NghêLuột
GIẢI QUYẾT TRANH CHAP Bồl THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH VI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI
Nguyên Thị An Na1
1 Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
2 Thạc sỹ, Giảng viên Cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp.
3 https://sosmoitruong.com/co-nhung-rao-can-phap-ly-nao-trong-viec-xac-dinh-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai- do-o-nhiem-moi-truong-doi-voi-hoat-dong-san-xuat-kinh-doanh/.
Ngô Thị Thu Huyền12
Tóm tắt: Cùng với sự phát triển của xã hội thì vấn đề ó nhiễm môi trường ngày càng trở nên trâm trọng đặc biệt là trong những năm gân đây trách nhiệm cùa pháp nhân thương mại trong vân đê mội trường được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Trong phạm vi bài viêt, tác giả đưa ra một sô hạn chê trong giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại do hành vi gây ó nhiễm môi trường gây ra của pháp nhãn thieơng mại theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và Bộ luật Tổ tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015.
Từ đó tác giả đê xuầt một số những giải pháp đế khắc phục những hạn chế.
Từ khóa: Ồ nhiêm môi trường, giải quyết tranh chấp, hành vi gãy ô nhiễm môi trường của pháp nhãn thương mại.
Nhận bài: 09/6/2022; Hoàn thành biên tập: 17/6/2022; Duyệt đăng: 18/7/2022.
Abstract: Along with the development of society, the problem of environmental pollution has become more and more serious, especially in recent years, the responsibility of commercial legal entities in environmental issues has attracted special attention from the public.. Within the scope of the article, the author makes a number of limitations in the settlement of disputes for compensation for damage caused by acts of environmental pollution by commercial legal entities in accordance with the provisions of the Law on Environmental Protection in 2020 and Civil Code 2015. From there, the author offers solutions to overcome the limitations.
Keywords: Environmental pollution, dispute settlement, acts of causing environmental pollution by commercial legal entities.
Date of receipt: 09/6/2022; Date of revision: 17/6/2022; Date of Approval: 18/7/2022.
1. Khái quát thực trạng tranh châp yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân thương mại gây ra
Trong thời gian qua, vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng, làm phát sinh và gia tăng các tranh chấp môi trường giữa một bên là doanh nghiệp gây ô nhiễm và bên còn lại là người dân bị thiệt hại. Tiêu biểu là một số vụ việc chứng minh cho tình trạng ô nhiễm môi trường trong sản xuất, kinh doanh tác động đến đời sổng của người dân nhưng doanh nghiệp lại tìm cách từ chối trách nhiệm hoặc đền bù không thoả đáng như: việc xử lý vi phạm đổi với Công ty TNHH Formosa Hà
Tĩnh gây ô nhiêm môi trường 04 tỉnh miên Trung, từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế vào tháng 04/2016; việc xử phạt và yêu cầu khắc phục hậu quả thiệt hại của Công ty cổ phần đầu tư Royal tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên về ô nhiễm khí thãi của Công ty này tháng 10/2017; việc xử lý vi phạm trong xả thải chưa qua xử lý ra sông Bưởi của Công ty cổ phần Mía đường Hoà Bình tại xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình năm 2016 và những năm gần đây3.
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020, việc bôi thường thiệt hại vê môi trường có được thực hiện theo 3 phương thức: thông qua hòa giải; giải quyết
HỌC VIỆN Tư PHÁP
tranh chấp bằng trọng tài; giải quyết bằng tòa án. Trên thực te phương thức giải quyết thông qua trọng tài hầu như ít được áp dụng vì pháp luật chưa quy định cụ thể cơ quan trọng tài nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nàỵ. Các tranh châp vê bôi thường thiệt hại vê môi trường phương thức thỏa thuận, thương lượng, hòa giải ngoài tố tụng là phương thức thường được các bên sử dụng nhiều nhất, số lượng vụ án được giải quyết ở tòa án là số lượng rất nhỏ so với hành vi gây ô nhiễm môi trường cùa pháp nhân thương mại trên thực tế. Theo số liệu thống kê của Quốc hội, tính đến ngày ngày 16/10/2019, cơ quan Nhà nước phát hiện 22.535 vụ vi phạm pháp luật về môi trường với 2.782 tổ chức và 20.663 cá nhân vi phạm. Tuy nhiên các cơ quan điều tra mới chỉ khởi tố 355 vụ, 395 bị can, xử lý hành chính 19.600 trường hợp4. Trong khi đó, vụ án dân sự được tòa án giải quyết rất ít. Trước đây cũng có một vài vụ kiện nhỏ liên quan tới hành vi gây ô nhiễm môi trường hoặc gây suy thoái môi trường mà Tòa án đã giải quyết như: vụ án khởi kiện Công ty Ba Lá Xanh (do Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết); vụ án bồi thường thiệt hại do ruộng bị nhiễm phèn ở TP. Hồ Chí Minh; vụ bồi thường cá chết ở Thốt Nốt (Cần Thơ)5.
