TẠP CHÍ CÕNG THƯdNG
NGHIÊN CỨU VỀ Sự PHÁT TRIEN KHU CÔNG NGHIỆP SINH THÁI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KHUYÊN NGHỊ
ĐỐI VỚI VIỆT NAM
• NGUYỄN VIỆT HƯNG
TÓM TẮT:
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu tình hình phát triển các khu công nghiệp sinh thái (EIPs) tại Trung Quốc, phân tích những mặt thành công và thất bại của các EIPs, từ đó, đưa ra một số đề xuất phát triển khả thi cho các EIPs tại Việt Nam, xuất phát từ quan điểm nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Các câu hỏi nghiên cứu nảy sinh từ những thách thức mà thực tiễn EIPs phải đối mặt như tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và đô thị hóa bền vững.
Từ khóa: khu công nghiệp sinh thái (EIPs), kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững.
1. Khái quát về khu công nghiệp sinh thái và trường hựp nghiên cứu
Sản xuất công nghiệp quá mức sẽ kéo theo một loạt các vân đề sinh thái môi trường, chẳng hạn như cạn kiệt nước và năng lượng, phá hủy đất và cây trồng, giảm đa dạng sinh học, cũng như hiệu ứng nhà kính. Hậu quả mà con người đã phải chịu ảnh hưỏng lớn về sự lãng phí tài nguyên và suy thoái môi trường. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã đưa ra một hình thức tổ chức công nghiệp mới dựa trên cộng sinh công nghiệp và nền kinh tế tuần hoàn, đó là khu công nghiệp sinh thái (EIPs). Loại hình khu công nghiệp này đã thu hút sự chú ý rộng rãi trên toàn thế giới.
Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (US EPA), khu công nghiệp sinh thái là một cộng đồng các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và môi trường, thông qua hợp tác quản lý các vấn đề tài nguyên và môi trường như năng lượng, nước và vật liệu (Chertow, 2000).
Khu công nghiệp có thể được gọi là khu công nghiệp sinh thái (EIPs) nếu cộng đồng các doanh nghiệp hợp tác với nhau, chia sẻ nguồn lực (Valenzuela-Venegas và cộng sự., 2016). Cũng có thể phát triển cơ sở hạ tầng xanh hoặc thúc đẩy các công ty thu gom rác trong khu công nghiệp, vì vậy cộng sinh công nghiệp là một trong những khía cạnh có thể có của EIPs.
Định nghĩa được chấp nhận nhiều nhất về
210 SỐ 15-Tháng Ó/2021
KINH TẾ
EIPs là đề xuất một cộng đồng các doanh nghiệp cùng hoạt động trên cơ sở sản xuất - kinh doanh (Valenzuela-Venegas và cộng sự., 2016). Các doanh nghiệp này tìm kiếm hiệu quả môi trường, kinh tế và xã hội được nâng cao thông qua hợp tác quản lý các vấn đề tài nguyên và môi trường.
Trên thực tế, EIPs là một loại hình khu công nghiệp mới được thiết kế và xây dựng theo các yêu cầu sản xuất sạch hơn. Do đó, EIPs cũng tuân theo nguyên tắc 3R của kinh tế tuần hoàn (Paper & Chunyou, 2009).
Với sự phát triển nhanh chóng của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam trong thời gian qua, việc tạo ra mối quan hệ đôi bên cùng có lợi giữa kinh tế và môi trường trong quá trình đô thị hóa ở đô thị công nghiệp ngày càng trỏ nên câp thiết hơn. EIPs có thể cải thiện hiệu quả kinh tê của các công ty tham gia và giảm thiểu tác động đến môi trường của họ (F. Yu, Han, & Cui, 2015).
2. Phương pháp nghiên cứu
Bài báo trình bày tổng quan tài liệu có hệ thông và phân tích nội dung dựa trên cơ sở dữ liệu được thông qua. Dữ liệu thứ cấp chính được trích dẫn là từ các trung tâm dữ liệu của các cơ quan quản lý EIPs ở Trung Quốc. Một số thông tin tài liệu và một sô' số liệu thông kê đã được xử lý và điều chỉnh trong các bảng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu.
3. Sự phát triển các khu công nghiệp sinh thái ở Trung Quốc
3.1. Quá trình phát triển các EIPs ở Trung Quốc
Kennedy & Johnson (2016) đã chỉ ra Bản Dự thảo Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc về phát triển kinh tế và xã hội quốc gia nêu rõ, Trung Quốc nên tập trung vào việc cải thiện chất lượng môi trường và giải quyết các vấn đề môi trường sinh thái nổi cộm, dành nhiều nỗ lực hơn nữa để bảo vệ môi trường sinh thái, hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên, cung cấp nhiều sản phẩm xanh chất lưựng cao hơn cho người tiêu dùng.
