200
Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4D, pp. 200-209 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
TRIẾT LÍ PHÁT TRIỂN VỀ GIÁO DỤC
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Dương Thị Hương1 và Phan Thị Thành2
1Khoa Khoa học Cơ bản, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Đại học Thái Nguyên
2Khoa Sư phạm, Trường Đại học Quy Nhơn
Tóm tắt. Triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là chìa khóa quan trọng xây dựng một nền giáo dục mới, cũng như là cơ sở nền tảng quan trọng định hướng trong đổi mới giáo dục ở Việt Nam. Bài viết nghiên cứu nội dung triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời phân tích làm rõ một số ý nghĩa đối với đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: triết lí phát triển về giáo dục, đổi mới giáo dục và đào tạo, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
1. Mở đầu
Nghiên cứu chung về triết lí giáo dục và triết lí giáo dục Việt Nam từ xưa tới nay đã có khá nhiều công trình đề cập tới. Có thể điểm qua các nghiên cứu: Triết lí giáo dục thế giới và Việt Nam [1]; Triết học giáo dục Việt Nam [2]; Triết lí giáo dục thế giới và Việt Nam [3]; Triết lí giáo dục Việt Nam trong thời kì đổi mới [4]; Đôi điều suy nghĩ về triết lí và đổi mới tư duy giáo dục trong thời kì đổi mới [5]… Các tác giả đi sâu nghiên cứu về triết lí giáo dục thế giới và triết lí giáo dục ở Việt Nam, tiếp cận những vấn đề căn bản cốt lõi của triết lí giáo dục đã trở đã thành “cẩm nang khoa học giáo dục” có ý nghĩa định hướng cho thực tiễn hoạt động giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
Nghiên cứu riêng về tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, triết lí giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải kể đến các công trình tiêu biểu như Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục [6]; Tìm hiểu tư tưởng triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo [7]; Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và sự phát triển giáo dục học Việt Nam [8]; Triết lí giáo dục Hồ Chí Minh [9];
Một số khía cạnh về triết lí giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh [10]… Những nghiên cứu này đã phân tích những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, triết lí giáo dục của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò mục tiêu, phương pháp giáo dục về vai trò của người thầy dưới góc độ là một lí luận khoa học đối với giáo dục học Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, nghiên cứu phân tích có hệ thống và làm rõ triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì chưa được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, cũng như phân tích làm rõ những ý nghĩa quan trọng của nó đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả đi sâu nghiên cứu có hệ thống nội
Ngày nhận bài: 2/7/2021. Ngày sửa bài: 29/8/2021. Ngày nhận đăng: 10/9/2021.
Tác giả liên hệ: Dương Thị Hương. Địa chỉ e-mail: [email protected]
201 dung triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời phân tích làm rõ một số ý nghĩa của nó đối với đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Triết lí phát triển và triết lí phát triển về giáo dục
Triết lí được hiểu như là lí luận có tính triết học: theo Từ điển Tiếng Việt, triết lí hiểu là “lí luận triết học; là quan niệm chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội; thuyết lí về những vấn đề nhân sinh và xã hội” [11, tr.1035]; “Về đại thể, triết lí có thể và nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm,… mang tính khái quát cao, được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngôn ngữ;
và được sử dụng trong đời sống xã hội với tính cách là những định hướng cho hoạt động của con người về mặt thế giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan” [12, tr.57]. Như vậy, triết lí được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hạt nhân hình thành thế giới quan, nhân sinh quan thể hiện qua những quan niệm cốt lõi được coi là cơ sở lí luận căn bản chi phối mối quan hệ nhất định trong đời sống xã hội, có ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Khái niệm phát triển được hiểu là sự biến đổi theo chiều hướng đi lên, từ thấp đến cao từ kém đến hoàn thiện hơn, có sự ra đời của cái mới ở trình độ cao hơn. Triết lí phát triển được tác giả Phạm Xuân Nam hiểu “chính là những tư tưởng, những phương châm cốt lõi và cơ bản nhất có vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn nhiều mặt của con người nhằm biến đổi theo chiều hướng đi lên từ thấp đến cao của tất cả các yếu tố, các chiều cạnh hợp thành xã hội tổng thể mà trong đó bản thân con người là trung tâm [13, tr.40].
