• Tidak ada hasil yang ditemukan

quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ ở việt nam hiện

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ ở việt nam hiện"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

QUYỀN TIẾP CẬN ĐẤT ĐAI CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

NGUYỄN ĐÁNG PHÚ0

Tóm tắt: Quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ thông qua hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là nội dung cơ bản, quan trọng trong việc đảm bảo quyền bình đẳng giới. Tuy nhiên, quy định này trên thực tê khi triển khai áp dụng còn nhiều vướng mắc, rào cản, chưa đảm bảo quyền lợi một cách tốt nhất cho người phụ nữ trong lĩnh vực đất đai. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về việc quy định và thực thi nội dung của quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ thông qua hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, từ đó đề xuất một sô'kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ trên thực tế.

Từ khóa: Bình đẳng giới; tiếp cận đất đai; quyền tiếp cận đất đai và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của phụ nữ.

Abstract: Women's right to access to land through the issuance of land use right certificates is a fundamental content in ensuring gender equality. However, the application of this regulation in practice face many barriers. As a result, women’s right to access to land has not been ensured. The article assessed the legal framework of women's right to access to land through the issuance of land use right certificates, thereby proposing recommendations to improve law on women's rights to access to land in practice.

Keyword: Gender equality; access to land; women's access to land and land use right certificates.

Ngày nhận bài:15/6/2021; Ngày sủa bài:10/7/2021; Ngày duyệt đăng bài: 27/8/2021.

Đặt vấn đề

Bình đẳng giói đang là một vấn đề được đặc biệt quan tâm ở mọi quốc gia. Liên hợp quốc đã thống nhất quan điểm và thôngqua Chương trình hành động giới, lồng ghép giới tại Hội nghị quốc tế về phụ nữ lần thứ tư năm 1995 tại Bắc Kinh (Trung Quốc),

Việt Nam, bình đẳng giới là một trong những mụctiêu quan trọng được Đảng, Nhà nước ta đặt ra trong thời kỳ đổi mới nhất là từ khi có Luật Bìnhđẳng giới năm 2006. Đe thực hiện được mục tiêu này, rất cần đến sự phôi hợp của nhiều yếu tốkhácnhau, trong đó có sự cụ thể hóa trong các quy định của pháp luật. Vì vậy, hệ thống pháp luật nước ta đã có nhiều quy địnhcụ thể đảm bảo mục tiêu trên, trong đó quy định quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ là nội dung cơ bản, quan trọng trong việc đảm bảo quyền bình đẳng

giới. Tuy nhiên, quy định này trên thực tế khi triển khai áp dụng còn nhiều vướng mắc, rào cản, chưa đảm bảo quyền lợi một cách tốt nhất cho người phụ nữ khi tiếp cận đất đai.

1. Khái quát về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ

1.1. Khái niệm quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ

Theopháp luậtViệt Nam hiện hành, phụ nữ bình đẳng khi tiếp cận vối đất đai. Luật pháp đảm bảo sựphân chia tài sản cá nhân không phân biệt giói. Bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong việc tiếp cận đất đai nói riêng được thể chể hoá trong Hiến pháp Việt Nam qua các năm 1946,

Khoa luật, Trường Đại học Lao động - Xã hội TP.

HỒ Chí Minh.

NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI SỐ 9-2021

(2)

NGUYỄNĐẢNG PHÚ 1959, 1980, 1992 và 2013; Luật Đất đai

năm 2013, Luật Bình đẳng giới năm 2006;

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014...

cùng các vănbảnhướngdẫnthi hành.

Cóthể khái quát, Quyền tiếp cận đất đai của phụ nữlà quyền của người phụ nữ được pháp luật thừa nhận và bảo vệ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) chung của hai vợ chồng phải ghi tên cả vợ vàchồng. Tất cả những vấn đề có Hên quan đến thay đổi quyền sửdụng đất đều phải được giải quyết dựa trên cơ sở quyền sử dụng đất chung của vợ và chồng cũng như đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi của người phụ nữtrongviệc tham gia các giao dịch liên quan đến đất đai.

Dựa vào khái niệm trên, có thể nhận thấy quyền tiếp cận đất đai được thể hiện thông qua các nộidung chính sau:

Phụ nữ được quyền bình đẳng với nam giói đôì vối tài sản chung thôngqua việc ghi tên trong GCNQSDĐcó tên cả vợ và chồng.

