RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM HỆ ĐÀO TẠO
THCS Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÀ LẠT
Nguyễn Thị Phương Thảo* Tóm tắt: Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là một học phần bắt buộc trong chương trình đào tạo sinh viên sư phạm; tuy nhiên, học phần này có sự khác biệt với các học phần khác ở chỗ: học phần thực hành sư phạm có nhiệm vụ trọng tâm là dạy nghề cho sinh viên, giúp sinh viên biến hệ thống tri thức đã học thành những kĩ năng sư phạm, gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Qua hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, sinh viên được tập dượt những thao tác, những kĩ năng cơ bản để thể nghiệm và nâng cao năng lực dạy học, năng lực giáo dục ở trường Trung học cơ sở, năng lực phát triển nghề giáo viên và được chuẩn bị những điều kiện cần thiết về tâm lý và kĩ năng sư phạm để bước vào nghề. Qua kết quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên, nhà trường có thể kịp thời đánh giá chất lượng đào tạo của mình, từ đó rút kinh nghiệm, xây dựng kế hoạch và chương trình đào tạo cho phù hợp với yêu cầu và nhu cầu của thực tiễn.
Từ khóa: Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, năng lực, năng lực nghề nghiệp, giáo viên.
1. Mở đầu
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (RLNVSP) là một trong những hoạt động quan trọng của trường sư phạm nhằm đào tạo những nhà giáo vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Hoạt động này mang tính chất thường xuyên nên nó trở thành điều kiện quan trọng và thuận lợi để rèn luyện kĩ năng (KN) sư phạm cho sinh viên (SV), là cầu nối giữa lí luận đào tạo giáo viên (GV) với thực tiễn giáo dục. Trong các hoạt động RLNVSP, SV có điều kiện bộc lộ năng lực thực tiễn của mình và được thực tiễn kiểm nghiệm, đánh giá. Hơn nữa, do kết quả RLNVSP được đánh giá bằng “người thực, việc thực”
nên hoạt động này có một ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành phẩm chất và năng lực nghề nghiệp cho SV và là “đòn bẩy” nâng cao chất lượng đào tạo GV có trình độ, năng lực, đáp ứng những yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thông. Điều 35 Luật Giáo dục khẳng định: “Đào tạo trình độ cao đẳng giúp SV có kiến thức chuyên môn và kĩ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành đào tạo” [3, tr.10].
2. Năng lực và năng lực nghề nghiệp
Theo quan điểm của những nhà tâm lí học, năng lực (NL) là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. NL của con người không hoàn toàn do tự nhiên mà có, phần lớn là do quá trình học tập, rèn luyện mà nên.
GS.TS. Đinh Quang Báo: Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và hiệu quả trong những tình huống đa dạng của cuộc sống [1].
Khoản 2, điều 3 Chuẩn nghề nghiệp GV cơ sở giáo dục phổ thông xác định: “Năng lực là khả năng thực hiện công việc, nhiệm vụ của GV”.
Như vậy, bản chất của năng lực chính là khả năng chủ động ứng phó linh hoạt, sáng tạo của mỗi cá nhân trong những tình huống cụ thể, bất ngờ của thực tiễn nghề nghiệp, của cuộc sống; là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận hành, kết nối chúng một cách hợp lí để thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của chuyên môn, của cuộc sống.
- Năng lực nghề nghiệp (NLNN): Là sự tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người đáp ứng các yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp và đảm bảo cho hoạt động nghề nghiệp đạt kết quả cao. Như thế, NLNN được cấu thành từ ba yếu tố: tri thức chuyên môn; kĩ năng hành nghề và thái độ với nghề.
Chuẩn nghề nghiệp GV cơ sở giáo dục phổ thông là hệ thống phẩm chất, năng lực mà GV cần đạt được để thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục học sinh (HS) trong các cơ sở giáo dục phổ thông [4]. Chuẩn nghề nghiệp quy định, GV phổ thông có 5 tiêu chuẩn với 15 tiêu chí, đó là những năng lực mà sinh viên sư phạm (SVSP) cần đạt được khi kết thúc khóa học để trở thành người GV làm nhiệm vụ giáo dục và giảng dạy tại các cơ sở giáo dục ở các bậc học, gồm những năng lực sau:
Thứ nhất, những năng lực thuộc về phẩm chất nhà giáo như: Tuân thủ các quy định và rèn luyện về đạo đức nhà giáo; chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ đồng nghiệp trong rèn luyện đạo đức và tạo dựng phong cách nhà giáo.