Dự thảo đưa ra các đề xuất: (i) tăng cường quản trị môi trường tổng hợp, đổi mới về khái niệm và phương pháp quản lý môi trường, thực hiện hệ thông bảo vệ môi trường nghiêm ngặt
nhất, nhân mạnh trách nhiệm của người gây ô nhiễm, thiết lập hệ thông đồng quản trị cho chính phủ, doanh nghiệp và công chúng, và nói chung là cải thiện chất lượng môi trường; (ii) thực hiện đầy đủ các kế hoạch hành động về phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, giảm thiểu rủi ro môi trường, tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng môi trường và cải cách hệ thống cơ bản trong quản trị môi trường.
Dự thảo cũng đề xuất (i) tăng cường bảo vệ và khắc phục sinh thái, ưu tiên bảo vệ và phục hồi thiên nhiên, tạo điều kiện bảo vệ và khắc phục các hệ sinh thái tự nhiên, thiết lập các hành lang sinh thái cũng như mạng lưới bảo tồn đa dạng sinh học; (ii) tăng cường toàn diện các chức năng của hệ sinh thái, thúc đẩy quá trình xử lý sinh thái ở các khu vực trọng điểm, tăng cung cấp các sản phẩm xanh và bảo tồn đa dạng sinh học.
Tóm lại, sự phát triển của EIPs ở Trung Quốc có thể được chia thành 3 giai đoạn: (i) giai đoạn 1 khoảng 20 năm từ năm 1980 đến năm 2001; (ii) giai đoạn 2 là giai đoạn giữa năm 2001 và năm 2015; và, (iii) giai đoạn 3, từ năm 2015 trở đi (Bảng 1).
Trong giai đoạn đầu, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu thiết lập một loạt các khu phát triển kinh tế - công nghệ và các khu phát triển công nghiệp công nghệ cao theo cơ sở cải cách và Chính sách mở cửa từ năm 1978, cải cách hệ thông kinh tê từ năm 1984 và sự tìm tòi đổi mới thể chế, cơ chế thị trường, công nghệ và tăng trưởng kinh tế trong suốt 20 năm đó. Mục tiêu của các hoạt động này có thể được tóm tắt một cách khái quát là thu hút đầu tư nước ngoài thông qua các dự án công nghiệp, cải thiện xuất khẩu và thúc đẩy công nghiệp sản xuất, công nghệ cao và giá trị gia tăng cao.
Đô'i với giai đoạn thứ hai là việc triển khai ở cấp độ quốc gia đầy tham vọng về chương trình EIPs do Chính phủ Trung Quốc khởi xướng vào năm 2001 và một số chương trình ElPs thử nghiệm sau đó. Mục tiêu của việc thiết lập EIPs là khám phá và đưa ra các phương thức phát triển kinh tế mới với việc giữ cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
SỐ 15 -Tháng Ó/2021 211
TẠP CHÍ CÔNG THƯƠNG
Bảng 1. Thời gian hình thành và đặc điểm của các loại hình khu công nghiệp của Trung Quốc
Ba giai đoạn
Loại hình
khu công nghiệp Căn cứ và quan điểm nền tảng Mục tiêu
_______________________________
Từ năm 1980
+ Khu phát triển kinh tế - công nghệ
+ Khu công nghiệp - công nghệ cao
+ Chính sách “Cải cách và Mở cửa” năm 1978
+ Cải cách hệ thống kinh tế năm 1984 + Khám phá đổi mới thể chế, cơ chế thị trường, công nghệ và tăng trưởng kinh tế.