Chúng ta có thể hiểu, triết lí phát triển về giáo dục là những quan điểm lí luận cốt lõi chỉ đạo hoạt động giáo dục và đào tạo trong thực tiễn. Nó có vai trò định hướng cho hoạt động giáo dục biến đổi theo chiều hướng đi lên hoàn thiện hơn trong xác định đường lối chính sách phát triển giáo dục, vị trí, vai trò của giáo dục, bản chất của giáo dục, quá trình giáo dục, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục… Triết lí giáo dục là kết quả nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn giáo dục và đào tạo.
Triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những quan điểm lí luận cơ bản về đường lối chính sách phát triển giáo dục, vị trí, vai trò của giáo dục, bản chất của giáo dục, quá trình giáo dục, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục định hướng phát triển giáo dục trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con người toàn diện - “vừa hồng, vừa chuyên”. Triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa phát triển con người và xã hội, phát triển con người là cơ sở, động lực cho sự phát triển của xã hội.
2.2. Nội dung triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất, giáo dục là một chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng, một quốc sách hàng đầu cho sự phát triển hưng thịnh của một quốc gia, dân tộc.
Giáo dục có vai trò quan trọng đối với việc phát triển con người toàn diện trở thành động lực cơ bản để xây dựng và phát triển xã hội, cũng như quyết định đến con đường phát triển hưng thịnh hoặc suy vong của một quốc gia, dân tộc. Những ngày đầu tiên bắt tay vào xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách là chống giặc dốt, Người khẳng định “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
[14, tr.16]. Do vậy, một trong những công việc cấp bách phải thực hiện là nâng cao dân trí, bởi không một quốc gia nào có thể tiến hành xây dựng một chế độ xã hội mới và bảo vệ Tổ quốc thành công trong điều kiện văn hóa, dân trí, đạo đức, tinh thần xã hội thấp kém. Giáo dục được coi là chiến lược, cơ bản lâu dài – một quốc sách hàng đầu để có thể xây dựng cơ đồ của tổ tiên để lại, cho nên Người khẳng định “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
202
thì phải trồng người. Chúng ta phải tạo ra những công dân tốt, cán bộ tốt cho nước nhà… Đó là một trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang” [15, tr.228]. Với mục tiêu: bây giờ đang xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để dần dần đến chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: “Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu” [16, tr.184]; “Mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới” [16, tr.183], vì thế nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ tác động, ảnh hưởng quan trọng của giáo dục đối với các thế hệ tương lai, con đường phát triển của quốc gia, dân tộc: “Làm tốt thì thế hệ sau này có ảnh hưởng tốt. Làm không tốt sẽ có ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau”
[16, tr.183], sản phẩm của giáo dục chính là cơ đồ và vị thế của đất nước trong tương lai “Non sông Việt Nam có thể trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [14, tr.41].
Như vậy, giáo dục có vai trò, nhiệm vụ to lớn là tạo nên sự phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa - “vừa hồng, vừa chuyên” trở thành động lực quan trọng quyết định sự tồn vong, hưng thịnh của mỗi quốc gia, dân tộc, cho nên cần phải ưu tiên đặc biệt cho giáo dục, phải coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Thứ hai, nội dung chương trình giáo dục trong triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ phát triển toàn diện: Đức, trí, thể, mĩ cho người học, song cần lấy giáo dục đạo đức làm gốc.
Về nội dung giáo dục phát triển toàn diện cho người học Người chỉ rõ: Một là, giáo dục đạo đức cho người học bao gồm: giáo dục tinh thần yêu nước, tư tưởng, đạo đức lối sống, yêu lao động; hai là, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, trình độ lí luận chính trị cho người học; ba là, giáo dục sức khỏe và mĩ dục cho người học. Với quan niệm giáo dục có tính toàn diện Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắn nhủ học sinh trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường (24/10/1955), Người viết:
“- Thể dục: để làm thân thể mạnh khỏe, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung - Trí dục: ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới
- Mĩ dục: để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp
- Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công” [16, tr.74].
Người khẳng định: “Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích được gì” [16, tr.184]. Nói chuyện với cán bộ, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Người chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải chú trọng đến cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” [17, tr.331]. Như vậy, giáo dục không chỉ trang bị, truyền đạt tri thức, mà nền giáo dục mới cần lấy giáo dục đạo đức làm gốc. Nền giáo dục mới cần xây dựng nội dung giáo dục toàn diện đức - trí - thể - mĩ, người học được phát triển toàn diện về trí lực, tâm lực, thể lực với đạo đức cách mạng làm gốc các em sẽ trở thành những người công dân có ích, góp phần xây dựng và chấn hưng đất nước.