Thứ hai, phát triển chuyên môn, nghiệp vụ gồm: nắm vững chuyên môn và thành thạo nghiệp vụ; thường xuyên cập nhật, nâng cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Cụ thể:
- Năng lực dạy học, đó là năng lực xây dựng kế hoạch giảng dạy môn học ở trường Trung học cơ sở (THCS), thể hiện ở khả năng xác định rõ mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học phù hợp với nội dung tri thức môn học, với đặc điểm tâm - sinh lý HS THCS, môi trường giáo dục và khả năng phối hợp có hiệu quả giữa hoạt động giảng dạy của thầy với hoạt động học của trò theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của HS. Năng lực dạy học theo định hướng phát triển chương trình môn học thể hiện ở khả năng dạy học, kiểm tra và đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ được quy định trong chương trình môn học ở bậc THCS, khả năng dạy - học theo định hướng phát triển năng lực tích hợp liên môn trong giáo dục HS. Năng lực vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, năng lực tự học của HS. Nghị quyết TW8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực” [2]. Năng lực sử dụng hiệu quả các phương tiện dạy - học môn học theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin, tạo điều kiện cho HS tự tiếp cận các nguồn thông tin qua mạng Internet, tự khai thác các chủ đề theo sở thích của cá nhân và năng lực kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn học của HS một cách toàn diện, chính xác, khách quan, công bằng và công khai.
- Năng lực giáo dục qua môn học được thể hiện ở năng lực tổ chức và quản lý lớp học với việc xây dựng môi trường học tập và giáo dục tốt, quản lý hồ sơ dạy học và giáo dục, xây dựng và thực hiện nội quy, quy định của trường, của lớp; tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa hoặc hoạt động trải nghiệm; phát hiện, xử lý và giải quyết các tình huống sư phạm một cách chính xác, đúng mực và mang tính giáo dục, định hướng cho HS; phối hợp hoạt động giáo dục với các tổ chức, đoàn thể như: Hội phụ huynh HS, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội khuyến học.
- Năng lực phát triển nghề nghiệp như: năng lực tự đánh giá, tự học và tự rèn luyện về nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy môn học. Đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng giúp người GV tự học suốt đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu” [5].
Hay nói cách khác, NLNN của SVSP hệ đào tạo THCS được hiểu là tổ hợp những kiến thức, kĩ năng, thái độ cần thiết để thực hiện thành công các công việc chuyên môn của người GV theo những tiêu chuẩn, tiêu chí đặt ra.
3. Một số giải pháp cơ bản rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hệ đào tạo THCS ở trường CĐSP Đà Lạt
Từ sự phân tích về NLNN của GV giảng dạy ở bậc THCS có thể thấy: NLNN của SVSP hệ đào tạo THCS là kết quả tổng hợp của ba thành tố: Kiến thức chuyên môn về môn học, nghiệp vụ sư phạm về giảng dạy môn học và thái độ đối với nghề dạy học. Phát triển NLNN cho SVSP hệ đào tạo THCS chính là việc nâng cao chất lượng ba thành tố này. Trong đó, nâng cao chất lượng của quá trình rèn luyện NVSP chính là nâng cao sự hiểu biết về nghề nghiệp, kĩ năng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho SVSP hệ đào tạo THCS. Những năng lực này được phát triển trong suốt cuộc đời hoạt động nghề nghiệp của người GV, trong đó giai đoạn đào tạo ban đầu ở trường sư phạm giữ vai trò nền tảng. Tuy nhiên, trong thực tế ở trường sư phạm, khả năng xử lí tình huống sư phạm, khả năng tự nghiên cứu chỉ được học và thực hành qua một số phân môn với thời lượng khiêm tốn. Thực tế này khiến SV mới ra trường khó đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp. Do đó, hoạt động RLNVSP theo định hướng phát triển NLNN cho SVSP hệ đào tạo THCS của trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt cần làm tốt các giải pháp sau:
Một là, quán triệt cho sinh viên ngay từ những ngày đầu tựu trường tầm quan trọng, sự cần thiết phải quan tâm đến RLNVSP. Các khoa chuyên môn cần tổ chức các buổi tọa đàm giữa SV năm thứ nhất với các thầy cô có nhiều kinh nghiệm, với SV năm thứ hai, thứ ba hoặc có thể mời các GV dạy giỏi ở các trường THCS đến nói chuyện. Việc này giúp định hướng cho SV biết khi theo đuổi nghề này cần phải rèn luyện những kĩ năng nghề nghiệp gì? Cần xem mình có thế mạnh và hạn chế gì? Qua đó, giúp SV xây dựng kế hoạch rèn luyện kĩ năng và nghiệp vụ cho bản thân.