+ Thu hút đấu tư nưóc ngoài thông qua các dự án công nghiệp
+ Cải thiện xuất khẩu
+ Thúc đẩy công nghiệp sản xuất, công nghệ cao và các ngành sản xuất có giá tri gia tăng cao
Từ năm 2001
+ Hình thành nên các khu công nghiệp sinh thái
+ Giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trưòng
+ Hạn chế sử dụng tài nguyên thiên nhiên
+ Cụ thể hóa các phương thức phát triển kinh tê' sử dụng năng lượng hiệu quả cao và cộng sinh công nghiệp
Từ năm 2015 đến nay
Thành phô' sinh thái
+ Đô thị hóa
+ Mối quan tâm vể môi trường
+ Theo đuổi sự phát triển bền vững và cân bằng
Giai đoạn thứ 3 của EIPs ở Trung Quốc đã phát hành Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 về Phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc, với sự mở rộng tiêu thụ tài nguyên và sự suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng, cùng với sự gia tăng đô thị hóa, quy mô dân số tăng ở hầu hết các thành phô lớn và vừa ở Trung Quôc. Đê’ theo đuổi sự bền vững và phát triển cân bằng, Chính phủ Trung Quô’c đã kết hợp tăng trưởng công nghiệp cùng với sự phát triển của thành phô’, do đó. các khái niệm như thành phô sinh thái đã được đưa ra. Rât nhiều EIPs được đặt tại quận mới của một thành phô, ví dụ như Khu công nghệ Huayuan nằm ở quận mới Binghai của Thiên Tân. Tô Châu được gọi là thành phô’ sinh thái, với EIPs đầu tiên là Khu công nghiệp Tô Châu và Khu phát triển công nghiệp công nghệ cao Tô Châu.
3.2. Hiện trạng của các EỈPs ở Trung Quốc Theo trang web chính thức của Bộ Bảo vệ Môi trường Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (www.sepa.gov.cn), danh sách các khu công nghiệp sinh thái được công bô’ mới nhâ’t ở Trung
Quốc cho thây, có tổng sô’ 48 EIPs trên toàn quốc được phê duyệt kể từ khi họ bắt đầu từ năm 2001.
và 45 EIPs quô’c gia vẫn đang được đánh giá và cải thiện.
Tổng sô EIPs của Trung Quốc là 93. Theo kết quả thông kê cho thây: (i) riêng ở tỉnh Giang Tô, có 30 EIPs, chiếm gần 1/3 tổng số; (ii) hầu hết các EIPs nằm ở phía Đông Trung Quôc; (iii) tổng sô các EIP thuộc Giang Tô, Sơn Đông, Thượng Hải và Chiết Giang là 58, chiếm 62,4%; (iv) bằng cách tính tất cả các tỉnh và thành phô’ ven biển của miền Đông Trung Quô’c là Thiên Tân, Sơn Đông, Giang Tô, Thượng Hải. Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, tổng sô’ lượng EIPs đạt được là 68, chiếm tỷ trọng 73,1%.Trong sô’4 thành phô’
trực thuộc Trung ương là Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân và Trùng Khánh, cho đến nay, không có bất kỳ EIPs nào ở Trùng Khánh và chỉ có 1 EIPs ở Bắc Kinh. Đồng thời, vẫn còn một sô’
tỉnh khác không có EIPs như Hắc Long Giang, Hà Nam. Ninh Hạ, Thanh Hải, Tây Tạng và Hải Nam.
212 SỐ 15-Tháng Ó/2Ũ21
KINH TÊ
4. Thảo luận
4.1. Các khía cạnh thành công của EIPs Trung Quốc
Thứ nhất, luật và quy định đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của EIPs ở Trung Quốc, ví dụ: Luật Phòng ngừa và Kiểm soát Ô nhiễm Môi trường do chât thải rắn ban hành năm 1995, Quy định thúc đẩy sản xuất sạch hơn đã được thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 29/6/2001 (Yu, 2008), Luật Khuyến khích sản xuất sạch hơn 2002 (Yu và cộng sự, 2015).
Thứ hai, hiệu quả hoạt động của EIP là kết quả việc hướng dẫn chính sách và quảng bá của Chính phủ. Chính phủ Trung Quốc (cả Nhà nước và địa phương) đóng vai trò thiết yếu trong việc cải thiện sự phát triển của EIPs, đặc biệt là khi hội nhập và sự phát triển cân bằng giữa công nghiệp hóa và đô thị hóa. Các chính sách công nghiệp của Trung Quốc đều nhấn mạnh và hướng dẫn sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường, thúc đẩy điều chỉnh chiến lược cơ câu kinh tế, cân bằng phát triển hài hòa xã hội. Ví dụ: Chính sách sử dụng toàn diện các nguồn lực của công nghệ ở Trung Quốc 2010 (Yu và cộng sự., 2015).
