82
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
DẪN LIỆU VỀ THÀNH PHẦN LOÀI VÀ PHÂN BỐ CÁC LOÀI RẾT (CHILOPODA: SCOLOPENDROMORPHA, SCUTIGEROMORPHA)
Ở VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, VIỆT NAM
Nguyễn Đức Hùng1*, Đỗ Đức Quân1, Trần Thị Thanh Bình1,4 Vũ Thị Hà2, Nguyễn Đức Anh2 và Lê Xuân Sơn3
1Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
2Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
3Viện Sinh thái Nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
4Trung tâm nghiên cứu động vật đất, trường ĐHSP Hà Nội
Tóm tắt. Nghiên cứu về các loài rết - lớp chân môi (Chilopoda) bộ Scolopendromorpha và Scutigeromorpha ở Vườn quốc gia Hoàng Liên được tiến hành trong tháng 5 và tháng 11 năm 2018. Mẫu vật được thu tại 4 sinh cảnh của khu vực nghiên cứu bao gồm: rừng cây gỗ, rừng hỗn giao (gỗ và tre nứa), rừng tre nứa, khu dân cư + đất nông nghiệp. Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận được 13 loài và phân loài thuộc 2 bộ Scolopendromorpha và Scutigeromorpha. Bộ Scolopendromorpha gặp 12 loài và phân loài thuộc 6 giống, 3 họ (Cryptopidae, Scolopendridae, Scolopocryptopidae). Bộ Scutigeromorpha gặp 1 loài thuộc 1 giống, 1 họ (Scutigeridae). Bổ sung cho danh sách loài rết khu vực Tây Bắc, Việt Nam 1 loài (Cryptops spinipes). Rừng cây gỗ và rừng hỗn giao có sự tương đồng về thành phần loài cao nhất (64,45%), thấp nhất là ở sinh cảnh khu dân cư + đất nông nghiệp và rừng hỗn giao có độ tương đồng (35,65%). Chỉ số đa dạng sinh học (H’) cho thấy ở khu vực nghiên cứu đa dạng rết thuộc bộ Scolopendromorpha và Scutigeromorpha ở mức trung bình; Chỉ số đa dạng sinh học (H’) cao nhất là ở sinh cảnh rừng hỗn giao (1,81), giảm dần ở rừng cây gỗ (1,64), khu dân cư + đất nông nghiệp (1,47) và thấp nhất là rừng tre nứa (1,41). Chỉ số đồng đều J’ cao nhất là ở sinh cảnh khu dân cư + đất nông nghiệp (0,91), tiếp đến là sinh cảnh rừng tre nứa (0,88), hai sinh cảnh rừng hỗn giao và rừng cây gỗ có chỉ số đồng đều như nhau (0,79). Mùa mưa số lượng loài ghi nhận được nhiều hơn mùa khô.
Từ khóa: Hoàng Liên, Scolopendromorpha, Scutigeromorpha, thành phần loài rết.
1. Mở đầu
Rết là nhóm động vật lớp chân môi (Chilopoda), phân ngành nhiều chân (Myriapoda), ngành chân khớp (Arthropoda). Chúng có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái đất như là thiên địch của một số nhóm côn trùng gây hại, tham gia phân hủy xác động vật, … Một số loài rết còn được biết đến như là một vị thuốc dân gian chữa một số bệnh như trĩ, đau nhức, sang nhọt... [1].
Nghiên cứu gần đây cho thấy nọc rết có tác dụng như một loại thuốc giảm đau, có thể được sử dụng thay thế moorphin trong y học [2].
Ngày nhận bài: 19/6/2019. Ngày sửa bài: 29/7/2019. Ngày nhận đăng: 1/9/2019.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Đức Hùng. Địa chỉ e-mail: [email protected]
83 Mặc dù đã xác định được khoảng 3.000 loài rết thuộc 24 họ, 5 bộ, nhưng ước tính có hơn 8.000 loài tồn tại trong tự nhiên. Đây là nhóm chưa có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam. Theo Trần Thị Thanh Bình (2013), Việt Nam có 71 loài và phân loài rết thuộc 26 giống, 13 họ và 4 bộ [3].