' I Yong trường hợp ngườiphụ nữ chưa ý thức dược quyền của mình khi quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sảnkhác gắn liền vối đấtlà tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của chồng thì được cấp đổi sangGCNQSDĐ, quyền sở hữu nnà ỏ và tàisản khác gắn Hền với đất để ghi họ, tên cả vợ và chồng. Quyền tiếp cận đất đại của phụ nữ thông qua việc cấp GCNQSDĐ là nội dung quan trọng nhất và

cơ sở cho việcthựchiện các nội dung khác n quan đến quyền tiếp cận đất đai.

Quyền tiếp cận đất đai đảm bảo sự bình trig của phụ nữ ngay cả khi tham gia các 10 dịch thế chấp, tặng cho, cho thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai. Tất cả quyền lợi của người phụ nữ phai được giải quyết dựa trên quyền sở hữu tài sản chung của vỢ và chồng. Đồng thời, ngườiphụnữ được hưởng thừa kê về tài sản là

lie:

đẳ gia

là đất đai cũng nhưphân chia tài sản sau ly hôn theo đúng quy định của pháp luật, qua đó, tạo ra sự công bằng, bình đẳng cho người phụ nữ mà không phụ thuộc vào bất kì yếu tô' nào liên quan đến định kiến về giới hay từ quan niệm lạchậu của giađình, dòng họ.

1.2. Sự cần thiết phải ghi nhận quyền tiếp cậnđất đai của phụ nữ

Hiện nay, việcpháp luật ghi nhận và quy định quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ trong các văn bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ,cụ thể:

Thứ nhất, Phápluật ghi nhận quyềntiếp cận đất đai của phụ nữ thể hiện thông qua việc được đứng tên trên GCNQSDĐ đã mở ra cơ hội sở hữu bình đẳng cho người phụ nữ, qua đó đảm bảo quyền về bình đẳng giới nói chung.

Quy định bắt buộc giấy tò này phải có tên của cả vợ và chồng đã có tác động rất lớn đến nhận thứccủa cả nam giói và phụ nữ về quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong việc tiếpcận đất đai ở cảnông thôn và thành thị, ở người Kinh cũng như vùng các tộc người thiểu số. Điều này có thể trở thành tiền đề quan trọng giúp phụ nữ cócơ hội bình đẳng hơntrongquan hệ tài sảncủa gia đình dòng họ và trong cộng đồng nói chung. Phụ nữ đứng tên cùng chồng trong GCNQSDĐ sẽ giúp họ có quyền tham gia và quyết định trong các giao dịch dân sự như chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất đai; bình đẳng với nam giới trong gia đình và xã hộivề quyền tiếp cận đất đai.

Thứ hai, việc ghi nhận quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ sẽ góp phần hạn chế các hành viviphạm pháp luật đất đai, nângcao vị thế và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người phụ nữ đặc biệt khi có tranh chấp phát sinh liên quan đến giấy CNQSDĐ.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng ngoài mục đích giảm

SỐ 9-2021 NHÂN LỤC KHOA HỌC XÃ HỘI Q]

(3)

QUYỀN TIẾPCẬN ĐẤT ĐAI CỦAPHỤNỮ ở VIỆT NAM HIỆN NAY thiểu sự bất bình đẳng giới về các vấn đề

pháp lý hên quan đến đất đai còncóýnghĩa trong việc bảo vệ gia đình khỏi những hành động đơn phương củangưdi chồng và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong trường hợp ly hôn hoặctrong các tranhchấp về đất đai.

Về mặt kinh tế xã hội, việc phụnữ - người vợ không có tên trong GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật làm cho chủ trương về tăng cường bình đẳng về giới, lồng ghép các vấn đềgiới vào các chính sách, chương trình và dự án phát triển trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo bền vững không được thực hiện triệt để.

Không cótên trong GCNQSDĐ đã làm giảm vai trò của phụ nữbên cạnhnam giới trong huy động nguồn lực đất đai và con người cho phát triển kinh tế -xãhội.

