Phát triển bền vững ở Việt Nam theo mô thức nền kinh tế tuần hoàn
Đào Thu Hà
Khoa Kế toán- Kiểm toán, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Hiện nay Việt Namđãtham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với nhiều cam kết về của Chính phủ trong việc thực hiệnchínhsáchnăng lượng bền vững,tiêu chuẩn antoànmôi trườngsinh thai, đangđòi hỏi kết quả thực tếchứngminh.Vìvậy, việc áp dụng mô hình kinhtế tuần hoàntạiViệtNam là xu hướng tất yếu nhằm hướng tới phát triển bền vững. Trong khuôn khổ bài viết này tác giả đưa ra nhừngkhái niệm vềkinhtếtuần hoàn đãđượcmột số nước thừa nhận và từđó nhằm nhận biết thực tại về nềnkinh tế tuần hoàntạiViệt Nam hiện nayđãvà đang thựchiện được những gì đểthựcsựlà nền KTTH màcác quốcgia tiên tiến trên thế giớiđã áp dụng.
1. Khái quát vê nềnkinh tế tuần hoàn
Kinh tế tuần hoànđược hiểu là một môhìnhkinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mụctiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác độngtiêu cực đến môi trường, ứng dụng KTTH sẽ giúp doanh nghiệpgiảmchi phí sảnxuất, tăng khả năng cạnh tranh và đưa tới cơ hội phát triển bền vững.
Bức tranh KTTH có thể hiểu đơn giản làlàm sao để nguyên vật liệu được đưavào sản xuất một cách phù hợp, sauđó tái sử dụng sản phẩm,phụphẩmvà vật liệu thảira mộtcách hiệuquả. Hay KTTH, chính là biến rác thải của ngành này thành nguồn tài nguyên của ngành khác. Và KTTH, cũngcó nghĩa là giảm thiểu, tái sử dụngvà táichế. Điều này cungcó nghĩa làphương thức tiêu thụ cũng cần thay đổi.
Có rất nhiều những khái niệm về KTTH nhưng khái niệm về KTTH được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tếthừa nhậnrộng rãi hiện nay là: "Nền KTTH là mộthệthống cótính khôi phục và tái tạo thông qua các kế hoạch và thiết kế chủ động. Nó thay the khái niệm "kết thúc vòng đời" của vậtliệu bằng khái niệm khôi phục,chuyển dịch theo hướng sử dụng năng lượngtái tạo,không dùngcác hóa chất độc hạigây tổnhại tới việctáisửdụng vàhướng tới giảmthiểu chất thải thông qua việc thiếtkế vật liệu, sản phẩm,hệ thống kỹ thuật vàcảcácmô hìnhkinh doanh trong phạm vi của hệ thống đó" (Ellen MacArthur Foundation, 2013).
Nền KTTH vậnhành như một chutrìnhkhép kín, trong đó tận dụngtất cả nhữnggì phát sinh trong quá trình sản xuất thôngquaphân loại, tái sửdụng, tái chế... Đây là mộtmô hình ưu việt,loại bỏ việc tạo rarác thải, dođó mục tiêu xa hơn là pháttriểnkinh tế đi đôivới bảovệ môi trường,hướng tớiphát triển bền vững.
Kinh tế tuần hoàn là một khái niệm tương đối mới, nhưng đangtrở thành xu hướng của cácquốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển có ít tài nguyên, nhấtlà khi nguồn tài nguyên trên thế giới đang ngàycàng cạn kiệt.
Trong nền kinhtế tuyến tính, hànghóa được sản xuất từ tài nguyên thiên nhiên, được bán ra thị trường, được tiêu thụ và sau đó thải loại ra môi trường. Mô hình kinh tế tuyến tính sẽdẫn đến việc khaithác tài nguyên thiên nhiên một cách vô tội vạ và tạo ra một lượng chất thảikhổng lồ. Việc chuyển đổi từ mô hình kinhtế tuyếntính sang mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) làcần thiết, để hướngđển một nền kinh tế phát triển bềnvững, sửdụng hiệu quả tài nguyên - năng lượng, ít carbon, vững mạnh và cạnh tránh.
Chuyển đổi từ mô hình kinh tế truyền thống
"khaithác -sản xuất - tiêu hủy”sang mô hình táisử dụng có mục đích, theo ướctính, có thể giúp thế giới tiết kiệm 4.500 tỷ USD vào năm2030, riêng châu Au có thể tiết kiệm 600 tỷ EUR (khoảng 660 tỷ USD) mỗi năm. Mô hình kinh tế mới này cũng hỗ trợ cắt giảm phát thải khí nhà kínhvà góp phần thựchiện thành công Thỏa thuận Paris COP21, cũng như những mục tiêu phát triển bềnvững của Liên hợp quốc. Tính đến cuối năm 2018, đã có 34 quốc gia trên thế giới có bước tiến đầu tiên về luật pháp và chính sách thúc đẩy KTTH.