Ngoài ra, Trung Quốc còn có rất nhiều chính sách và hướng dẫn ỏ cấp quô'c gia, cấp tỉnh và thành phô' địa phương. Ví dụ, ở cấp thành phô', chính quyền Rizhao đã xây dựng Kê' hoạch xây dựng Thành phô' sinh thái của Rizhao và Đề cương Thông tư kê hoạch phát triển kinh tê' của Rizhao năm 2002, nhằm xác định rõ định hướng phát triển đô thị. Ớ hầu hết các nơi, EIPs rất hấp dẫn đôi với tất cả các loại hình doanh nghiệp và nhà sản xuất, họ có thể được hưởng lợi rất nhiều về chính sách thuê' ưu đãi, tuyển dụng nhân viên, hỗ trợ đi lại, dịch vụ hậu cần thuận tiện và thậm chí xem xét một sô' trợ cấp tài chính. Tất cả những yếu tô' này tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công của các khu công nghiệp quôc gia và khu vực ở Trung Quôc.
4.2. Nguyên nhân dẫn đến một sô thất bại của EIPs Trung Quốc
Mặc dù hiệu quả hoạt động của các EIPs ở Trung Quô'c được đánh giá cao, nhưng cho đến nay vẫn còn tồn tại một sôhạn chế, đó là:
(i) những thất bại liên quan đến sự tham gia của nhân viên; (ii) sự hỗ trợ từ các công dân bình thường; (iii) sự thiếu hụt trong việc lập kê' hoạch tổng thể từ các cấp chính quyền khác nhau. Thứ nhất, người lao động các doanh nghiệp trong EIsP ít tham gia vào nền kinh tê' tuần hoàn bên trong hoặc bên ngoài EIP, và thái độ của họ phần lớn phụ thuộc vào ý thức của chính họ, vì có rất ít cách thức đề xuất bắt buộc để thúc đẩy sự phát triển bền vững. Thứ hai, từ quan điểm của những người dân bình thường, họ biết về các EIPs ở thành phô' của họ, nhưng lại không quan tâm nhiều nếu họ không làm việc trong các khu công nghiệp hoặc trong các khu phát triển ở xa hoặc gần cộng đồng nơi họ sinh sông. Thứ ba, chính quyền địa phương có xu hướng khởi xướng và vận động các khu công nghiệp chỉ nhằm thu hút đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, có rất ít hàm lượng khoa học liên quan đến quy hoạch tổng thể tăng trưởng kinh tê' địa phương, phát triển đô thị hóa và bảo vệ môi trường và cộng sinh công nghiệp.
4.3. Một sô đề xuất phát triển cho các EIPs của Việt Nam
Nghiên cứu này đưa ra một sô' gợi ý cho sự phát triển các khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam, cụ thể là:
(1) Học hỏi các phương thức kinh tê' tuần hoàn đã thành công từ các nước phát triển như: ví dụ như Nhật Bản nổi tiếng với hàng trăm luật và quy định trong lĩnh vực kinh tê' tuần hoàn; Hệ thống kép của Đức hoạt động rất hiệu quả (Wharton, 2017).
(2) Việc ban hành luật và pháp luật cần phù hợp với hiện trạng và tiến trình của nền kinh tế, tránh việc luật và pháp luật hoặc quá tiên tiến hoặc quá lạc hậu, do quá trình chuyển đổi kinh tê' - xã hội đang tăng tốc và luôn biến đổi.
(3) Tăng cường truyền bá một sô' khái niệm liên quan đến kinh tê' tuần hoàn và phát triển bền vững; Không nên chỉ quan tâm tới tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường khi chứng kiến một sô' thảm họa môi trường.
(4) Khuyên khích sự tham gia nhiều hơn từ tất cả các loại hình doanh nghiệp và công ty cả trong
số 15 - Tháng Ó/2021 213
TẠP CHÍ CÔNG ĨHltòNG
và ngoài EIPs. Có nhiều cách khác nhau để họ thể hiện trách nhiệm với môi trường như: thiết kê và quản lý toàn bộ vòng đời, hậu cần hoàn trả và quản lý chuỗi cung ứng xanh.
(5) Kêu gọi sự hỗ trợ nhiều hơn từ nhân viên, những người có thể đóng góp vào việc thực hiện các EIPs trong các vấn đề như tiết kiệm năng lượng, xử lý chát thải, tái chế nước,...
(6) Khơi dậy nhận thức về môi trường và kinh tê tuần hoàn từ người dân thành thị. Một thành phố sinh thái liên quan đến tất cả mọi người trong thành phôi EIPs chỉ là một phần của các thành phố bền vững.
(7) Giới thiệu công nghệ và phương pháp tiên tiến hơn để giữ khả năng truy xuất nguồn gốc về sản xuất sạch hơn, quản lý môi trường và giám sát hiệu suất EIPs.
