Nhận xét: Tiến hành phép kiểm T-Test từng cặp, thai phụ đã sinh ≥ 2 lần và thai phụ sinh con so và những thai phụ đã 1 lần sinh con đủ tháng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
Phân tích đơn biến mối liên quan giữa giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung với các đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 0.6. Bảng phân tích đơn biến mối liên quan giữa giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung với đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Yếu tố r p
Tuổi thai phụ 0,133 0,018 0,061
BMI trước mang thai 0,097 0,009 0,172
Số lần sinh con đủ tháng 0,213 0,045 0,003
Tiền sử sảy thai 0,006 0,000 0,933
Tuổi thai 0,173 0,030 0,015
Nhận xét: Hệ số tương quan r chỉ ra số lần sinh con đủ tháng và tuổi thai là hai yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến chiều dài kênh cổ tử cung ở tuổi thai từ 16 - 24 tuần.
IV. BÀN LUẬN
Mối liên quan giữa chiều dài kênh cổ tử cung và tuổi thai phụ
So sánh với nghiên cứu của Petrovic (2008) [2], chúng tôi tìm thấy sự dài hơn có ý nghĩa thống kê của chiều dài kênh cổ tử cung ở những thai phụ trong nhóm tuổi ≤ 30 so với nhóm tuổi ≥ 31.
Nghiên cứu của Eramus [3] nhận thấy rằng những thai phụ < 20 tuổi có chiều dài kênh cổ tử cung ngắn hơn có ý nghĩa thống kê so với những thai phụ ≥ 20 tuổi. Kết quả của những nghiên cứu này khác với chúng tôi, chúng tôi không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm tuổi này vì ở nhóm tuổi < 20 trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 2 thai phụ.
Mối liên quan BMI tiền thai với chiều dài kênh cổ tử cung
Khi so sánh giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung giữa các nhóm của biến số BMI, chúng tôi nhận thấy có sự tăng dần của trị số trung bình ứng với sự tăng lên của chỉ
[1], và không tìm thấy mối liên quan giữa chiều dài kênh cổ tử cung với chỉ số BMI trước mang thai, kết luận này giống với nghiên cứu của Eramus [3].
Mối liên quan số lần sinh đủ tháng với chiều dài kênh cổ tử cung.
Khi so sánh chiều dài kênh cổ tử cung giữa các nhóm tiền sử sinh con đủ tháng, chúng tôi thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chiều dài kênh cổ tử cung, cụ thể, nhóm thai phụ đã từng sinh ≥ 2 lần có chiều dài kênh cổ tử cung dài hơn có ý nghĩa thống kê so với những thai phụ đã sinh con 1 lần và những thai phụ chưa sinh lần nào. Sau khi phân tích đa biến loại trừ yếu tố gây nhiễu, chúng tôi vẫn thấy có mối liên quan giữa số lần sinh con đủ tháng và chiều dài kênh cổ tử cung. Giống với nghiên cứu của chúng tôi, tác giả Nguyễn Thị Việt Anh cũng thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chiều dài kênh cổ tử cung giữa nhóm thai phụ sinh con rạ với nhóm thai phụ sinh con so ở tuổi thai từ tuần thứ 20 trở đi [1].
Mối liên quan giữa tiền sử sảy thai với chiều dài kênh cổ tử cung
Kết quả của chúng tôi khác với nghiên cứu của Heath [4], điều này có thể giải thích do mục tiêu chính trong nghiên cứu của Heath là tìm mối liên quan giữa các yếu tố tiền sử sản khoa với chiều dài kênh cổ tử cung nên cỡ mẩu đủ năng lực để tìm ra mối liên quan giữa tiền sử sảy thai với chiều dài kênh cổ tử cung. Bên cạnh đó, sự khác biệt trong kết luận của chúng tôi với Heath có thể giải thích do sự khác nhau về chủng tộc của dân số nghiên cứu và tuổi thai nghiên cứu.
V. KẾT LUẬN
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa số lần sinh con đủ tháng của thai phụ và tuần tuổi thai với chiều dài kênh cổ tử cung.
Chưa tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố
tuổi thai phụ, BMI trước khi mang thai, tiền sử sảy thai với chiều dài kênh cổ tử cung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Việt Anh (2016), "Nghiên cứu độ dài cổ tử cung ở những thai phụ có tuổi thai từ 12 tuần đến 37 tuần tại bệnh viện Phụ Sản Trung Ương", Luận văn thạc sỹ y học.
2. Petrovic D., Novakov-Mikic A., Mandic V.
(2008), "Socio-demographic factors and cervical length in pregnancy", Med Pregl, 61 (9-10), pp. 443-51.
3. Erasmus I., Nicolaou E., van Gelderen C.
J., et al. (2005), "Cervical length at 23 weeks' gestation--relation to demographic characteristics and previous obstetric history in South African women", S Afr Med J, 95 (9), pp. 691-5.