Thứ ba, xây dựng, phát triển một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em.
Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã viết: “…Từ giờ phút này giở đi các em bắt đầu nhận được một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam… Một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn
203 toàn những năng lực sẵn có của các em” [14, tr.40]. Điều này cho thấy, giáo dục ngoài vai trò trang bị cho người học những tri thức phổ thông, giáo dục đạo đức làm gốc cho người học, giáo dục còn có vai trò phát hiện, chăm lo, vun trồng và phát triển những năng lực, tài năng, tiềm năng đặc biệt của cá nhân người học. Đây là tư tưởng của một nền giáo dục hiện đại. Bởi, giáo dục có nhiệm vụ phát hiện tài năng và tư chất thông minh của người học, phát triển năng khiếu của người học trên cơ sở đảm bảo chương trình giáo dục phổ thông phát triển toàn diện đức, trí, thể mĩ của người học để các em trở thành nhân tài đóng góp tài năng và trí tuệ cho sự nghiệp canh tân đất nước.
Thứ tư, giáo dục cần phát triển năng lực tự học, tự giáo dục, nêu cao tác phong tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo trong học tập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định học sinh trong nhà trường có vai trò, vị trí trung tâm của quá trình giáo dục, vì thế giáo dục có nhiệm vụ tạo ra môi trường giáo dục ở đó người học chủ động chiếm lĩnh kiến thức dưới sự hướng dẫn của người thầy. Quá trình giáo dục không chỉ còn là truyền thụ kiến thức một chiều mà giáo dục là thắp lên hứng thú học tập, đam mê khám phá, chiếm lĩnh kiến thức, hình thành ở các em các năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong học tập chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện kĩ năng tự học, tự giáo dục thích nghi hiệu quả với tốc độ đổi mới không ngừng của tri thức trong thực tiễn. Người khẳng định: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn lí luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi” [16, tr.215], muốn có kết quả học tập tốt, phải lấy “tự học làm cốt”, học ở mọi nơi, mọi lúc, học ở tất cả mọi người, đề cao tinh thần tự học, tự đào tạo và đào tạo lại với phương châm học không biết chán, học tập suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học ở nhân dân là một thiếu sót rất lớn” [18, tr.50]. Trong quá trình học tập, người học cần chủ động, tích cực và sáng tạo tiếp thu tri thức mới, không thụ động tiếp thu tri thức một chiều, đồng thời cần luôn luôn trau dồi, rèn luyện và phát huy tác phong tư duy độc lập, sáng tạo và tự do tư tưởng, không tin một cách mù quáng, hiểu một cách máy móc từng câu, từng chữ một trong sách... Phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo được coi là chìa khóa quan trọng để người học có thể tiếp thu tri thức mới và sáng tạo tri thức mới một cách hiệu quả, tránh cách học kinh viện, máy móc, thụ động một chiều ở người học.
Thứ năm, phát triển một nền giáo dục gắn với thực tiễn.
Người cho rằng: để phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội thì giáo dục cần lấy thực tiễn làm thước đo, giáo dục xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn cũng như mục đích là để đáp ứng yêu cẩu của thực tiễn. Giáo dục cần gắn với thực tiễn, trang bị kiến thức, kĩ năng, năng lực thích nghi cho người học. Để giảng dạy hiệu quả Người yêu cầu phương pháp giảng dạy:
“Cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” và “Phải gắn liền lí luận với công tác thực tế” đạt tới mục đích “cải tạo tư tưởng” và “nhằm đúng nhu cầu” của xã hội. Trong bài Nói về công tác huấn luyện và học tập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra công tác giáo dục - đào tạo phải làm cho người học có kiến thức, năng lực để phục vụ sản xuất, công tác, nên việc cốt yếu là phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề. Vì vậy, trong giáo dục, đào tạo không nên tham nhiều, dàn trải không hiệu quả. Phải xuất phát từ tình hình cụ thể của đất nước, của địa phương; phải căn cứ vào từng đối tượng cán bộ công tác ở cơ quan, ban ngành cấp tỉnh, cấp huyện… xem nhu cầu của công việc mà họ đảm nhận, năng lực của họ đang yếu và thiếu cái gì để trang bị những tri thức, phương pháp và kĩ năng cần thiết để người học làm việc được ngay.