Kinh nghiệm thực tiên từ các nước phát triển trênthế giới cho thấy rằng, hầu hếtcác nước đã lựa chọn phương thức chung trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa, các doanh nghiệp cần phải có tráchnhiệm thu hồi,tái sử dụng, tái chế và xử lý sản phẩm của doanh nghiệp mình sau quá trìnhsửdụng. Nhưvậy ngay từ khâu thiết kế, lựa chọn nguyênvật liệu sản xuất, vật liệu bao bì đónggói... doanh nghiệp, nhà sảnxuấtđãphải tính toán, lựa chọn phương án tối Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 6/ 2022)
65
NGHIÊN CỨU
RESEARCH
ưu nhất để giải quyết tất cả các vấn đề về chiphí sản xuất,chi phí thuhồi, tái sử dụng,tái chế và xử lý cho toànbộvòng đời sản phẩm.
Trênthế giới, các mô hình KTTH đã được nhiều công ty ứng dụng thông qua các hoạt động giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế. Hầu hết các quốc gia đều có các điển hình về phát triển KTTH, trong đó dẫn đầu là cácdoanh nghiệp tạiChâuÂu, Nhật, Mỹ, Singapore... Các mô hình KTTH tạicácquốc gia cho thấy: Doanh nghiệp là trungtâm của sự phát triển KTTH, ứng dụng KTTH có thể thực hiện trongmọi ngành nghề,tại mọi quy môdoanh nghiệp.Ngoài ra, doanh nghiệp ứng dụng KTTH trướchết nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận lớn hơn, nhưngcùng với đó manglại nhiềulợi íchkháccho cộng đồng.
Thụy Điển là một trong những quốc gia phát triển bền vững hàng đầu trên thế giới, đã và đang hướng tới mộtxã hộikhông rác thải.Nhờ ý thức bảo vệ môitrườngcủa ngườidân, sự khuyến khích của chínhphủ cũng như hệ thốngthu gom rác hiệuquả, tỷ lệ chất thải tái chế của các hộ gia đình tăng từ 38% năm 1975 lên 99% hiệnnay Thụy Điển là một trongnhữngquốc gia mẫu mực về quản lý và táichế chấtthải. Lượng chất thải sinh hoạtgia đình được tái chếđãtăngtừ 38% vào năm1975 lên 99% hiện nay và chỉ còn 1% chấtthải được chuyển đếncác bãi rác. Rấtnhiều chất thảiđược tái chế và sửdụng cho các mục đíchkhác như khísinh họcvànăng lượng.
Thụy Điển hiệnđã trở thành một nhànhập khẩu rác thải với trên 2,3 triệu tấn chất thải mỗi năm.
2. Thực trạng tiễn phát triển kinh tê' tuân hoàn ở Việt Nam
Việt Nam trong những năm vừa qua, tuy đạt được một số thành quả về phát triển bền vững nhưng Việt Nam cũng đangphải đối mặt với lượng chất thải phát sinh ngày càng lớn, nguyên liệu tho, nguyên liệu hóa thạch cạn kiệt. Các doanh nghiệp Việt Nam công nghệ lạc hậu, lỗi thời, quy mô sản xuấtnhỏ lẻ và thiếunguồn lực đầu tư chotái chế.Vì thế,lựachọn KTTHlà một bướcđihợplýhướngtới sảnxuất,tiêu dùng bềnvững, giảm lệ thuộc vàonền kinh tế bên ngoài với nguyên liệu,vật tư sản xuất.
Theo dự báo của các chuyên gia thực tế đã chỉ ra rằng nếu Việt Nam chỉ cố gắng phấn đấu tăng trưởng cao mà không tính đến thay đổi cấu trúc trong nội tạimỗi ngànhvà cơ cấu ngành trong tổng giá trịgia tăng, thì đến năm 2035, theo dựbáocủa các chuyên gia, Việt Nam sẽvào tốp 10thế giớivềô nhiễm. Bên cạnh đó, nhiều chuyên gia nước ngoài đều cho rằng, một trongnhữngtrởngại lớn nhất của Việt Nam trong việc áp dụng mô hình KTTH đó là vấn đề quảnlý thu gom vàtái chế tài nguyên rác - nguyên liệu đầu vàotrong mô hình này.