4 Báo cáo số 503 ngày 16/10/2019 của các cơ quan trình Quốc hội.
5 http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208252.
6 http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208252.
Trong các vụ án dân sự, chủ thê khởi kiện thường chỉ là các cá nhân, tập trung một số địa phương tình trạng gây ô nhiễm môi trường của các pháp nhân thương mại diễn ra thường xuyên với mức độ nghiêm trọng như Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bắc Giang... Và chủ yếu liên quan đến hành vi xả nước thải, khí thải độc hại gây ô nhiễm như lúa chết vì khói lò gạch, cá chết do nước thải ô nhiễm... Nhìn chung, khi bị thiệt hại, đa số người dân vẫn chưa có ý thức về quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong trường hợp hiếm hoi có một so ít người dân lên tiếng đòi chủ thể gây ô nhiễm bồi thường thì họ cũng chỉ lên tiếng với tư cách cá nhân. Mặt khác, đối với trường hợp một cộng đồng cùng bị thiệt hại có số đông
người đưa ra yêu cầu bồi thường thì người dân cũng chỉ tiến hành việc khiếu kiện riêng lẻ, mà chưa tập hợp nhau lại để tạo nên một sức mạnh tập thể lớn hơn để tạo áp lực lên chủ thể gây thiệt hại và tạo tiếng nói trong cộng đồng.
Sự hồ trợ của chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng có thâm quyền về lĩnh vực môi trường trong việc thu thập chứng cứ giúp người dân do pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường còn hạn chế. Thực tế cho thấy, khi có hành vi xâm phạm các nguồn tài nguyên như đất đai, rừng núi... các cơ quan có thẩm quyền thường chỉ áp dụng biện pháp xử lý hành chính (phạt tiền, buộc đình chỉ hoạt động, khắc phục hậu quả...) hoặc nếu ô nhiễm nghiêm trọng thì xử lý hình sự đối với người có hành vi vi phạm (mà hiện nay, việc này rất khó có thể thực hiện) còn yêu cầu đòi bồi thường thì chưa có. Trong khi đó, các khoản tiền bồi thường thiệt hại về môi trường là không hề nhỏ, có thể lên đến hàng chục, hàng trăm tỳ đồng. Đây là một nguồn tài chính rất quan trọng dùng để phát triển Quỹ bảo vệ môi trường ở các địa phương. Thậm chí, trước tình trạng cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, thay vì việc đứng ra khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại thì ngược lại, Nhà nước lại trở thành chủ thể đứng ra khắc phục hậu quả do doanh nghiệp gây ra. Điều này đã làm cho nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả tiên” dường như không còn giữ được ý nghĩa của nó trong thực thi pháp luật môi trường ờ nước ta. Việc xử lý vụ ô nhiễm kênh Ba Bò giáp ranh Bình Dương và TP. Hồ Chí Minh bằng ngân sách nhà nước (hơn 300 tỉ đồng, sau tăng lên 744 tỉ đồng) đã thể hiện sự “hào phóng” của Nhà nước đối với các chủ thể gây ô nhiễm cho dòng kênh này6.
Việc được bồi thường một cách kịp thời có ý nghĩa rất lớn đối với người bị thiệt hại nhưng không được thực hiện đầy đủ trong khi thời gian giải quyết một vụ án tranh chấp về môi trường thường kéo dài nhiều năm. Ví dụ như
NghêLuqt
vụ tràn dầu tại Vịnh Gành Rái, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vào tháng 9/2001 kéo dài trong hơn 6 năm; vụ yêu cầu Công ty Men Mauri Việt Nam và Công ty cổ phần Mía đường La Ngà (Đồng Nai) bồi thường kéo dài trong 1,5 năm mới có kết quả; và vụ án hơn 6.000 nông dân yêu cầu Công ty Vedan bồi thường kéo dài gần hai năm... Đó là chưa kể đến một khoảng thời gian không ngắn để số tiền bồi thường có thể đến được tay của người bị thiệt hại. Điều này sẽ kéo theo những thiệt hại không nhỏ cho người dân bên cạnh những tổn thất phát sinh trực tiếp từ hành vi gây ô nhiễm môi trường7.
7 http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=20825.
Việc giải quyết vấn đề “sau franh chấp” vẫn đang gặp nhiều rắc rối ở không ít các địa phương sau khi tiền bồi thường thiệt hại được chi trả. Vấn đề phân chia tiền bồi thường cho các hộ dân bị thiệt hại cũng như giải quyết mối quan hệ sau tranh chấp giữa chủ thể ủy quyền và chủ thể đại diện đã tạo ra không ít những bức xúc trong cộng đồnẹ, dẫn đến việc khiếu kiện này lại tiếp nối khiếu kiện khác, gây nên tình trạng bất ổn trong xã hội.
Đe lý giải cho những thực trạng giải quyết tranh châp vê ô nhiêm môi trường nêu trên, Trong bài viết này tác giả tập trung nghiên cứu, luận giải về những hạn chế nhằm đề xuất kiên nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong việc giải quyêt tranh châp bôi thường thiệt hại dân sự của pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường.