Trong quá trình giáo dục, đào tạo cần kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, lí luận và thực tiễn với mục đích nâng cao nhận thức, đồng thời nâng cao khả năng làm việc của người học.
Phải dạy người học cả kĩ năng tiếp cận và phương pháp thực hành để vận dụng lí luận đó vào cuộc sống và thực tế công tác của họ. Người cho rằng, lí luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn), thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không
204
có tên. Những nội dung về phương pháp giáo dục này chính là triết lí giáo dục sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – muốn phát triển giáo dục phát triển đáp ứng yêu cầu của thực tiễn thì cần phát triển một nền giáo dục gắn với thực tiễn, thực tiễn là cơ sở, là mục tiêu và là động lực phát triển của một nền giáo dục hiện đại.
Thứ sáu, giải pháp phát triển giáo dục. Để phát triển giáo dục Người cũng đưa ra một số giải pháp cơ bản như sau.
Một là, để phát triển giáo dục cần kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Người khẳng định: “Giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” [16, tr.395]; “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em và kết quả cũng không tốt” [tr.388]. Người yêu cầu nhà trường phải liên hệ chặt chẽ với gia đình và xã hội “Cho nên muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình, xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau” [15, tr.388].
Hai là, để phát triển giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần có sự quan tâm và phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp và nhiều người. Người viết: “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy Đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa” [17, tr.620]. Người luôn luôn kêu gọi đồng bào đóng góp công sức của mình vào việc xây dựng giáo dục: “Từ trước đến nay, đồng bào ta đã hết lòng giúp đỡ công việc giáo dục. Tôi mong rằng từ nay về sau, đồng bào sẽ cố gắng giúp đỡ nhiều hơn nữa cho trường học” [19, tr.191].
Ba là, bản thân người học cũng cần nêu cao tinh thần tự học, học tập suốt đời, phải lấy “tự học làm cốt”, vì thế Người không chỉ nhắc nhở người khác về phương pháp và tinh thần học tập suốt đời, đồng thời tự nêu tấm gương tự học của bản thân: Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học. Đây cũng là tư tưởng giáo dục cơ bản của UNESCO đề ra năm 1996 cho thế kỉ XXI với khẩu hiệu “học suốt đời”. Điều này khẳng định tầm tư duy vượt thời đại trong triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh.
Nội dung triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được coi là kim chỉ nam định hướng, phát triển một nền giáo dục Việt Nam hiện đại mang tính mở, gắn với thực tiễn, phát triển tiềm năng của người học, lấy người học làm trung tâm có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Một số ý nghĩa từ triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đối với đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay Trải qua hơn 30 năm đổi mới đất nước, đổi mới giáo dục ở Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng với phương châm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước. Giáo dục và đào tạo đã tạo ra cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giáo dục và đào tạo đã có những bước phát triển đáng kể cả về quy mô và chất lượng, đa dạng về hình thức tổ chức giáo dục và phong phú về lĩnh vực đào tạo.
Tuy nhiên, nền giáo dục của nước ta đang tồn tại một số hạn chế cơ bản, “Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực phát triển. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp”
[20, tr.113-114]. Việc giáo dục đạo đức, lối sống, kĩ năng sống cho sinh viên chưa thực sự được chú trọng dẫn đến văn hóa ứng xử, đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên xuống cấp. Giáo dục kĩ năng, phẩm chất và phát triển năng lực của người học còn chưa được chú trọng tại các cơ sở giáo dục. Đối với học sinh bạo lực học đường đã và đang trở thành vấn nạn nhức nhối trong xã hội. Đối với sinh viên các trường đại học, người học chưa được trang bị kĩ năng, năng lực
205 thích nghi đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Do vậy, số lượng sinh viên sau khi tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học và trung cấp chuyên nghiệp không tìm được việc làm hoặc làm không đúng chuyên môn khá lớn, gây lãng phí chất xám và nguồn nhân lực đã qua đào tạo. Tính đến quý 1/2021, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở nên là 51,02 triệu người, tỉ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,7%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở nên đã qua đào tạo có bằng/ chứng chỉ là 13,26 triệu người (chiếm 26% tổng số lực lượng lao động), trong đó có trên 6 triệu lao động có trình độ đại học trở lên (chiếm 45,7%) [21, tr.2].