Vườn quốc gia (VQG) Hoàng Liên có diện tích tự nhiên 29.845 ha thuộc hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu. Đây là một trong những khu rừng đặc dụng quan trọng của Việt Nam, nằm ở độ cao từ 1.000 đến 3.000m so với mực nước biển, phía Tây Bắc của dãy Hoàng Liên Sơn, trong đó có đỉnh Phan Xi Păng cao nhất Đông Dương (3.143m). Nơi đây chủ yếu là rừng nguyên sinh với thảm thực vật rừng kín thường xanh Á nhiệt đới với hệ động thực vật rừng phong phú, đa dạng trong đó có nhiều loài quý hiếm và sinh cảnh đặc hữu. Với hệ sinh thái rừng phong phú, VQG Hoàng Liên được đánh giá là một trong những trung tâm đa dạng sinh học bậc nhất nước ta [4].
Cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về loài rết ở VQG Hoàng Liên. Vì vậy trong bài báo này chúng tôi giới thiệu các kết quả nghiên cứu về thành phần loài và phân bố của rết thuộc hai bộ Scolopendromorpha và Scutigeromorpha ở VQG Hoàng Liên. Đồng thời cũng xem xét đến mối quan hệ giữa thành phần loài và các sinh cảnh ở khu vực nghiên cứu và chỉ ra mức độ tương đồng về thành phần loài cũng như chỉ số đa dạng của các loài rết ở các sinh cảnh đó.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu là 96 mẫu rết (Scolopendromorpha và Scutigeromorpha) được thu ở 2 điểm nghiên cứu là thôn Can Hồ B, xã Bản Khoang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai và Khu du lich sinh thái Suối vàng - Thác tình yêu, xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Tại mỗi điểm nghiên cứu mẫu được thu ở 4 sinh cảnh bao gồm: Rừng cây gỗ; rừng tre nứa; rừng hỗn giao; khu dân cư + đất nông nghiệp theo các tuyến nghiên cứu, các tuyến lựa chọn có đủ các sinh cảnh nghiên cứu và lặp lại sinh cảnh ở các tuyến: Tuyến 1: từ điểm đầu có tọa độ 22° 25' 09,3"N; 103° 46' 54,0"E đến điểm cuối có tọa độ 22° 25' 00,6"N; 103° 46' 13,0"E, chiều dài tuyến khoảng 5,5km.
Tuyến 2: từ đầu có tọa độ 22° 25' 09,3"N; 103° 46' 54,0"E đến điểm cuối có tọa độ 22° 24' 53,9" N 103° 46' 32,7"E, chiều dài tuyến khoảng 5km. Tuyến 3: từ điểm đầu có tọa độ 22° 21' 10,8"N; 103° 46' 29,0"E đến điểm cuối có tọa độ 22° 21' 04,2"N; 103° 41' 34,0" E, chiều dài tuyến khoảng 9km. Tuyến 4: từ điểm đầu có tọa độ 22° 21' 10,8"N; 103° 46' 29,0"E đến điểm cuối có tọa độ 22° 19' 35,8"N; 103° 46' 21,3"E, chiều dài tuyến khoảng 6km.
Mẫu được thu vào đầu mùa mưa (tháng 5/2018) và đầu mùa khô (tháng 11/2018). Thu mẫu bằng nhiều cách khác nhau như lật đá, vạch thảm mục, đào đất, bằng phương pháp bẫy đất Barber của Mesibov & Churchill (2003), bằng phương pháp rây đất của Ghiliarov M. S., (1976).
Mẫu vật được định hình và lưu giữ trong từng lọ riệng có chứa cồn 700 [5, 6].