2. Những hạn chế trong việc giải quyết tranh châp bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân thưong mại
Thứ nhất, về xác định quyền khởi kiện tập thể.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác có thể trực tiếp yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Pháp luật hiện hành chưa quy định quyền khởi kiện tập thể trong lĩnh vực môi trường. Tranh chấp tập thể sẽ phát sinh khi một bên gây thiệt hại cho nhiều cá nhân, tô
chức cùng một lúc. Bên gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường cho tập thể cá nhân, tổ chức bị vi phạm nhưng hệ thong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam chưa có cơ chế thích hợp để giải quyết những yêu cầu này. Pháp luật tụng dân sự hiện hành mới chỉ có quy định về giải quyết tranh chấp tập thể trong lĩnh vực lao động mà chưa mở rộng ra những lĩnh vực khác như môi trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Điều 42 BLTTDS năm 2015 có quy định về nhập, tách vụ án. Tuy nhiên, việc nhiều vụ án có được nhập vào với nhau hay không chưa có quy định pháp luật rõ ràng và thực tiền áp dụng chưa thống nhất. Trong khi chưa có quy định pháp lý về khởi kiện tập thể, thời gian kéo dài, chi phí tốn kém để theo đuổi những vụ kiện đơn lẻ khiên những người chịu thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân thương mại sẽ nản lòng và không lựa chọn giải quyết tranh chấp ở tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Thứ hai, không có chế tài phù hợp để ràng buộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ người dân thu thập chứng cứ.
Pháp luật quy định, vì lợi ích cộng đồng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm hồ trợ người dân, tổ chức xác định thiệt hại, thu thập chứng cứ, thực hiện nghĩa vụ chứng minh và khởi kiện, tham gia tố tụng. Tuy nhiên theo Điều 131 Luật BVMT năm 2020 thì đây chi là “trách nhiệm” của UBND các cấp, Sở Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Luật BVMT năm 2020 chưa quy định đây là trách nhiệm bắt buộc phải thực hiện của những chủ thể này khi có yêu cầu từ người dân cũng như khi có hành vi gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân thương mại ảnh hưởng đến môi trường sống, môi trường tự nhiên của cộng đồng, đồng thời cũng không quy định chế tài được áp dụng đôi với việc không thực hiện những trách nhiệm trên của các chủ thể liên quan.
Thứ ba, về các các phương thức giải quyết tranh châp. Theo quy định của pháp luật hiện
o
HỌC VIỆN Tư PHÁP
hành, cá nhân, tổ chức, chủ thể khác bị thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác do ô nhiễm môi trường nếu không thể thỏa thuận được có thể giải quyết thông qua hình thức: hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, giải quyết tranh chấp bằng tòa án. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quy định của pháp luật còn có những hạn chế ở mồi phương thức giải quyết dẫn đến khó khăn cho người thiệt hại khi lựa chọn hình thức giải quyết phù hợp. Hiện nay phương thức giải quyết tranh- chấp được bên bị thiệt hại và pháp nhân thương mại lựa chọn nhiều nhất là hình thức thương lượng. Mặc dù vậy, giải pháp thương lượng trong trường hợp tranh chấp về môi trường lại thường không phải là giải pháp tối ưu. Khác với nhiều loại tranh chấp khác, các tranh chấp về môi trường đòi hỏi phải được giải quyết nhanh chóng bởi những thiệt hại này càng kéo dài càng khó khắc phục hậu quả.
Trong khi đó, quá trình thương lượng luôn phụ thuộc vào thiện chí của các bên. Do đó, việc giải quyết tranh chấp có thể kéo dài gây khó khăn cho xác định thiệt hại, các khoản bồi thường. Mặt khác, quá trình đàm phán là quá trình thiếu minh bạch, thường được thực hiện bởi các chủ thể đại diện và đôi khi lại bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị và lợi ích. Các bên có thể đạt được giải pháp cho tranh chấp nhưng do những hạn chế nêu trên của việc đàm phán giải quyết tranh chấp mà giải pháp đưa ra chưa chắc đã tốt cho môi trường, chủ thê bị thiệt hại, nhất là đổi với những người dân phải chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các vấn đề về ô nhiễm môi trường. Vì thế người dân cần được bảo vệ trước hết là có quyền được tiếp cận thông tin và được có tiếng nói trong quá trình giải quyết tranh chấp. Giải pháp thương lượng giữa các bên nhiêu khi không đảm bảo cho họ những quyền này. Trong khi đó, phương thức hòa giải đang có nhiều vướng mắc do thiếu các quy định cụ thể và thống nhất về cơ chế giải quyết. Hiện nay, Chính phủ đã có Nghị định vê hòa giải nhưng đối tượng điêu chỉnh của nghị định này là những tranh châp thương mại8.
8 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 22/7/2017 vê hòa giải thương mại.