Về phíacánhân và gia đình, việc người vợ không có tên trong GCNQSDĐ sẽ góp phần làm giảm vai trò, vịthế của phụ nữ trong sử dụng đất vàomục đích phát triển kinh tế gia đình, cải thiện sinh kế. Nếu người chồng (chủ hộ) đứng tên một mình trong GCNQSDĐ cũng có nghĩa là người chồng được quyết địnhvới tài sản luônđược xemlà cógiátrịlốnnhấtđốivới mỗi gia đình.

2. Thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ

Về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ, trước đây, LuậtĐất đai nám 2003đã có quy định tại khoản 3, Điều 48, mục 5. Hiện nay, quyền này được ghi nhận tại khoản 4 Điêu 98 Luật Đất đai năm 2013, cụ thể: ‘Trường hợp quyền sử dụng đấthoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tàisản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền vởi đất là tài sản chung củavợ và chồngthì phải ghicả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụngđất, quyền sở hữu nhà ởvà tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên mộtngười.

Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền vối đất hoặc quyền sở hữunhà ở và tài sản khácgắn liềnvới đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thìđược cấp đổi sangGiấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữunhàở và tài sản khác gắn liền vói đất để ghi cảhọ, tên vợ và họ,tên chồng nếu cóyêu cầu”.

Để quy định chi tiết việc thể hiện nội dung quyền tiếp cận đất đai của phụ nữthể hiện trên giấy GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, tại điểm d, khoản 1 Điều 76 Nghị định 43/2014 quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai2013:

“Trường hợp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sảngắn liền với đấtlàtài sản chung của vợ và chồng mà Giấychứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, têncủa vợhoặc của chồng, nay có yêu cầu cấp đổi Giấy chứng nhận để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng.” Đồng thời tại điểm d, khoản 1, Điều 5, Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/05/2014 đã quy định cụ thể như sau: ‘Trường hợp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của hai vợ chồng thì ghi họ tên, năm sinh, tên và sô giấy tò nhân thân, địa chỉ thườngtrú của cả vỢ và chồng như quy định tại điểm a và điểm b khoản này”.

Mối đây nhất, Bộ Tài nguyên và Môi trường có Công văn 3362/BTNMT- TCQLĐĐ năm 2021 về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyên sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liềnvới đất mang tên cả vợ và chồng. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị các địa phương quan tâm, chỉ đạo 2 nội dung cụ thể: Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bình đẳng giới, về quyền của người phụ nữ đối với tài sản chung của vợ và chồng, trong đó có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Việc này giúp người dân

NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 9-2021

(4)

NGUYỄN ĐĂNG PHÚ hiểuđược tầm quan trọng và nâng cao tính

tự tin, thúc đẩy sự sáng tạo để nâng cao vị thế, vai trò của người phụ nữ, tạo sự bình đẳng trong xã hội. Thứ hai, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp mới hoặc cấp đổi sổ đỏ là tài sản chungcủa vợ và chồng mà sổđỏ đãcấp chỉ ghihọ, tên củavợ hoặc chồng để ghi cả họ, tên vỢ và họ, tên chồng khi người sử dụng đất, chủ sởhữu tài sản gắn liền vối đất có nhu cầu theo quy định củapháp luậtvề đất đai (khoản 4Điều 98của LuậtĐất đai, Điều 76 của Nghị định 43/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hànhmột số điều của Luật Đất đai).

Dựa vào các quy định của pháp luật đất đai 2003 và Luật Đất đai hiện hành 2013 như trên,có thể nhậnthấy:

Về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ, Luật Đấtđainăm 2003quyđịnh rất đơngiản và cũng không hướngdẫn gì thêm, đồng thời quy định này chỉ mang tính “lý thuyết” và trên thực tế không hề được quan tâm thực hiện. Đến Luật Đất đai năm 2013, các nhà làm luật tái khẳngđịnhquyềnbìnhđẳng của

□hụ nữ trong việc đứng tên trên GCNQSDĐ cũng với quy địnhGCNQSDĐ phải ghi cả họ, tên của cả vợ và chồng khi quyền sử dụng đất la tài sản chung của vợ chồng. Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2013 còn quy định việc cấp đổi GCNQSDD từ tên một người thành tên của ca vợ chồng. Không chỉ luật hóa các quy định như trên, trong quá trình triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013, các cơ quan chức nạng cũng đã ýthức được tầm quan trọng của quy định này và dần dần xác định đây là nguyên tắc bắt buộc phải thực hiện khi cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng.