Định loại các loài rết dựa vào đặc điểm hình thái như: râu, tấm ngực, tấm hàm, chân cuối, lỗ thở, cơ quan sinh dục, … theo các tài liệu của Attem (1930, 1938, 1953), Schileyko (1992, 1995, 1998, 2007) [7-13].
Đa dạng của quần xã được tính toán theo phần mềm Primer Ver.5.2.4. Đa dạng của quần xã bao gồm các chỉ số về số loài, sự phong phú về cá thể của các loài, chỉ số đa dạng (H’), chỉ số đồng đều (J). Các chỉ số này cũng được tính toán cho từng loại sinh cảnh ở khu vực nghiên cứu.
2.2. Kết quả và thảo luận
2.2.1. Thành phần loài và cấu trúc đa dạng các bậc phân loại các loài rết ở khu vực nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận được 13 loài và phân loài thuộc 2 bộ Scolopendromorpha và Scutigeromorpha. Bộ Scolopendromorpha xác định được 12 loài và phân loài thuộc 6 giống, 3 họ (Cryptopidae, Scolopendridae, Scolopocryptopidae); Bộ Scutigeromorpha xác định được 1
84
loài thuộc 1 giống, 1 họ (Scutigeridae). Trong bộ Scolopendromorpha, họ Scolopendridae gặp ở khu vực nghiên cứu 3 giống, họ Cryptopidae gặp 2 giống và họ Scolopocryptopidae chỉ gặp một giống. 3 giống Cryptops, Otostigmus, Scolopocryptops mỗi giống đều có 3 loài, các giống còn lại mỗi giống gặp 1 loài. Bộ Scutigeromorpha gặp 1 họ (Scutigeridae) với 1 giống và 1 loài (Bảng 1).
Đây là những số liệu mới về thành phần loài rết thuộc hai bộ Scolopendromorpha và Scutigeromorpha của VQG Hoàng Liên. Bổ sung cho danh sách loài rết khu vực Tây Bắc, Việt Nam 1 loài là Cryptops spinipes. Loài này trước đây mới ghi nhận ở Hải Phòng (Cát Bà) và Đồng Nai (Cát Tiên) và cũng phân bố ở New Zealand, Australia, New Guinea, Fiji, Solomon Islands (Attems, 1930; Schileyko, 2007; Edgecombe, 2005) [3].
Bảng 1. Thành phần loài và sự phân bố rết ở VQG Hoàng Liên
TT Tên
Sinh cảnh Mùa
I II III IV Mùa mưa
Mùa khô BỘ SCOLOPENDROMORPHA
HỌ CRYPTOPIDAE KOHLRAUSCH, 1881 Giống Cryptops Leach, 1815
1 Cryptops doriae Pocock, 1891 x x x x x
2 Cryptops tahitianus Chamberlin, 1920 x x
3 Cryptops spinipes Pocock, 1891* x x x x
Giống Paracryptops Silvestri, 1924
4 Paracryptops indicus Silvestri, 1924 x x x x
HỌ SCOLOPENDRIDAE POCOCK, 1895 Giống Ethmostigmus Newport, 1845
5 Ethmostigmus rubripes spinosus (Newport, 1845) x x x x x Giống Otostimus Porat, 1876
6 Otostigmus aculeatus Haase, 1887 x x x x
7 Otostigmus amballae Chamberlin, 1913 x x
8 Otostigmus politus politus Karsch, 1881 x x
Giống Scolopendra Linnaeus, 1758
9 Scolopendra gracillima sternostriata Schileyko,
1995 x x x
x x
HỌ SCOLOPOCRYPTOPIDAE POCOCK, 1896 Giống Scolopocryptops Newport, 1844
10 Scolopocryptops melanostomus Newport, 1885 x x
11 Scolopocryptops rubiginosus C.L. Koch, 1878 x x x
12 Scolopocryptops spinicaudus Wood, 1862 x x x x x
BỘ SCUTIGEROMORPHA
85 HỌ SCUTIGERIDAE LEACH, 1814
Giống Thereuopoda Verhoeff, 1904
13 Thereuopoda longicornis (Fabricius, 1793) x x
Số loài 5 5 10 8 11 6
Ghi chú. I: Khu dân cư, đất nông nghiệp; II: Rừng tre nứa;
III: Rừng hỗn giao; IV: Rừng cây gỗ
*: Loài ghi nhận mới cho khu vực Tây Bắc, Việt Nam; x: có mẫu thu được.