Ngoài ra, Nhà nước ban hành Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013. Tuy nhiên, không thấy quy định cụ thể đối tượng tranh chấp về môi trường chịu sự điều chỉnh của Luật này. Vì thế không biết tổ chức nào sẽ đảm nhiệm thực hiện phương thức này cho các bên, bảo vệ người bị thiệt hại.
Thứ tư, về việc xác định thành phần môi trường, thiệt hại phát sinh khi có hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường là vấn đề không đơn giản ngay cả ở những nước phát triển, nơi mà lý thuyết về lượng giá các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố môi trường đã được định hình và củng cố. Tại Việt Nam, cả từ phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy sự chưa đầy đủ về mảng kiến thức này. Luật BVMT năm 2020 xác định một trong những thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường là sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Tuy nhiên luật chưa làm rõ thế nào là suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, về xác định thành phần môi trường bị thiệt hại, Luật BVMT năm 2020 quy định thiếu cụ thể, khó áp dụng trên thực tiễn vì không phải thành phần môi trường nào cũng có thể dễ dàng xác định được thiệt hại. Ví dụ như không khí, âm thanh, ánh sáng... Ngay cả việc có xem môi trường không khí là đối tượng thiệt hại được tính bồi thường hay không cũng là vấn đề chưa hoàn toàn đạt được sự thống nhất ý kiến. Do đặc tính khuếch tán của môi trường không khí nên khó có thể tính toán được thiệt hại đối với yếu tố môi trường này như các yếu tổ môi trường khác. Tương tự, thiệt hại đối với đa dạng sinh học cũng cần phải giới hạn ở những thiệt hại vê hệ sinh thái, loài sinh vật do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên.
Điều này để phân biệt với thiệt hại về đa dạng sinh học do hành vi trực tiếp xâm hại đên các giông loài sinh vật, hệ sinh thái, mà về bản chất pháp lý những thiệt hại đó là hậu quả của hành vi vi phạm các quy định của
NghẽLuãt
pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học chứ không phải là hành vi vi phạm pháp luật môi trường9.
9 https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/boi-thuong-thiet-hai-do-o-nhiem-suy-thoai-moi-truong-5520/.
10 https://phaply.net.vn/thiet-hai-do-o-nhiem-moi-truong-kien-nghi-doanh-nghiep-phai-chung-minh-thay-vi-nguoi- bi-thiet-hai-phai-chung-minh-a213582.html.
Trong số những căn cứ để tính toán thiệt hại quy định tại Điều 134 Luật BVMT năm 2020 thì căn cứ vào chi phí xử lý, cải tạo môi trường và chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nệuồn gây thiệt hại hoặc tổ chức ứng phó sự cô môi trường, chi phí xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục bồi thường thiệt hại về môi trường được xem là có tính khả thi trong việc xác định thiệt hại cũng như cho việc áp dụng trách nhiệm bôi thường. Các căn cứ còn lại như tính toán chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường khó áp dụng trong điều kiện hiện tại của Việt Nam. Tính toán thiệt hại thông qua chi phí giảm thiêu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại được hiểu là thiệt hại gây ra cho môi trường được tính bằng tổng chi phí cho các nguôn gây ô nhiêm đê đạt ở mức được thải ra môi trường mà không gây ô nhiễm. Tính toán thiệt hại môi trường thông qua chi phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường được hiểu là bên gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường một khoản bằng chi phí bỏ ra để xử lý ô nhiễm, để loại bỏ các yếu tố độc hại có trong thành phần môi trường như chi phí để xử lý, cải tạo đất bị ô nhiễm, để phục hồi độ phì nhiêu của đất; chi phí để nạo vét kênh rạch, sông, hồ, làm sạch môi trường nước...
Trong khi đó để được bồi thường, người bị thiệt hại phải chứng minh được thiệt hại xảy ra nêu trên do hành vi gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân thương mại. Điều này đặt ra rào cản cho việc tiếp cận công lý của người bị thiệt hại và khó khăn cho việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật cũng như các khó khăn khác đi kèm để xác định thiệt hại yêu cầu pháp nhân thương mại bồi thường. Trong các vụ ô nhiễm môi trường thiệt hại có thể gây ra cho nhiều người, trên phạm vi rộng như vụ cháy Công ty Rạng Đông; vụ Formosa Hà Tĩnh ... Trong khi
đó để xác định được thiệt hại, phải thuê tổ chức giám định thiệt hại, mất chi phí, mất thời gian.
Tuy nhiên, không phải trường họp nào cũng có thê xác định chính xác con số thiệt hại cụ thể.
Nhiều trường hợp thiệt hại không xuất hiện ngay mà để di chứng cho các thế hệ sau. Vì thế để được chấp nhận yêu cầu, hầu hết người bị thiệt hại lại là người dân không đủ tiềm lực tài chính, khả năng hiêu biết để thu thập được những cứ này10.
Thứ năm, việc áp dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời.
Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời đã trở thành nguyên tắc luật định, song trong lĩnh vực môi trường, thiệt hại do hành vi gây ra ô nhiễm môi trường có thể không gây thiệt hại ngay khi cá nhân, tô chức thực hiện hành vi mà nó được tích lũy qua một thời gian dài mới làm phát sinh thiệt hại. Vì thế, thiệt hại đó có thể ảnh hưởng đến cả một khu vực, cả một vùng dân cư. Hơn nữa, do giá trị của các thiệt hại về môi trường thường rất lớn và khó xác định nên trong đa số trường hợp việc áp dụng trách nhiệm bôi thường toàn bộ và kịp thời các thiệt hại là điêu khó có thể thực hiện được trên thực tế.
Thứ sáu, xác định trách nhiệm bồi thường khi có nhiều chủ thể gây thiệt hại.
Nhiều người cùng gây thiệt hại cũng là tình trạng khá phô biên trong lĩnh vực môi trường.
Luật BVMT năm 2020 quy định trong trường hợp có 02 tô chức, cá nhân cùng gây thiệt hại thì cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm phối họp với các bên liên quan đe làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường. Tuy nhiên, trên thực tê không dễ dàng xác định chính xác mức độ gây hại đến môi trường của từng đối tượng. Bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau là giải pháp đã được pháp luật dân sự tính đến trong trường hợp này. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về đối tượng gây thiệt hại sẽ giúp các tổ chức, cá nhân nâng cao hơn trách nhiệm bảo vệ
HỌC VIỆN Tư PHÁP J
môi trựờng cũng như nâng cao năng lực tự bảo vệ mình trong lĩnh vực này. Ngoài ra, cũng cần tính đến tình huống không áp dụng được trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các đối tượng chỉ vì đơn giản thiệt hại môi trường là kết quả của hiện tượng tích tụ và cộng dồn các ảnh hưởng tới môi trường. Trong khi từng đôi tượng lại tác động không quá mức giói hạn tới môi trường11.
Thứ bảy, việc áp dụng thời hiệu yêu câu bồi thường thiệt hại do ô nhiễm mỗi trường.
BLDS năm 2015, Luật BVMT năm 202012 quy định thời hiệu khởi kiện tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (BTTHNHĐ) (trong đó có tranh chấp về bồi thường do ô nhiêm môi trường) là 03 năm kê từ ngày biêt được hoặc buộc phải biệt được quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Thời diêm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là thời điểm biết được quyên và lợi ích bị xâm phạm. Nhưng để xác định thời điểm người có quyền buộc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì không phải là việc dễ, nhất là trong trường hợp chưa có bất kỳ một văn bàn pháp luật nào hướng dẫn những nội dung này. Tránh trường hợp người bị thiệt hại do hành vi gây ô nhiêm môi trường cho răng mình không biết để hưởng lợi về thời hiệu và tạo điều kiện để tòa án, bị đơn có thể suy đoán bàng những căn cứ rõ ràng nguyên đơn không thê không biết thì cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn nội dung này. Ngoài ra, thời hạn ba năm được quy định thời hiệu khời kiện trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường là không đủ để bảo đảm quyền lợi của chủ thể bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người; tài sản và lợi ích hợp pháp khác do ô nhiễm môi trường gây ra. Nhất là frong những vụ việc ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng lâu dài đến cộng đồng, hậu quả không chì đối với một thế hệ mà còn nhiều thế hệ.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh châp bôi thường thiệt hại dân sự của pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự của pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Pháp luật cần có thêm quỵ định về quyền khởi kiện tập thể cho chủ thể bị thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân để đảm bảo quyền lợi cho tất cả những người thiệt hại và làm cho quá trình tô tụng giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, đảm bảo nguyên tắc bồi thường thiệt hại kịp thời, toàn bộ cho người thiệt hại. Có thể tham khảo cách thực hiện quy định về quyền khởi kiện tập thể trong tranh chấp về ô nhiễm môi trường như sau: khi nhận một đơn khởi kiện, tòa án sẽ có một thông báo rộng rãi về nội dung liên quan cho người dân ở khu vực ô nhiễm môi trường biết. Điều này giúp cho những người bị thiệt hại còn lại biết đến vụ việc và có thê đăng ký tham gia làm bên nguyên đơn. Tiếp theo, người chịu thiệt hại không cần chuẩn bị toàn bộ hồ sơ khởi kiện mà chỉ cần khai một mầu đăng ký có sẵn và tài liệu chứng minh mình cũng thuộc phạm vi chịu thiệt hại từ vụ việc. Kẻ cả khi tòa án thụ lý vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xữ, một người mới cũng có thể tham gia vào bên nguyên đơn nếu chứng minh được mình cũng là đối tượng chịu thiệt hại. Sau đó, tập thê bên nguyên đơn sẽ chọn ra người đại diện cho mình, và người này sẽ đại diện cho tất cả những người đã chịu thiệt hại từ vụ việc. Một số quốc gia có giới hạn số người đại diện không quá 03 người. Tại một sô nước, Tòa án sẽ có người hồ trợ bên nguyên cử đại diện cho phù hợp. Và trong quá trình tòa án giải quyết vụ án, bị đơn là pháp nhân thương mại chi được phép tiếp xúc với người đại diện của bên nguyên chứ không được phép tiếp xúc trực tiếp với từng cá nhân đơn lẻ của bên nguyên13.