Việc chuyển đổi sang KTTH là một cơ hội lớn để
Việt Nam pháttriển nhanh và bềnvững, không chỉ đạt mục tiêukinhtế, xã hội,môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu,màcòn hướng tớicácmụctiêu của Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Nền nền KTTH, hoạt động về xử lýchấtthảiđã được giảm áp lực đi rất nhiều so với nền kinh tế tuyến tính do các hoạt động Rethink, Redesign, Reduce, Remain, Repair và Reuse được thựchiện.
Tuy nhiên,với yêucầu vẫn phảixử lýcác chất thải không thểtái chế và nhu cầu vềcác công nghệ, thiết bịhỗ trợ cho hoạtđộng thu hồi, thu gom, phân loại, phân tách, phục hồi tài nguyên và sản xuất ra các sản phẩm tái chế vẫn là những thách thức không nhỏ. Để giải quyết thách thứcnày,ThủtướngChính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2025 tại Quyết định số 192/QĐ-TTg từ năm2017 nhằmhình thành nên ngành Công nghiệp môi trường có thể đáp ứng được các nội dung của nền KTTH. Triển khai Đề án, Bộ Công Thương đangnghiên cứu xây dựng Nghị định về phát triển ngành công nghiệp môi trường nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động liên quanđượcthực thimột cách có hiệu quả và bềnvững.
Để các doanh nghiệp sớm tiếp cận xây dựng phương thức sảnxuất, kinh doanh theomô hình CE (KTTH - Circular Economy], một số chính sách đã được ban hành như Thông tư số 34/2017/TT- BTNMT của BộTàinguyênvàMôi trường về thu hồi, xử lý sản phẩm thảibỏ quy định, hướngdẫncác bên liên quan tham gia vào quá trình thu gom, lưu trữ, vận chuyển và xử lý sản phẩmthảibỏ đốivới nhà sản xuất, người tiêu dùng và các cơ sở thu gomvà xử lý.
Thực tiễn cho thấy, dù chưa thực sự nhận thức đầy đủ về CE, nhưng trong thực tế sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và người dân đã dần hình thành một CEtheo hướng tự phát. Đã có nhiều mô hình đang được thực hiện,như việckết hợpsản xuẫt hơi và phát điện trong các nhà máyđường, tận dụngnhiệt thừa cho các công đoạnsấy nguyên liệu của các cơ sởsản xuất công nghiệp, sử dụng tro,xỉ của các nhà máyđiện cho các nhà máysản xuãt xi măng, vật liệu xây dựng, tuần hoàn nước làm mát trong các nhà máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp....
Nhìnchung cókhá nhiềutháchthức đối vớiviệc triển khai thực hiện KTTHở Việt Nam, từviệcnhận thức đúng về bản chấtcủa KTTH, hay gắn KTTHvới đổi mới công nghệ và pháp lý cũng như chưa có hành langpháplý, bộ tiêu chí đểnhận diệnđánh giá và cơquan đầumối chủ trìvề vấnđề này, trong khi KTTH liênquan đến nhiều lĩnh vực, từrác thải đển biếnđổikhí hậu,công nghệ, vốn, trang thiết bị...
Trong quá trình thực hiện KTTH bước đầu đã xuất hiện một số rào cản khiến cho mô hình này chậm phát triển. Trong đó phải kể đến thách thức
66
Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 6/ 2022)đầu tiên là liên quan đếnlợi ích tài chính. Việc áp dụng mô hình này thường khiến các doanh nghiệp phải tốn thêm các chi phí ban đầu, điều này giảm khả năng cạnh tranh, giảmlợi nhuận. Ngoài ra, mô hìnhnày còn córào cản"cấu trúc". Việcchuyển đổi cấu trúc tổ chức quản lý, điều hành doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu truyền thống sang mô hình KTTHcó thể dẫn đếnrối loạn, rủi ro cho các doanh nghiệp. Bêncạnh đó, mô hình còn gặp thách thứcvề
"hoạt động” thể hiện sự khó khăn trong việc giải quyết, kiểm soát quá trìnhtrongchuỗigiátrị. Thách thứcvề công nghệcũng là mộttrongnhững ràocản lơnđốivới KTTH.
Mặc dù vậy,việchoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách nhằmthúc đẩy KTTH tạiViệt Namtrong thời gian tới là yêu cầu cấp bách nhằm giảm phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, xây dựng cơ sở dữ liệu về KTTH gắn với chuyển đổi kinh tếsố vàcuộccáchmạng côngnghiệp lần thứ IV cũng làviệc làm không kém phần quan trọng. Thực tiễn cho thấy, để thúc đẩy KTTH ởcác ngành, lĩnh vực cụ thể, cần có cơ chế, chínhsách hỗ trợ thiết thực.