Tuy nhiên, như đã đề cậpở trên, mặc dù pháp luật hiện hành đã có sự phát triển đáng kể để tăng cường, đảm bảo quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ nói chung và trong hoạt động cấp GCNQSDĐ nói riêng, nhưng các quy định tại khoản 4 Điều 98 Luật Đất

đai năm 2013 vẫn tạo ra khoảng trống dễ dẫn đến việc không đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ trong việc thực hiện quyền tiếpcận đất đai. Cụ thể:

Thứnhất, đoạn 1, khoản 4, Điều 98 quy định rằng “phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấychứng nhận quyền sử dụng đất” nhưng khoản 4 lại quy định thêm nội dung trên sẽ không phải thực hiện trong trường hợp “vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người”.

Việc Luật Đất đai quy định trường hợp loại trừ như trên nhằm đảm bảo quyền tự do thỏa thuận, tự định đoạt của vợ chồng cũng chính là chủ sở hữu tài sản. Tuy nhiên, thực tếquy định này không có nhiều ý nghĩa. Bởi lẽ, rõ ràng việc ghi tên một người chỉ có ýnghĩa về mặt hình thức trình bày trên giấy chứng nhận, còn về bản chất thì đây vẫn là tài sản chung của vợ chồng nên mọi giao dịch liên quan đều phải được sự đồng ý của cả hai vỢ chồng. Do đó, thay vì thể hiện tinh thầntôn trọng quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng thì quy định trên vô hình chung trở thành rào cản, xâm phạm quyền của phụ nữ vì nhiều trường hợp lợi dụng việc trên giấy chứng nhận chỉ ghi tên một người mà đã thực hiện giao dịch trái pháp luật, không có sự đồng ý của ngườivỢ - đồng chủ sở hữu đốìvới tài sản chung,dẫn đến hệquảquyền lợi của mình bịxâm hại.

Thứ hai, đoạn 2, khoản 4, Điều98có quy định việc cấp đổi GCNQSDĐ từ tên một người thành tên của cả vợ chồng. Mặc dù quy định rõ như vậy nhưng chưa tìm thấy vănbảnnào hướng dẫn đổi GCNQSDĐ một tên (chồng hoặc vợ) thành hai tên cả chồng và vợ khi có đủ điều kiện pháp lý đối với trường hợp GCNQSDĐ được cấp từ trước năm 2004.

Mặt khác, đốì với cụm từ ‘hếu có yêu cầu” dường như đã tạo ra hạn chế sự quyết tâm của các cấp chính quyền và phụ nữ - NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI □

SỐ 9-2021

(5)

QUYỀN TIẾP CẬNĐẤT ĐAICỦAPHỤNỮ ở VIỆT NAM HIỆNNAY người vợ trong việc cấp đổi GCNQSDĐ đứng

tên cả chồng và VỢ; Quy định trên đồng nghĩa với trường hợp thay đổi từ tên một người sang tên của cả vợ và chồng là không bắt buộc và chỉ cần thực hiện khi “có yêu cầu”. Xét trong tương quangiữa thực tiễnvề đất đai và quyền lợi của phụ nữ, quy định mở như trên chỉ phù hợp trong trường hợp GCNQSDĐ đã được cấp từ trước khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực. Nhưng đối với những trường hợp GCNQSDĐ được cấp kể từ ngày Luật Đất đai 2003 có hiệu lực rơi vào trường hợp như đoạn 2, khoản 4, Điều 98 mà Luật Đất đai 2013 không có hưống dẫn gì thêm và vẫn cho phép trường hợp này chỉ cần cấp đổi khi yêu cẩu vừa không đảm bảo quyền lợi của đồng sở hữu, vừa không đảm bảo tính pháp chế. Bởi như đã nói ở trên, vấn đề ghi cả họ tên vợ và họ tên chồng nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng đã được quy định ngay trong Luật Đất đai năm 2003, nhưng quá trình thi hành các chủ thể đều không xác định quy định này như một quy phạm bắt buộc nên thực tế có rất nhiều trường hợp cấp GCNQSD đất vi phạmquy địnhnày.