Ở khu vực nghiên cứu, bộ Scolopendromorpha có 3 họ (chiếm tỷ lệ 75%), 6 giống (chiếm tỷ lệ 85,71%) và 12 loài (chiếm tỷ lệ 92,30%) trong tổng số họ, tổng số giống và tổng số loài của khu vực nghiên cứu. Bộ Scutigeromorpha có 1 họ (chiếm tỷ lệ 25%), 1 giống (chiếm tỷ lệ 14,29%) và 1 loài (chiếm tỷ lệ 7,69%) trong tổng số họ, tổng số giống và tổng số loài của khu vực nghiên cứu. Như vậy có thể nói ở VQG Hoàng Liên có khá đa dạng lớp chân môi thuộc bộ Scolopendromorpha, bộ Scutigeromorpha kém đa dạng hơn.
Về bộ Scutigeromorpha trong các nhiên cứu trước đây của chúng tôi đã bổ sung 1 giống và 1 loài mới cho khu hệ rết ở Việt Nam, nâng tổng số giống và loài hiện biết ở Việt Nam là 2 giống: Thereuopoda và Thereuonema với 2 loài: Thereuopoda longicornis, Thereuonema sp.
Trong nghiên cứu này chúng tôi mới chỉ gặp 1 giống với 1 loài là Thereuopoda longicornis, đây là loài phân bố rộng ở Việt Nam: đã gặp ở Đông Bắc, Miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam [3, 14, 15].
2.2.2. Sự phân bố các loài rết ở khu vực nghiên cứu
Sự đa dạng loài, giống và họ của rết ở các sinh cảnh như sau: cao nhất là ở Sinh cảnh rừng hỗn giao (10 loài, 6 giống, 3 họ), tiếp đến là sinh cảnh Rừng cây gỗ (8 loài, 5 giống, 3 họ), sinh cảnh rừng tre nứa (5 loài, 4 giống, 4 họ) và khu dân cư + đất nông nghiệp (5 loài, 4 giống, 2 họ).
Loài Cryptops doriae gặp ở tất cả các sinh cảnh của khu vực nghiên cứu. Đây là loài đã ghi nhận phân bố rộng ở cả miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam của Việt Nam và cũng phân bố ở Nepal; India; Myanmar; Cambodia; Laos; Indonesia; Papua New Guinea [3, 7, 13].
Có 5 loài và phân loài: Cryptops spinipes, Paracryptops indicus, Ethmostigmus rubripes spinosus, Scolopendra gracillima sternostriata, Scolopocryptops spinicaudus gặp ở 3 sinh cảnh của khu vực nghiên cứu. Có 2 loài: Otostigmus aculeatus, Scolopocryptops rubiginosus gặp ở 2 sinh cảnh của khu vực nghiên cứu và 5 loài và phân loài: Cryptops tahitianus, Otostigmus amballae, Otostigmus politus politus, Scolopocryptops melanostomus, Thereuopoda longicornis gặp ở 1 sinh cảnh của khu vực nghiên cứu. Trong đó, loài Cryptops tahitianus chỉ bắt gặp ở sinh cảnh khu dân cư + đất nông nghiệp, loài Otostigmus amballae và Scolopocryptops melanostomus chỉ bắt gặp ở sinh cảnh rừng hỗn giao, phân loài Otostigmus politus politus chỉ bắt gặp sinh cảnh rừng cây gỗ và loài Thereuopoda longicornis chỉ bắt gặp sinh cảnh rừng tre nứa.
Sự tương đồng về thành phần loài rết giữa các sinh cảnh ở khu vực nghiên cứu được trình bày ở Bảng 2.