Ngoài ra, cãn cócơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệpphát triển theo mô hình này áp dụng công nghệ sạch; Tái sử dụng, tái chếchấtthải; Trong đó, chất thải phải là nguồn tài nguyên xét cả khía cạnh sản xuất và tiêudùng. Bên cạnh đó,thành phố định hướng doanh nghiệp phát triển theo hướng KTTH gắn liền với phát triển công nghệ, kinh tế số và cách mạngcông nghiệp 4.0. Đổi mới công nghệ là cốt lõi, là yếu tố quantrọngquyếtđịnh thành công khi áp dụngmô hình KTTH.
3. Các giải pháp phát triển kinh tê' tuần hoàn ởViệt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, để thúc đẩy phát triển KTTH nhằm góp phần phát triển bền vững, trong thời gian tới, chúng ta cần thực hiện đồngbộ các giải pháp gắn với những chương trình, kế hoạch hành động dựatrênmột số giải pháp sau:
Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật banhànhcácquy định, tiêu chuẩn phát triểnKTTH phù hợp với xu thế mới trong khu vực và trên thế giới. Sử dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, công cụ thuế... nhằm hạn chếviệc sửdụng quá mức tài nguyên, hạn chế rác thải trongquátrìnhsản xuất. Đổi mới mạnhmẽ mô hình tăng trưởng kinhtế dựa vào hiệu suất sử dụng các yếu tố đẫu vào vốn và lao động, tăng trưởng kinh tế bền vữnggắnvới sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả.
Thứ hai, khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạch định chiến lược sản xuất,kinh doanh một cách bền vững, ứng dụng các mô hình KTTH, sản xuất, kinh doanh gắn liền với bảo vệ môi trường. Bên cạnh
đó cần quy định chặt chẽvề trách nhiệm của doanh nghiệp vớichấtthảidodoanh nghiệp tạo ra.
Thứ ba, xây dựng cơ sở dữ liệu về KTTH gắn với chuyển đổi kinh tế số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thúc đẩy hợp tác, liên kết giữa các thành phầnkinhtế,cáctổchứcxã hội trongviệc phát triển KTTH ở Việt Nam, trong đó Chính phủ đóng vai trò dẫn dắt, kiến tạo.
Thứ tư, tuyên truyền đểngười dân thay đổi tư duy về tiêudùng theo hướngsửdụng các sảnphẩm hàng hóa thân thiện với môi trường, các sản phẩm dán nhãn CE. Nângcao ý thức về phânloại rácthải tại nguồn nhằm giảm chi phí trong việc sử dụng và tái chế rác thải.
Thứ năm, đưa vào chương trình giáo dục - đào tạo ở các cấphọc những kiến thứcvề KTTH nhằm cung cấpnhững tri thức cơ bảnvề KTTH;đồng thời, đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng vận hành mô hình KTTH gắn với đổi mới sáng tạo và sử dụng công nghệ cao.
Có thể nói những giải pháp trênchỉ là một trong số những giải pháp cơ bản trong rất nhiều những giảipháp thúc đẩy nền KTTH, trongquá trìnhthực hiện sẽ gặp phải rất nhiều những tình huống phát sinhkhác, chínhvì vậy việc ápdụng những giảipháp cần bổ sung cập nhật cho phù hợp với từng điều kiện cụ thể trong mỗi ngành, mỗi địa phương để phát triển KTTH không còn là rào cản của mỗi doanh nghiệp,mỗi địa phương trong hoạt động phát triển kinh tế bền vững./.
Tài liệutham khảo
Ellen MacArthur Foundation (2013): "Towards the circular economy: Economic and business rationale for an accelerated transition”, 2013, https://www.ellenmacarthurfoundation.org/asset s/downloads/publications/Ellen-MacArthur- Foundation-Towardsthe-Circular-Economy- vol.l.pdf
Martin Geissdoerfer, Paulo Savaget, Nancy M.P.Bocken, Erik Jan Hultink: "The Circular Economy - A new sustainability paradigm?”, Journal of Cleaner Production, Volume 143, 2017, Pages 757-768,
Kiều Linh: "Kinh tế tuần hoàn: "Cánh cửa thần kỳ" đưa Việt Nampháttriển bềnvững”, ngày 13-9- 2019, http://vneconomy.vn/kinh-te-tuan-hoan- canh-cua-than-ky-dua-viet-nam-phat-trien-ben- vung-20190912174728576.htm
Thu Hường: "Việt Nam hướng tới nền kinh tế tuần hoàn", ngày 12-11-2019, http://www.conso- sukien.vn/viet-nam-huong-toi-nen-kinh-te-tuan- hoan.htm
Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 6/ 2022)