Thựctrạng áp dụngpháp luậtquyền tiếp cận đất đai của phụ nữ

Mặc dù hệ thống pháp luật chính thống rất chú trọng bảo vệ quyền bình đẳng về tài sản, nhưng trên thực tế phụ nữ vẫn đang bị loại khỏi việc được hưởng lợi từ các quyền này. Tình trạng đứng tên một bên trên giấy tờcũng như giao dịch về đất, nhà vẫn phổ biến, nhấtlà ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùngxa đã dẫn đến sự bất bình đẳng về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ so với nam giới. Hệ quả là người phụ nữ dễ mất quyền với đất đai trong mọi trường hợp, nhất là khi vợ chồng ly hôn hoặc góa bụa. Đấy là chưa kể đến khó khăn của phụ nữ trongtrườnghợp cần vay vốn tín dụng của Nhà nước khi chồng ôm

đau hay được quyền quyết định chủ động đốivới nhiều vấn đề khác.

Theobáo cáo về Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội hiện nay được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) công bố năm 2013, tại 10tỉnh thành đại diệncho sự đa dạng của các vùng kinh tê và tộc người bao gồm Hà Nội, Thành phô' Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Lâm Đồng, Long An, Nghệ An, Ninh Thuận, Quảng Ninh, Sơn La, Trà Vinh, tỷ lệ cả chồng và vợ cùng đứng tên trên GCNQSDĐ chỉ chiếm 22% trong khi nếu đứng tên riêng người chồng thì gấp đôi tỷ lệ này.

Trong báo cáo Khảo sát quyền tiếp cận đất của phụ nữ do Nhóm An ninh lương thực và giảm nghèo (CIFPEN) và Tổ chức Actionaid Việt Nam (AAV) thực hiện năm 2008, thậm chí có tởi trên 90% GCNQSDĐ ghi tên một người mà phần lớn là người chồng. Có thể thấy, hai báo cáo này phân tích khá chi tiết và nhiềukhía cạnh qua các chỉ báo khác nhau, không chỉ GCNQSD đất (được giao trong nông lâm nghiệp) mà còn đất ở, đất mua bán, thừa kế... các vùng miền khác nhau.

So sánh hai báo cáotại thờiđiểm saukhi Luật Đất đai sửa đổi năm 2013 có hiệu lực và sau ngày Luật Đất đai năm 2003 ra đời, mặc dù tỷ lệ GCNQSDĐ ghi tên riêng chồng/vợ có giảm đi nhưng chỉ đốì với khu vực thành phô' và đồng bằng ven thành phô' còn khu vực miền núi và nông thôn thì không được cải thiện. Theo kết quả Báo cáo nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc cấp Giấy chứng nhận mang tên cả vợ và chồng nhằm bảo đảm quyền bìnhđẳng của phụ nữ của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 20/5/2020, đến nay tổng sô' Giấy chứng nhận đã cấp cho hộ gia đình, cá nhân là 24,69 triệu Giấychứngnhận (hộ gia đình là 15,07 triệu Giấy chứng nhận, cá nhân là 5,01 triệu Giấy chứng nhận, cả vợ và chồng là

[3

NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 9-2021

(6)

NGUYỄNĐÀNG PHÚ 4,6 triệu Giấy chứng nhận), trong đó có

15,68 triệu Giấy chứng nhận có tên người phụ nữ. Điều này cho thấy, pháp luật quy định phụ nữ, đặc biệt là ngườivợ, có quyền đứng têntrong GCNQSDĐ nhưng trênthực tê quyền này chưa được bảo đảm thực hiện và dù có đủ điều kiện pháp lý thì vẫn gặp những rào cản khiến họ không được hưởng trọn vẹn quyền chính đáng của mình.

Nguyên nhân của những hạn chê còn tồn tại

Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát từ nhiều lýdo nhưng các ràocảnchính hạnchế sự tiếp cận đất đai của phụ nữ liên quan chủ yếu đến các quy định pháp luật, nhận thức của người phụ nữ, thực hành dòng họ, tiếp cận dịch vụ pháp lý và định kiến về giới.