Kết quả cho thấy, giữa các sinh cảnh ở khu vực nghiên cứu có sự tương đồng về thành phần loài khác nhau. khu dân cư + đất nông nghiệp có tương đồng về thành phần loài thấp với cả 3 sinh cảnh rừng cụ thể là: với rừng cây gỗ là 38,96% và với hỗn giao là 35,65%, với rừng tre nứa là 35,69%. Rừng cây gỗ và rừng hỗn giao có độ tương đồng về thành phần loài cao nhất (64,45%).
86
Bảng 2. Độ tương đồng về thành phần loài rết ở các sinh cảnh của khu vực nghiên cứu
I II III
I
II 35,69
III 35,65 49,05
IV 38,96 43,07 64,45
Ghi chú. I: Khu dân cư + đất nông nghiệp; II: Rừng tre nứa;
III: Rừng hỗn giao; IV: Rừng cây gỗ
Hình 1. Độ tương đồng về thành phần loài ở các sinh cảnh của khu vực nghiên cứu
Ghi chú. I: Khu dân cư + đất nông nghiệp; II: Rừng tre nứa;
III: Rừng hỗn giao; IV: Rừng cây gỗ
So sánh sự tương đồng về thành phần loài rết giữa các sinh cảnh (hình 1) cho thấy: Khu dân cư + đất nông nghiệp tách thành một nhánh riêng biệt. Do ở sinh cảnh này không có tầng thảm mục, thường xuyên chịu tác động của con người nên chỉ những loài phân bố rộng hoặc những loài thích nghi được với điều kiện này mới tồn tại và phát triển ở đây. Ba sinh cảnh còn lại là rừng tre nứa, rừng hỗn giao và rừng cây gỗ nằm cùng một nhánh bởi các sinh cảnh này có tầng thảm mục, ít chịu sự tác động của con người.
Sự phân bố các loài theo mùa được thể hiện ở Hình 2 (trang sau).
Trong số các loài đã biết ở khu vực nghiên cứu có 11 loài (chiếm 84,62% tổng số loài thu được), thuộc 7 giống, 4 họ, 2 bộ được ghi nhận vào mùa mưa và 6 loài (chiếm 46,15% tổng số loài thu được), thuộc 5 giống, 3 họ, 1 bộ được ghi nhận vào mùa mưa. Như vậy, số lượng loài mùa mưa cao hơn mùa khô. Điều này có thể do mùa mưa là mùa hoạt động của nhiều loài động vật làm thức ăn cho lớp chân môi và điều kiện môi trường thích hợp cho lớp chân môi hoạt động.
Kết quả về chỉ số đa dạng H’ cho thấy rừng hỗn giao có chỉ số đa dạng cao nhất (1,81), tiếp đến rừng cây gỗ (1,64), rồi đến khu dân cư + đất nông nghiệp (1,47) và thấp nhất là rừng tre nứa (1,41). Rừng hỗn giao có đa dạng thực vật hơn các sinh cảnh khác, vì vậy có đa dạng loài động vật nhỏ là thức ăn cho rết. Kết quả cũng cho thấy sự đa dạng lớp chân môi ở các sinh cảnh của khu vực nghiên cứu ở mức trung bình (1 ≤ H’ ≤ 3).
87 Hình 2. Sự phân bố các loài rết theo mùa ở khu vực nghiên cứu
Chỉ số đa dạng sinh học H’ và chỉ số đồng đều J’
Về chỉ số đồng đều J’ cho thấy cao nhất là ở sinh cảnh khu dân cư + đất nông nghiệp (0,91), tiếp đến là sinh cảnh rừng tre nứa (0,88), hai sinh cảnh rừng hỗn giao và rừng cây gỗ có độ đồng đều giống nhau (0,79). Điều này cho thấy sự sai khác về mật độ giữa các loài rết ở sinh cảnh khu dân cư + đất nông nghiệp là thấp nhất (bảng 3).