Nhà nước cần có những quy định cụ thể để tăng tính ưu việt của các phương thức giải quyết trách chấp về ô nhiễm môi trường như:
cân nghiên cứu quy định rõ cơ quan trọng tài
11 https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/boi-thuong-thiet-hai-do-o-nhiem-suy-thoai-moi-truong-5520/. 12 Điều 588 BLDS năm 2020; khoản 3 Điều 162 Luật BVMT năm 2020.
13 https://thanhnien.vn/chao-buoi-sang/da-den-luc-phai-co-khoi-kien-tap-the-1138676.html
o
NghêLuột
nào được tham gia vào quá trình giải quyết việc bôi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường cũng như thẩm quyền quy trình thành lập, giải quyêt tranh châp vê môi trường của trọng tài khi có yêu càu.
Ngoài ra, những quy định giảm nhẹ các điều kiện khởi kiện, nghĩa vụ chứng minh thiệt hại cho người bị thiệt hại để đảm bảo quyền lợi của họ cần được nghiên cứu pháp điển hóa trong luật. Theo đó, khi có thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra chỉ cần có cơ sở xác địrih chủ thể nào đó gây ô nhiễm môi trường thì chủ thể bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu chủ thể gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại và Tòa án phải thụ lý giải quyết. Trong quá trình tranh tụng, nghĩa vụ chứng minh được chuyển sang chủ thể bị yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ thể này phải chứng minh mình không có hành vi vi phạm pháp luật môi trường và không gây ra thiệt hại trên. Đây cũng là kinh nghiệm áp dụng của Trung Quốc trong việc xây dựng pháp luật bảo vệ người bị thiệt hại trong các vụ án về ô nhiễm môi trường. Điều 65 Luật Điều chỉnh các vi phạm dân sự năm 2009 của Trung Quốc quy định: “Với bất cứ thiệt hại nào gây ra bởi ô nhiễm môi trường, người gây thiệt hại phải gánh trách nhiệm pháp lý do vi phạm" hay Điều 66 của Luật này quy định: “Lới bất kỳ vụ tranh chap nào về vấn để ô nhiễm môi trường, chủ thể gây ô nhiễm sẽ chịu trách nhiệm chứng minh các cáo buộc là không có căn cứ hay đưa ra quyền miên
giảm trách nhiệm pháp lý với các trường hợp cụ thế được luật quy định cùng với việc chứng minh không có mối liên hệ giữa thiệt hại xảy ra và hành vi cùa chủ thể này". Với quy định này, chủ thể yêu cầu bồi thường thiệt hại sẽ không phải chứng minh cho yêu cầu của mình, không phải chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường với những thiệt hại xảy ra mà trách nhiệm đó sẽ thuộc về bên chủ thể bị yêu cầu bồi thường thiệt hại trong các tranh chấp về môi trường14.
14 https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-do-gay-o-nhiem-moi-truong-cua- doanh-nghiep-kinh-nghiem-cua-trung-quoc-va-bai-hoc-cho-viet-nam.
15 Theo các nghiên cưu chung của Chướng trình môi trường Liên Hiệp quốc năm 2000 (ỤNEP), các cách thức xác định thiệt hại môi trường hiện được chia thành các nhóm sau: Một là, việc xác định giá trị tổn thất đối với môi trường được thực hiện bởi tòa an hoặc các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường; Hai la, xác định thiệt hại theo phương thức quy ra một khoản tiền co định. Cách thức này được áp dụng tại các nước Tây Ban Nha, Hungary, Mông Co và cáệ nước châu Mỹ La tịnh. Ví dụ: tại Tây Ban Nha, giá trị của một loại động vạt được định giá từ 2500 peseta lên đến 1,5 triệu pesets (đối với các động vặt có nguy cơ bị tuyệt chủng như gẫu, mèo rừng Iberia); cá nước ngọt có giá từ 100.000 đến 500.000 peseta...; Ba là, giao cho các viên chức hành chính hoặc chính quyền địa phường xác định thiệt hại. Tại Australia (các bang New South Wales và Victoria), cậc tổ chức quần chúng trong linh vực bàọ vệ môi trường có thể được giao xác đĩnh mức độ thiệt hại môi trường; Bon là, các phương thức đánh giá khác, điển hình làphường pháp Koch (được sử dụng rộng rãi tại Cộng hòa Liên bang Đức trông việc xác định những tổn thất đựợc boi hoàn đối với cây cối bị hủy hoại). Theo phương pháp này, chi phí bồi .thường thiệt hại môi trượng bao gồm: i) Chi phí (giá mua), thay thế cay mới; ii) Chỉ phí trong và chăm sóc ban đầu; iii) Chi phí phòng chống cho cây khoi bị nguy cơ bật gốc; iv) Chi phí chăm sóc thường xuyên; v) Tiền lãi từ những số tiền chỉ phí nêu trên theo quy tắc kể toán kinh doanh. Phương pháp này cũng được áp dụng phổ biến tại Bỉ https://thegioiluat.vn/bai- viet-hoc-thuat/boi-thuong-thiet-hai-do-o-nhiem-suy-thoai-moi-truong-5520/.