Nguồn [21, tr.4]
2.47 2.29 2.1
6.03
12.89
3.15 2.19 1.86
6.06
13.26
0 5 10 15
Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng Đại học/trên ĐH Tổng số
Biểu đồ 1. Số lượng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có bằng/
chứng chỉ - quý 1/2020 và quý 1/2021 (triệu người)
Quý 1/2021 Quý 1/2020
37.3 63.9
109.6
205
52.3
103.8 126.7
291.6
67.9 42.8
78.5
173.9
0 100 200 300 400
Sơ cấp nghề Trung cấp Cao đẳng Đại học trở lên
Biểu đồ 2. Quy mô thất nghiệp trong độ tuổi lao động chia theo trình độ chuyên môn kĩ thuật (nghìn người)
Quý 1/2021 Quý 4/2020 Quý 1/2020
206
Biểu đồ 1 cho thấy: lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có được đào tạo có bằng và chứng chỉ quý 1/2021 tăng tương ứng 2,9% so với quý 1/2020, nguồn nhân lực chất lượng cao có trình độ đại học và trên đại học chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổng số lực lượng lao động trên 15 tuổi có trình độ chuyên môn, kĩ thuật. Tuy nhiên, tỉ lệ lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên thất nghiệp là tương đối lớn.
Biểu đồ 2 cho thấy: lực lượng lao động có trình độ đại học và trên đại học thất nghiệp chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tổng số lao động trên 15 tuổi có bằng và chứng chỉ: quý 1/2020 chiếm 49,4%; Quý 4/2020 chiếm 50,8%; Quý 1/2021 chiếm 47,9%. Mặt khác, trong bối cảnh sự tác động sâu rộng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam cơ hội việc làm của người lao động có nguy cơ giảm mạnh “Báo cáo mới nhất của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho thấy, trong vòng hai thập kỉ tới, khoảng 56% người lao động Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam có nguy cơ mất việc vào tay rôbốt” [22, tr.231].
Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giáo dục – đào tạo Việt Nam chưa tạo ra những sản phẩm giáo dục có trình độ tri thức, năng lực đổi mới sáng tạo và năng lực thích nghi cao: “Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực phát triển. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.
Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu tính liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lí thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu tính gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc” [20, tr.113-114]. Giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay chưa quan tâm đúng mức tới giáo dục nâng cao văn hóa, đạo đức, kĩ năng, phát triển năng lực thích nghi cho người học. Các môn khoa học xã hội và nhân văn ít được quan tâm trong giảng dạy; hình thức giáo dục còn chưa đa dạng, thiếu tính thực tiễn so với yêu cầu phát triển của xã hội…
Nghiên cứu triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh bài viết phân tích làm rõ một số ý nghĩa đối với phát triển giáo dục Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới đất nước và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Một là, giáo dục Việt Nam cần phải thay đổi tư duy về chiến lược, mục tiêu giáo dục và đào tạo là “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại. Mục tiêu của giáo dục là phát triển toàn diện đức, trí, thể, mĩ, năng lực và phẩm chất của người học; đào tạo nguồn nhân lực “vừa hồng, vừa chuyên”, bao gồm: đội ngũ trí thức, nhà kinh doanh, người quản lí, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, có tri thức, có năng lực tư duy ứng dụng sáng tạo tri thức trong hoạt động thực tiễn, có khả năng thích ứng cao với những biến đổi của nền kinh tế tri thức và xu thế hội nhập trong thế kỉ XXI như Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [23, tr.136].