Thứ nhất, đối với rào cản pháp lý: Như đãphân tíchởtiểu mụcthực trạng quyđịnh của pháp luật thì quyền tiếp cận đất đai trên thực tế còn chưa phát huy vai trò là công cụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người phụ nữ xuất phát từ ngay trong chính các

quy định của pháp luật hiệnhànhvề quyền tiếp cận đất đai đặc biệt là quy định tại khoản 4, Điều 98, Luật Đất đai 2013. Tuy các quy định đã nhấn mạnh đến sự bình đẳngtrongviệctiếpcận đất đai của phụ nữ, slong do luật được viết ra theo hưởng quá chung chung nên đã tạo ra khoảng trống, khiến nhữngngười thựcthi pháp luậtcó thể dựa vào nhận thức luận của họ để đưa ra cac quyết địnhbất lợi cho phụ nữ trongviệc tiếp cậnvối quyền về đất đai. Mặt khác, các cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thi hành án và Hội phụ nữ trong thi hành án các bản án liên quan tới hôn nhân gia đìnhvà phân chia tài sản sau ly hôn chưa mang lại hiệu qua cao.

Thứ hai, rào cản từ nhận thức chưa đầy về quyền được đứng tên trên GCNQSDĐ . phụ nữ: Thực tế có rất nhiều phụ nữ đủ

củi

vẫnchưa hiểu hết quyền lợi củamình khi có tên trong GCNQSDĐ. Nhiều phụ nữ còn không hiểu ý nghĩa của việc đứng tên vợ, chồng như thế nào, trong khi những người đànông lại cho mình là chủ gia đìnhvà chỉ cần mình đứng tên là được. Đa sốngười dân ở các vùng khảo sát chưa biết đến quy định về cấp GCNQSDĐ mang hai tên vợ và chồng, từ đó chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích của quyền tiếp cận và sử dụng đất của người phụ nữ. Vì vậy, mặc dù người phụ nữ tham gia vào hoạt động trồng trọt nhiều không kém đàn ôngnhưng đại đa sốchủ hộ đứng tên là nam giới.

Thứ ba, rào cản từ những quan niệm lạc hậu trong gia đình, dòng họ và xã hội (thực hành dòng họ): về mặt lý thuyết, pháp luật thừa kế của Việt Nam hiệnnay đảm bảo sự bìnhđẳng cho nam và nữ. Nhưng trên thực tế, việc thực hành luậtlại vẫn tồn tạimột số yếu tố loại trừ phụ nữ ra khỏi sựtiếp cậnvề đất đai mà một trong sô" đó phải kể đến là những quan niệm đã “cũ” trong các gia đình.Thực hành dòng họ, đặc biệt là ở vùng nông thôn, nổi lên như một rào cản nổi trội nhất trongviệc loại trừ phụ nữ tiếp cận với tài sản gia đình do quan niệm nhấn mạnh đếnvai trò của con traitrong việc nốì dõi và thò cúng tố tiên. Khi phải tiếp cận dịch vụ pháp lý để đòi quyền lợi cho mình, phụ nữ phải đôi mặt vối hàng loạt trở ngại, từ những khó khăn về ngôn ngữ đến quan hệ quyền lực hay những thủ tục và chi phí hànhchính.

Ngoài ra, nguyên nhân dẫn đến thực trạng áp dụng quyền trên thực tế chưa đạt hiệu quả còn xuất pháttừviệc các cấpchính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải tiến hành cấp đổi GCNQSDĐ; thủ tục hành chính còn rườm rà, chi phí mà người dân phải trả cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn cao; công tácthôngtin tuyên truyền vềLuật NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI □

2021

(7)

QUYỂN TIẾP CẬNĐẤT ĐAI CỦAPHỤNỮỞVIỆT NAMHIỆN NAY Đất đai chưa được quan tâm đúng mức; phí

cấp đổi, cấp mối cònkhá cao sovới thu nhập của người dân, thời gian để thực hiện cấp đổi cấp mới giấy chứng nhận cũng như việc cung cấp các giấy tờ/tờ khai để được cấp đổi cấp mới cũng còn chưa tạo được điều kiện thuận lợi chongưdi dân.

3. Một sô đề xuất, kiến nghị nhằm khắc phục thực trạng pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tiếpcận đất đai của phụ nữ

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Như đã đề cập ở trên, mặc dù pháp luật hiện hành đã có sự phát triển đáng kể để tăng cường, đảm bảo quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ nói chung và trong hoạt động cấp GCNQSDĐ nói riêng, nhưng các quy định tại khoản 4, Điều 98Luật Đất đai năm 2013 vẫn tạo ra khoảng trống dễ dẫn đến việckhông đảmbảo quyền lợicủa phụ nữ.