Bảng 3. Chỉ số đa dạng H’ và chỉ số đồng đều J’ ở các sinh cảnh của khu vực nghiên cứu
Số loài Số cá thể J’ H’
Khu dân cư + đất nông nghiệp 5 9 0,91 1,47
Rừng tre nứa 5 11 0,88 1,41
Rừng hỗn giao 10 33 0,79 1,81
Rừng cây gỗ 8 43 0,79 1,64
3. Kết luận
Đã ghi nhận ở khu vực nghiên cứu 13 loài và phân loài rết thuộc 2 bộ Scolopendromorpha và Scutigeromorpha. Bộ Scolopendromorpha có 12 loài và phân loài thuộc 7 giống, 3 họ (Cryptopidae, Scolopendridae, Scolopocryptopidae); Bộ Scutigeromorpha có 1 loài thuộc 2 giống, 1 họ (Scutigeridae). Bổ sung cho khu hệ rết Tây Bắc 1 loài là Cryptops spinipes. Vào mùa mưa số lượng loài và phân loài ghi nhận nhiều hơn mùa khô (mùa mưa ghi nhận 11 loài và phân loài, mùa khô ghi nhận được 6 loài và phân loài).
Giữa các sinh cảnh ở khu vực nghiên cứu, so sánh sự tương đồng về thành phần loài cho thấy: Khu dân cư + đất nông nghiệp tách thành một nhánh riêng biệt. Ba sinh cảnh còn lại là rừng tre nứa, rừng hỗn giao và rừng cây gỗ có độ tương đồng gần nhau hơn.
Rừng hỗn giao có chỉ số đa dạng cao nhất (H'= 1,81), tiếp đến rừng cây gỗ (H' = 1,64) rồi đến khu dân cư và đất nông nghiệp (H' = 1,47), thấp nhất là rừng tre nứa (H' = 1,41).
0 2 4 6 8 10 12
Số loài Số giống Số họ
Mùa mưa Mùa khô
Bậc phân loại
Số lượng
88
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi đề Quỹ phát triển khoa học và Cộng nghệ quốc gia Việt Nam (NAFOSTED) thuộc đề tài mã số: 106-NN.05-2016.16.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương, 2000. Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược. Phần II: Động vật làm thuốc. Nxb Y học.
[2]. Yang S., Xiao Y., Kang D., Liu J., Li Y., . Undheim A. B. E, Klint K. J., Rong Q.
M., Lai R., and King F. G., 2013. Discovery of a selective NaV1.7 inhibitor from centipede venom with analgesic efficacy exceeding morphine in rodent pain models.
PNAS, 110 (43), pp. 17534–17539. Doi: 10.1073/pnas.1306285110.
[3]. Tran T. T. B, Le X. S., Nguyen D. A., 2013. An annotated checklist of centipedes (Chilopoda) of Vietnam. Zootaxa 3722 (2), pp. 219–244.
[4]. Tổng cục lâm nghiệp, 2013. Vườn Quốc gia Việt Nam. Công ty cổ phần in La Bàn.
[5]. Ghiliarov M. S., 1975. Method for studing on Mesofauna. Moscow Science Publishing House, Rusia.
[6]. Mesibov R., Churchill T. B., 2003. Patterns in pitfall captures of millipedes (Diplopoda: Polydesmida: Paradoxosomatidae) at coastal heathland sites in Tasmania.
Australian Zoologist 32 (3), pp. 431–438.
[7]. Attems C., 1930. Myriopoda. 2. Scolopendromorpha. Das Tierreich, 54, pp. 1–308.
[8]. Attems C., 1938. Die von Dr. C. Dawydoff in französisch-Indochina gesammelten Myriopoden. Mémoires du Muséum National d’Histoire Naturelle, (N.S.) 6, pp. 187–
353.
[9]. Attems C., 1953. Myriopoden von Indochina. Expedition von Dr. C Dawydoff (1938- 1939). Mémoires du Muséum National d’Histoire Naturelle, (Nouvelle Serie, Série A, Zoologie) 5(3), pp. 133-230.