Hai là, đổi mới chương trình, nội dung, hình thức giáo dục hướng tới phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, kĩ năng, năng lực và phẩm chất của người học. Nội dung chương trình giáo dục cần gắn với thực tiễn, yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế, tăng thời lượng thực hành, vận dụng kiến thức trong thực tiễn. Giáo dục chú trọng phát triển nhân cách, đạo đức, tri thức, lí tưởng chủ nghĩa xã hội, lối sống đẹp… giúp người học phát triển toàn diện Đức – Trí – Thể - Mĩ; chuyển mạnh từ quá trình giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức
207 sang phát triển năng lực và phẩm chất của người học, trong đó đặc biệt chú ý đến năng lực tư duy sáng tạo, ứng dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức trong hoạt động thực tiễn hình thành nên kĩ năng thích nghi cao ở người học với sự thay đổi của môi trường kinh tế - xã hội. Chương trình giáo dục được đổi mới theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực và phù hợp với điều kiện thực tiễn. Trong giáo dục tạo có sự gắn kết giữa giáo dục - đào tạo với nghiên cứu khoa học và có sự tham gia của các doanh nghiệp. Giáo dục cần tạo được sự gắn kết chặt chẽ các tri thức khoa học được trang bị trong nhà trường với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bối cảnh quốc tế và thời đại, cho nên cần tạo sự chuyển biến trong hình thức giáo dục gắn giáo dục và đào tạo với nghiên cứu khoa học, có sự tham gia của các doanh nghiệp, giáo dục nghề nghiệp có tính liên thông linh hoạt giữa các bậc học, phát triển hệ thống giáo dục suốt đời và xây dựng xã hội học tập,… Do đó, cần mở rộng các cơ sở nghiên cứu khoa học của nhà trường gắn kết nhà trường với các doanh nghiệp với các địa phương nhằm triển khai có hiệu quả các kết kết quả trong giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, của đất nước và khu vực cũng như trên phạm vi toàn cầu.
Chương trình giáo dục cần tăng thời lượng giáo dục hình thành và phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng thực hành, năng lực tự học cập nhật các tri thức khoa học hiện đại, nâng cao năng lực vận dụng, ứng dụng sáng tạo tri thức của người học trong hoạt động thực tiễn; nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu tri thức, kĩ năng, năng lực nghề nghiệp của thị trường lao động.
Ba là, phát triển hệ thống giáo dục học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ quan trọng trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp đổi mới và hội nhập trong nền kinh tế tri thức toàn cầu. Phát triển giáo dục đại học quốc gia hệ thống giáo dục có tính liên thông giữa các cấp học, gắn với các doanh nghiệp và thị trường sức lao động. Huy động sự tham gia của các doanh nghiệp vào việc xác định nội dung, chương trình đào tạo đẩy mạnh chiến lược giáo dục, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đa dạng hơn nguồn tài liệu học tập của các bậc học, chương trình giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của các cá nhân.
Bốn là, đổi mới trong thực hiện phương pháp dạy và học theo hướng lấy người học làm trung tâm, phát triển năng lực, kĩ năng của người học, phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của người học. Đây là yêu cầu tất yếu của giáo dục, cũng như mục tiêu cơ bản trong triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, yêu cầu đặt ra đối với người dạy cần sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo và năng lực tư duy của người học, chuyển hướng giảng dạy áp đặt, một chiều từ thầy đến trò một cách thụ động, máy móc… chuyển sang hướng trang bị các phương pháp tiếp cận, thu nhận và kĩ năng xử lí thông tin và tri thức nhằm hình thành, bồi dưỡng và phát triển năng lực giải quyết vấn đề, tạo nếp tư duy độc lập, sáng tạo, chủ động của người học. Đặc biệt để phát triển tư duy sáng tạo, năng lực sáng tạo cũng như năng lực ứng dụng tri thức trong hoạt động thực tiễn ở người học.
Trong giảng dạy người dạy cần khơi dậy, phát huy trí tuệ, tính độc lập, tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, để mỗi người học nhận diện chính mình, biết khai thác tiềm năng vốn có trong bản thân để có thể tự tin phát triển bản thân và thành công trong thế giới đương đại.
Năm là, để phát triển giáo dục cần đổi mới tư duy đầu tư cho giáo dục, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục cũng như tăng cường sự quan tâm của gia đình đối với giáo dục và đào tạo. Trong điều kiện hiện nay để đầu tư ngân sách cho giáo dục có hiệu quả cần sử dụng ngân sách có trọng tâm, trọng điểm đặc biệt cần chú trọng ngân sách vào đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lí đảm bảo chất lượng cho sự nghiệp đổi mới giáo dục. Vì không có người thầy tốt thì không có giáo dục. Đặc biệt, hiện nay Đảng và Nhà nước cần quan tâm sâu sắc tới việc nâng cao chất lượng đời sống vật chất cho đội ngũ nhà giáo và đội ngũ quản lí giáo
208
dục thông qua các chế độ tiền lương, các chế độ phụ cấp, đãi ngộ khác trở thành đòn bẩy trực tiếp động viên, khuyến khích đội ngũ nhà giáo toàn tâm, toàn trí cống hiến cho sự nghiệp đổi mới giáo dục của nước nhà.