Nhà làm luật cần bổ sung các quy định về xác định thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường, trong đó cần lưu ý một số vấn đề sau:
phân định rõ thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ và môi quan hệ, tương tác hợp lý của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở Trung ương và địa phương trong việc xác định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường nhàm tránh những trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ; nghiên cứu quy định cụ thể thành phần môi trường nào có thể xác định được thiệt hại và phương pháp xác định thiệt hại áp dụng với từng thành phần môi trường, về cơ quan tô chức được tham gia giám định, pháp luật nên quy định cụ thê các cơ quan có quyền tham gia giám định thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Và đặc biệt, cần phải nghiên cứu đưa ra nhiều cách thức để xác định được thiệt hại có hiệu quả để xác định các khoản thiệt hại mà pháp nhân thương mại phải chịu15.
HỌC VIỆN Tư PHÁP
Thời hiệu khởi kiện bồi thường thiệt hại càn được nâng lên do hành vi các hành vi gây ô nhiễm môi trường xuất hiện trong một thời gian dài, khó phát hiện, nhất là thiệt hại về sức khoẻ. Đồng thời người dân phải mất một thời gian khá dài để thực hiện khiếu kiện tại các cấp chính quyền trước khi khởi kiện ra Tòa án. Do đó, pháp luật cần kéo dài thời hiệu khởi kiện (thay vì thời hiệu 03 năm như hiện nay) nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra. Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm quy định vê thời hiệu khởi kiện của một số quốc gia trên thế giới.
Pháp luật ở các nước Châu Âu thường quy định một thời hiệu kiện tương đối dài để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại. Ví dụ: Tại Pháp, Điều L. 152-1 Luật Môi trường của Pháp quy định thời hiệu 30 năm đôi với
“nghĩa vụ tài chính liên quan tới những thiệt hại gây ra đối với môi trường bởi các thiết bị, công trình và các hoạt động điều chỉnh bởi luật này...”. Và khi quy định thời hiệu khởi kiện như vậy, quyền tiếp cận công lý của bên bị thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra sẽ được bảo đảm hơn16.
16 https://nature.org.vn/vn/wp-content/uploads/2015/03/27122013_XulyviphamMT.pdf.
Hoàn thiện quy định về bảo hiểm trách nhiệm BTTHNHĐ do gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân thương mại. Điều 137 Luật BVMT năm 2020 đã có quy định về hoạt động ký quỹ bảo vệ môi trường, tuy nhiên chỉ có nhóm tổ chức cá nhân theo quy định tại khoản 2 Điều 137 mới phải có trách nhiệm. Vì thế, cần bổ sung thêm các nội dung cụ thể về bảo hiểm trách nhiệm do gây ô nhiễm môi trường cho các pháp nhân thương mại theo hướng: mở rộng quy định về danh mục đối tượng doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phải mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm bồi thường về môi trường; ban hành vãn bản pháp luật giải thích và hướng dẫn chi tiết về bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường, phân cấp gói bảo hiểm theo mức độ hoạt động kinh doanh
sản xuất cùng nguy cơ gây ô nhiễm của doanh nghiệp; ban hành quy định cụ thê thê hiện sự phổi hợp của Nhà nước trong hoạt động thẩm định, giám định, đánh giá thiệt hại với các bên tham gia bảo hiểm; quy định về những ưu đãi hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp kinh doanh loại hình bảo hiểm này,...
Thứ hai, hoàn thiện các công cụ, thiết chế nâng cao trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự của pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Nâng cao nhận thức của pháp nhân thương mại cũng như của người dân bằng cách hoàn thiện cơ chế cung cấp thông tin môi trường. Đe hạn chế được các rủi ro về hành vi gây ô nhiễm môi trường (trong đó có pháp nhân thưorng mại), thông tin môi trường là một trong những vấn đề được quan tâm.
Việc công khai, minh bạch đầy đủ các thông tin môi trường sẽ giúp cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, đồng thời chú trọng đổi mới hình thức thực hiện theo quy định của pháp luật và phù hợp với tình hình địa phương. Qua việc công bô thông tin, các luật chuyên ngành về môi trường được quy định cụ. Đồng thời, các hình thức công khai được chú trọng để mọi đối tượng được tiếp cận.
Các hình thức công khai, công bố thông tin như: niêm yêt tại trụ sở cơ quan Nhà nước, trên internet, thông qua cổng thông tin chính thức của cơ quan Nhà nước... là hình thức được quan tâm chỉ đạo thực hiện thời gian qua. Ví dụ: việc công khai thông tin về đất đai trên nhiều phương tiện giúp người dân có thể truy cập được thông tin mọi lúc mọi nơi, để người dân kịp thời tìm hiểu các quy định của pháp luật vê môi trường. Ngoài ra, hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác thu thập và sử dụng dữ liệu vê tài nguyên môi trường, những biến đổi về thành phần môi trường tạo cơ sở cho việc xác định ô nhiễm môi trường.