Do đó, để đảm bảo không chỉ quyền tiếp cận đất đai mà còn có các quyền của chủ sở hữu, chủ sửdụng, đảm bảo tính minh bạch, đốìvới quy định này, phápluật nên bỏ phần loại trừ “trường hợp vỢ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người” và nên quy định cứng, mang tính bắt buộc rằng đổỉ với mọi trường hợp xác định quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sảnkhác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ chồng thì trênGCNQSDĐ đềuphải ghihọ, tên của cả vợ và chồng.

Đối với đoạn 2, khoản 4, Điều 98, Luật Đất đai 2013, pháp luậtchỉ quy định trường hợpthay đổi từ tên một người sang tên của cả vỢ và chồng là không bắtbuộc và chỉ cần thực hiện khi “có yêu cầu”. Vì vậy, theo quan điểm cá nhân, để đảm bảo tính thống nhất, đảm bảo quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ, quyền lợi chính đáng, bình đẳng của các chủ sở hữu quy định tại đoạn 2,

khoản 4, Điều 98 nên sửa lại theo hướng phân ra haitrường hợp: Đối với trường hợp GCNQSDĐ đã cấp chỉ ghi họ tên vợ hoặc chồng là GCNQSDĐ được cấp từ trưốc ngày 01/07/2004 thì thực hiện việc cấp đổi sang GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ghi cả họ tên vợ, họ tên chồng nếu có yêu cầu; Đối vởi trường hợp GCNQSDĐ đã cấp chỉ ghi họ tên vỢ hoặc chồng là giấy chứng nhận được cấp kế từ ngày 01/07/2004 đến trước ngày 01/07/2014 thì phải thực hiện việc cấp đổi sangGCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở vàtài sản khác gắn liền với đất ghi cả họ tên vợ, họ tên chồng, đồng thời nên xác định trách nhiệm rà soát, thực hiện thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3.2. Đẩy mạnh công tác tuyền truyền, phổ biến, giáo dục phấp luật cho phụ nữ đế nhận thức đầy đủ hơn quyền tiếp cận đất đai

Hiện nay, đối với vấn đề tăng cường quyền tiếp cận đất đai, quyền bình đẳng trong việc đứng tên cả vợ, cả chồng trên GCNQSDĐ vẫn chưa được nhận thức đúng đắn. Phần lởn chỉ cónhữngngườidân ở khu vực đô thi, những người có học vấn cao, có đời sống phát triển mới biết, quan tâm và thực thi quy định của pháp luật về vấn đề này. Còn lại ở những vùng nông thôn, dân tộc thiểu số, người dân và bản thân phụ nữ cũng không hềquan tâm đến quyền lợi này.

Chúng ta dù thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền pháp luật nhưng những hoạt động này không thực sự thuhút người dân, bản thân người thực hiện nhiều khi không tâm huyết hoặc thường mang tính đốì phó trong khi bản thân ngưòi được tuyên truyền cũng không “mặn mà”. Hiện nay, vẫn còn rất nhiều người dânkhông biết đến rằng có trường hợp pháp luật quy định GCNQSDĐ phải đứng tên cả hai vợ chồng, cũng có một bộ phận lốn dân cư đã biết đến quy định

□ NHÂN LỤC KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 9-2021

(8)

NGUYỄNĐĂNG PHÚ này nhưng họ khônghềcoitrọng nó. Cóthể

thấy, tư tưởng “trọng nam khinh nữ”,

“người vợ là phái yếu, phụ thuộc vào người chồng... vẫn còn rất sâu đậm trong đời sống của người dân.

Do đó, đòi hỏi các cấp chính quyền và toàn xã hội phải nỗ lực hơn nữa, đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyền truyền, phổ biến pháp luật cho phụ nữ nói riêng, cho mọi người nói chung đế người dân nhận thức đầy đủ hơn quyền lợi của mình về quyền tiếp cận đất đai khi cấp GCNQSDĐ. Đặc biệt quyền này chỉ thực sự có hiệu quá áp dụng trên thực tế nếuchính bản thân người phụ nữý thức đượcrằng việc ghi tên trong GCNQSDĐ là nhu cầu tự thân, cần phải có của mình. Do vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần phải đổi mói về phương thức cũng như cách tiếp cận. Đồng thời, phảixácđịnh kiên trì, bền bỉ thực hiện các hoạtđộng mang tính xã hội này bởi công cuộc thay đổi tư tưởng định kiến không thê tiếnhànhvội vàng, nhanh chóng.