Đồng thời, để phát triển giáo dục cần đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học cần khuyến khích liên kết với các doanh nghiệp, cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín để xây dựng hoàn thiện nội dung chương trình đào tạo gắn với thực tiễn yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực, cũng như huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục. Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo phải có thông số về nhu cầu việc làm của xã hội để phân chỉ tiêu đào tạo cho các trường; các trường phải nâng cao chất lượng đào tạo của mình, để sinh viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu công việc của các cơ quan tuyển dụng; coi trọng giáo dục thực hành, cốt thiết thực hơn là tham nhiều mà không có chất lượng. Về phía gia đình, mỗi gia đình cần nâng cao trách nhiệm xã hội đối với giáo dục và đào tạo, tăng cường sự quan tâm và phối hợp với nhà trường, các cơ sở giáo dục để tạo mối liên hệ mật thiết, phối hợp với các cơ sở giáo dục đào tạo đảm bảo mục tiêu giáo dục và đào tạo.
3. Kết luận
Triết lí phát triển về giáo dục là nội dung quan trọng hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - chìa khóa quan trọng xây dựng một nền giáo dục mới mang tính dân tộc, nhân dân, khoa học và mang tính thời đại. Triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, là sản phẩm của thời đại mới, là sản phẩm của sự tổng kết kinh nghiệm giáo dục của thực tiễn trong lịch sử và là sản phẩm của một nhân cách và trí tuệ vĩ đại Hồ Chí Minh. Triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tầm nhìn thời đại về vị trí vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự nghiệp xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phạm Minh Hạc, 2011. Triết lí giáo dục thế giới và Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[2] Thái Duy Tuyên, 2007. Triết học giáo dục Việt Nam. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[3] Đặng Quốc Bảo, 2012. “Triết lí giáo dục thế giới và Việt Nam”. Tạp chí Giáo dục, số 280 (Kì 2-2/2012), tr.1-2, 12.
[4] Phạm Minh Hạc, 2011. “Triết lí giáo dục Việt Nam trong thời kì đổi mới”. Tạp chí Giáo dục, số 259, (kì 1-4/2011), tr. 1-3, 8.
[5] Phạm Minh Hạc, 2011. “Đôi điều suy nghĩ về triết lí và đổi mới tư duy giáo dục trong thời kì đổi mới”. Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 66 tháng 3/2011, tr. 8-12.
[6] Đặng Quốc Bảo, 2008. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[7] Thái Duy Tuyên, 2004. “Tìm hiểu tư tưởng triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo”. Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 5, tr.11-13.
[8] Hoàng Thanh Tâm, 2019. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và sự phát triển giáo dục học Việt Nam”. Tạp chí Giáo dục, số 468 (kì 2-12/2019), tr. 1-6.
[9] Nguyễn Xuân Trung, 2016. “Triết lí giáo dục Hồ Chí Minh”. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (99), tr.71-75.
[10] Nguyễn Thị Ngọc Trang, 2013. Một số khía cạnh về triết lí giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[11] Viện Ngôn ngữ học, 2003. Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng.
209 [12] Hồ Sĩ Quý, 1998. “Mấy suy nghĩ về Triết học và Triết lí”. Tạp chí Triết học, (3), tr.57.
[13] Phạm Xuân Nam, 2008. Triết lí phát triển ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu. Nxb Khoa học Xã hội.
[14] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[15] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[16] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, tập 8. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[17] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, tập 11. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[18] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, tập 6. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[19] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, tập 10. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
[21] Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Tổng cục Thống kê, 2021. Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, số 29, quý I năm 2021.
[22] Trần Thị Vân Hoa, 2018. Cách mạng công nghiệp 4.0 vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1.
Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
ABSTRACT
The development philosophy of education in Ho Chi Minh's thought
Duong Thi Huong1 and Phan Thi Thanh2
1Faculty of Basic Science, Thai Nguyen University of Economics and Business Administration, Thai Nguyen University 2Education Department, Quy Nhon University The development philosophy of education in Ho Chi Minh's thought is considered an important key to building a new education, as well as an important foundation for orientation in educational innovation in Vietnam. The article studies the content of the development philosophy of education in Ho Chi Minh's thought and analyzes and clarifies some meanings for the fundamental and comprehensive reform of education and training in Vietnam today.
Keywords: development philosophy of education, renovating education and training, Ho Chi Minh's thought on education.