[10]. Schileyko A. A., 1992. Scolopenders of Viet-Nam and some aspects of the system of Scolopendromorpha (Chilopoda: Epimorpha). Part 1. Arthropoda Selecta, 1, pp. 5–19.
[11]. Schileyko A. A., 1995. The scolopendromorph centipedes of Vietnam (Chilopoda:
Scolopendromorpha). Part 2. Arthropoda Selecta, 4, pp. 73–87.
[12]. Schileyko A. A., 1998. Some Chilopoda from Sa Pa and Muong Cha, North Vietnam.
Biological diversity of Vietnam. Data on zoological and botanical studies in Fansipan Mountains (North Vietnam), pp. 262–270 [in Russian].
[13]. Schileyko A. A., 2007. The scolopendromorph centipedes (Chilopoda) of Vietnam, with contributions to the faunas of Cambodia and Laos. Part 3. Arthropoda Selecta, 16, pp. 71–95.
[14]. Trần Thị Thanh Bình, Nguyễn Đức Hùng, Hà Thị Kiều Loan, Vũ Thu Hà, 2018.
Những dẫn liệu đầu tiên về rết thuộc bộ Scolopedromorpha và Scutigeromorpha (Chilopoda) ở Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Xùa, tỉnh Sơn La, Việt Nam. Tạp chí Sinh học 40(1), tr. 100–107.
[15]. Hung N. D., Anh H. N., Chinh D. Q. T., Binh T. T. T., 2018. Preliminary data on centipedes (Chilopoda: Scolopendromorpha, Scutigeromorpha) in Thuong Tien natural reserve, Hoa binh province. The 3rd National Conference of Scientists on Biological Research and Teaching in Vietnam, pp. 533–540.
89 ABSTRACT
Data on species composition and distribution of centipedes (Chilopada:
scolopendromorph, scutigeromorpha) in Hoang Lien national park, Vietnam Nguyen Duc Hung1, Do Duc Quan1, Tran Thi Thanh Binh1,4
Vu Thi Ha2, Nguyen Duc Anh2 and Lê Xuân Sơn3
1 Faculty of Biology, Hanoi National University of Education
2 Institute of Ecology and Biological Resources, VAST
3Institute of Tropical Ecology, Vietnamese - Russian Tropical Center
4Soil organism Research Center, Hanoi National University of Education A study on centipedes was conducted in Hoang Lien National park in May and November in 2018. Samples were collected in four typical habitats: woody forests, bamboo forests, mixed forests and residential area + agricultural lands. As a result, a total of 13 species and subspecies in two orders (Scolopendromorpha and Scutigeromorpha) was recorded in that region. Of which, the order Scolopendromorpha has 12 recorded species and subspecies belonging to 6 genera, 3 families (Cryptopidae, Scolopendridae, Scolopocryptopidae). The other order, Scutigeromorpha, has one species in one family (Scutigeridae). The study results also contributed new records of 1 species to the centipede fauna of the Northwestern part of Vietnam (Cryptops spinipes). Among habitats in the study area, woody forest and mixed forest have the highest similarity in species composition (64.45%), the lowest is a residential area + agricultural land with mixed forest (35.65%). The biodiversity index (H’) shows that in the study area, the diversity of centipedes belongs to Scolopendromorpha and Scutigeromorpha in the average level; of which, mixed forests are most heterogeneous (1.81), then woody forests (1.64) and the lowest is a bamboo forest (1.41). The residential areas + agricultural land have low centipede diversity (1.47). The homogeneous index J’ shows the highest in residential areas + agricultural land (0.91), followed by habitat of bamboo forest (0.88). Mixed forest and woody forests have the same homogeneous index (0.79). In addition, the number of species recorded in rainy season was higher than that in dry season.
Keywords: Composition of centipedes, Hoang Lien, Scolopendromorpha, Scutigeromorpha.