Kếtluận

Có thể nói, hệ thông pháp luật nưốc ta đã tạo ra môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Nội dung pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ được quy đỉnh một cách cụ thể và tăng cường hơn so ii các quy định trước đây. Tuy nhiên, ữngquy địnhcủapháp luật chưa thực sự dặm bảotính khả thi và hiệu quả khi triển khai trênthực tế. Ngay trong chính các quy cũng còn nhiều khoảng trống trở thanh rào cản không nhỏ trong quá trình thục thi và áp dụng. Mặt khác, những rào cap khác trên thực tê như nhận thức của người phụ nữ, thựchành dòng họ, cũng ảnh hương đến hiệu quả thực hiện quyền trên thục tế. Vì vậy, để có thể đảm bảođượchiệu quạ áp dụng quyền tiếp cận đất đaicủa phụ nữ, cầnsốm hoàn thiện phápluật song song dị

với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp khác như cải cách thủ tục hành chính liên quan đến việc thực hiện quyền, tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức cho người dân về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; giám sát việc thực thi và bảo đảm quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ... góp phần nâng cao hiệu quả của mụctiêu thựchiện bìnhđẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiếnpháp năm 2013.

2. Luật Đất đai năm2003, 2013.

3. Luật Bình đẳng giới năm 2006.

4. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết một sô' điều của Luật đất đai 2013.

5. Thông tưsố 23/2014/TT-BTNMT ngày 29/11/2013 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy địnhvề Giấychứngnhận quyền sửdụngđất, quyền sở hữu nhà ởvà tài sản khácgắn liền với đất.

6. Công ván số 3362/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 18/6/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc cấp Giấy chứng nhận quyền dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên cả vợ chồng.

7. Báo cáo nghiên cứu “Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay”- Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), nám 2013.

8. Báo cáo Khảo sát quyền tiếp cận đất của phụ nữ ảo Nhóm Anninh lương thực và giảmnghèo (CIFPEN) và Tổ chức Actionaid Việt Nam (AAV) thực hiện năm 2008.

9. Báo cáo nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc cấp Giấy chứng nhận mang tên cả vợ và chồngnhằm bảo đảm quyền bình đẳngcủa phụnữ của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 20/5/2020.

SÔ 9-2021 NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI

01

Referensi

Dokumen terkait

Tóm lại, Các công trình, bài bài viết trên các tác giả chỉ dừng lại phần lỦ luận chung về hoạt đ ng xét xử; nghiên cứu về quyền con ng i trong tố t ng hình sự;

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tỷ lệ nữ giới tham gia khởi sự kinh doanh cao nhất trong số 54 quốc gia được khảo sát, điều này không phải là ngẫu nhiên nếu xét đến nhận thức về

Qua nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tiếp cận, sử dụng dịch vụ y tế của phụ nữ dân tộc thiểu số thấp, điều này có liên quan tới yếu tố kinh tế và văn hóa vùng miền; sự hạn chế của dịch vụ y

Thông qua đó, Nhà nước và chính quyền các thành phố lớn có những hỗ trợ thiết thực nâng cao chất lượng cuộc sống của lao động di cư, trước hết là hỗ trợ đào tạo nghề, tìm việc làm ổn

Tổng hợp một số ý kiến thảo luận xung quanh việc thời gian nghỉ thai sản và nâng tuổi về hưu của lao động nữ Việt Nam Trước hết cần xác định đối tượng được hưởng lợi từ những đề nghị

Đê bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khácbào chữa của bị cáo, Bộ luật TTHS năm 2015 đã có những quy định về quyền của bị cáo, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa như:

Quy định đầy đủ các quyền và cơ chế bảo đảm các quyền của người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng hình sự Để

Đánh giá tình hình thực hiện quyền của người sử dụng đất tại huyện Giao Thủy a Đánh giá của người dân về thực hiện quyền của người sử dụng đất tại huyện Giao Thủy Số liệu điều tra