(8) Tiến hành quy hoạch và xây dựng đô thị khoa học hơn, nhằm duy trì một hình thái bền vững và có khả năng phục hồi, bao trùm và có thể sông được một cách hài hòa cho sự phát triển xã hội, môi trường và kinh tê trong tương lai.
5. Kết luận
Từ nghiên cứu sơ bộ này, có thể thấy nghiên cứu trong tương lai về chủ đề EIPs và khám phá lý thuyết chuyên sâu cần nỗ lực nhiều hơn, ví dụ như tiến hành so sánh thực nghiệm giữa các EIPs trên toàn thế giới, sau đó so sánh với kết quả từ các EIPs thành công ở các nước phát triển và đang phát triển. Các sáng kiến nghiên cứu có thể rất hữu ích để kích thích sự quan tâm của những người quan tâm, nghiên cứu, vì tính bền vững về kinh tế - xã hội và sinh thái đang thực sự là một mối quan tâm toàn cầu ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Behera, s. K., Kim, J. H., Lee. s. Y.. Suh. s.. & Park. H. s. (2012), Evolution of ■’designed” industrial symbiosis networks in the Ulsan Eco-industrial Park: “Research and development into business" as the enabling framework.
Journal of Cleaner Production. 29-30: 103-112. https://doi.Org/10.1016/j.jclepro.2012.02.009
2. Chertow, M. R. (2000). Industrial symbiosis: Literature and Taxonomy. Annual Review of Energy and the Environment, 25. 313-337. https://doi.Org/10.l 146/annurev.energy.25.1.313
3. Kennedy, s.. & Johnson, c. K. (2016). Perfecting China, Inc.: The 13th Five-Year Plan. USA: Center for Strategic & International Studies.
4. Paper, w.. & Chunyou, w. u. (2009). Sustainable Development of Industrial Parks. Germany: University of Leipzig.
5. Popescu, R. F. D. (2008). Industrial Ecology and Eco-Industrial Parks: Principles and Practice. SSRNElectronic Journal. Retrieved from: http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.1317231
6. Shi. H.. Tian. J.. & Ch en, L. (2012). Chinas Quest for Eco-industrial Parks. Part I: History and Distinctiveness.
Journal of Industrial Ecology, 16(1).
7. Shi, L., & Yu, B. (2014). Eco-industrial parks from strategic niches to development mainstream: The cases of China. Sustainability (Switzerland). 6(9), 6325 -6331.
8. Valenzuela-Venegas. G.. Salgado. J. c.. Diaz Alvarado. Felipe Andres. (2016). Sustainability indicators for the assessment of eco-industrial parks: classification and criteria for selection. Journal of Cleaner Production, 133.
99-116.
9. Wharton. K. (2017). The Circular Economy: From Concept to Business Reality, (April). USA: Global Environmental Leadership.
214 SỐ 15-Tháng 6/2021
KINH TÊ
10. Ying, J.. & Zhou, L.-J. (2011). Study on Green Supply Chain Management Based on Circular Economy. In Physics Procedia (Vol. 25, pp. 1682 -1688). Elsevier Sri.
11. 11. Yu, c„ Dijkema, G. p. J., de Jong, M., & Shi, H. (2015). From an eco-industrial park towards an eco-city: A case study in Suzhou, China. Journal of Cleaner Production, 102,264-274.
12. Yu, F., Han, E, & Cui, z. (2015). Evolution of industrial symbiosis in an eco-industrial park in China. Journal of Cleaner Production, 87(C), 339 -347.
Ngày nhận bài: 6/5/2021
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 20/5/2021 Ngày chấp nhận đăng bài: 8/6/2021
Thông tin tác giả
ThS. NGUYỄN VIỆT HƯNG Học viện Chính sách và Phát triển
A STUDY ON THE DEVELOPMENT OF E CO-INDUSTRIAL PARKS IN CHINA AND RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM
• MSc. NGUYEN VIET HUNG Academy of Policy and Development
ABSTRACT:
This study presents the development situation of eco-industrial parks (EIPs) in China, and analyzes the successes and failures of EIPs. Based on the circular economy and sustainable development approaches of Vietnam, this study proposes some recommendations for the development of EIPs in Vietnam. This study’s research questions arise from the challenges faced by EIPs such as economic growth, environmental protection and sustainable urbanization.
Keywords: eco-industrial park (EIP), circular economy, sustainable development.
So 15 -Tháng 6/2021 215