NghẽLuợt
Xây dựng tòa án chuyên trách về môi trường (trong đó có giải quyết các tranh chấp dân sự vê bôi thường thiệt hại do pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường). Hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia như Uc, Nam Phi, Mỹ (một sô tiêu bang), Bangladesh, Kuwait, Thụy Điển, New Zealand, Trung Quốc... đều theo đuổi mô hình Tòa án môi trường. Thực tế cho thấy, việc xét xử các tranh chấp môi trường tại Tòa án môi trường với sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực này đem lại hiệu quả cao hơn do tính chuyên môn hóa cao17.
17 Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của các nước thành lập tòa án chuyên trách về môi trường với những lý do sau: (i) Việc thành lập Tòa môi trường trong tình hình hiện nay là cần thiết và phù hợp với chủ trương của Đảng, quan điểm của Nhà nước về bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó còn thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường. Trên thế giới, có nhiều quốc gia đã theo đuổi mô hình Tòa án này và Việt Nam có thể triển khai theo hướng đó để áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp với hệ thống tư pháp quốc gia; (ii) Việc xây dựng Tòa án chuyên trách trong lĩnh vực môi trường sẽ giúp thống nhất các quan diêm và trình tự thủ tục xét xử đối với các tranh chấp môi trường đặc thù, tháo gỡ dàn các khó khăn và rào cản pháp lý phiền hà, tốn kém và giảm tải áp lực trách nhiệm đối với cơ quan quản lý trong quá trinh giải quyết các vụ án. Đặc biệt là các vụ việc có tính chất phức tạp, phạm vi rộng liên khu vực, thời gian tố tụng kéo dài, bị đơn là nhiều cá nhân, pháp nhân có cùng thiệt hại do hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Theo đó, Tòa án chuyên trách sẽ giải quyết những tranh chấp này theo thủ tục tố tụng đơn giản, khác biệt với trình tự tố tụng thông thường; (iii) Việc xây dựng Tòa án môi trường tạo tiền đề phân hóa, tập trung chuyên môn nhiệm vụ chuyên ngành cũng như kỹ năng xét xử cùa các thẩm phán, các chuyên gia kỹ thuật, tổ chức giám định, đánh giá thiệt hại môi trường, đánh giá đất đai, kiến trúc, xây dựng, khảo sát đo lường, quản lý nguồn tài nguyên... và các chủ thể nhà nước có liên quan trong lĩnh vực quàn lý môi trường, để có thể xử lý và giải qụyết các vụ việc môi trường một cách khoa học, hiệu quả; (iv) Bổ sung những quy định tạo sự liên thông giữa việc áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp xử lý hình sự với việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại tại các Tòa chuyên trách. Các quyết định xử phạt vi phạm hành chính được công bố công khai, các phán quyết hình sự của Tòa án phải được thừa nhận một cách mặc nhiên là chứng cứ về sự tồn tại của hành vi gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân thương mại và người bị thiệt hại không cần phải chứng minh tính bất hợp pháp của các hành vi đó trong các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-do-gay-o-nhiem-moi-truong-cua-doanh- nghiep-kinh-nghiem-cua-trung-quoc-va-bai-hoc-cho-viet-nam.
Tăng cường đối thoại với pháp nhân thương mại và kiểm soát thực hiện bảo vệ môi trường. Việc đối thoại sẽ tạo cơ hội để doanh nghiệm chia sẻ những vướng mắc về xử lý môi trường đồng thời cơ quan quản lý nhà nước địa phương nắm rõ tình hình và có giải pháp hỗ trợ giải quyết vướng mắc của doanh nghiệp để phối hợp quản lý môi trường. Công tác giám sát chặt chẽ của cán bộ cơ quan chức năng quản lý môi trường đối
với các doanh nghiệp trên địa bàn sẽ ngăn chặn và giảm thiểu được việc doanh nghiệp không tuân thủ cam kết về báo vệ môi trường, không thực hiện tốt việc báo cáo định kỳ đánh giá tác động môi trường, không đầu tư đúng mức hệ thống xử lý chất thải ra môi trường....Từ đó tránh được các vi phạm gây ô nhiễm môi trường, tránh nảy sinh nhiều tranh chấp về môi trường giữa pháp nhân thương mại, ngươi dân và địa phương.
Cơ quan có thẩm quyền cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện những sai phạm, có sự quyết tâm cao, xử lý nghiêm minh, triệt để đối với các doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật để xảy ra ô nhiễm môi trường. Mặt khác, cũng cẩn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đen người dân để người dân có thể hiểu được những quyền và lợi ích hợp pháp của mình được pháp luật bảo vệ và nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội và ý nghĩa phát triển bền vững./.