Hai là, phải xác định RLNVSP cho SV không chỉ là nhiệm vụ của giảng viên bộ môn phương pháp, mà là nhiệm vụ của tất cả các giảng viên tham gia đào tạo của mỗi ngành. Mỗi giảng viên cần ý thức được mỗi giờ lên lớp giảng dạy là những giờ truyền nghề, dạy nghề, giúp đỡ SV RLNVSP.
Ba là, vận dụng linh hoạt quy trình và thời gian RLNVSP trong suốt ba năm học, trong đó thực tập sư phạm là khâu cuối cùng của quá trình đào tạo trong trường sư phạm, là môi trường thực tế để SV thể hiện đầy đủ nhất kết quả học tập và RLNVSP của mình. Mô hình RLNVSP hiện nay là: nhà trường dạy cho SV lý thuyết về NVSP, còn thực hành chủ yếu được thực hiện ở các trường THCS qua thời gian kiến tập ba tuần (đối với sinh viên năm thứ 2) và thực tập năm tuần (đối với sinh viên năm thứ ba). Theo định hướng phát triển NLNN thì đây là mô hình chưa thực sự hiệu quả, cần thay đổi theo cách: Tăng cường tổ chức các tiết dạy mẫu, mời các GV giỏi,
có kinh nghiệm giảng dạy môn học ở trường THCS cùng thiết kế, xây dựng, thực hiện những giờ lên lớp ngay tại giảng đường ở trường sư phạm. Đồng thời, tăng cường hơn nữa việc đào tạo kĩ năng tổ chức các hoạt động giáo dục cả trong và ngoài giờ lên lớp.
Bốn là, đổi mới nội dung, chương trình và hình thức RLNVSP. Chương trình áp dụng hiện nay còn nhiều bất cập. Các học phần Tâm lý học, Giáo dục học, thậm chí phương pháp giảng dạy bộ môn còn nặng về lý thuyết, chưa thực sự gắn kết và bắt kịp với sự biến đổi ngày càng phức tạp ở thực tế giảng dạy ở trường THCS. Học phần phương pháp dạy học (PPDH) môn học chỉ có thời lượng 2 - 4 tín chỉ (tùy thuộc vào ngành đào tạo) mà giảng viên phải trang bị cho SV cả lý luận chung về PPDH bộ môn, lý thuyết và thực hành giảng dạy cho bốn khối 6, 7, 8 và 9 là quá nặng. Mặc dù giảng viên đã cố gắng giúp SV nắm vững hệ thống các PPDH và cập nhật những vấn đề đổi mới về PPDH ở trường THCS nhưng chưa thể rút ngắn được khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa đào tạo ở trường sư phạm với thực tế giảng dạy ở trường THCS.
Hiện nay, nhiệm vụ dạy - học môn học ở trường THCS đã có nhiều thay đổi, đề cao các hoạt động thực hành nhằm phát triển năng lực cho HS. Từ thực tế này, cần xem xét và điều chỉnh nội dung RLNVSP cho phù hợp và hiệu quả theo hướng: giảm bớt lý thuyết, tăng cường thực hành, gắn kết với thực tiễn giáo dục ở trường THCS, chú trọng các KN dạy học, giáo dục cho SV, đặc biệt là KN giao tiếp, ứng xử, KN tư vấn, KN tổ chức các hoạt động… Chú trọng tới dạy mẫu, coi đây là một yêu cầu bắt buộc trong quy trình RLNVSP. Xác định cụ thể nội dung RLNVSP với hệ thống các KN sư phạm cơ bản cần hình thành cho SV sau khi ra trường, như: KN thiết kế, KN thực hiện, KN đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của HS. Cụ thể hóa nội dung RLNVSP thành hệ thống các mục tiêu của các hoạt động tập luyện trong quá trình RLNVSP dưới các hình thức như: thực hành thường xuyên, kiến tập cho SV (năm thứ 2) và thực tập sư phạm cho SV (năm thứ 3). Trên cơ sở đó đưa ra quy trình tập luyện với sự tổ chức một cách khoa học. Đây là con đường hình thành KN sư phạm sinh động, nhanh và hiệu quả. Tăng cường sử dụng băng hình trong RLNVSP cho SV vì với khoảng thời gian quá ngắn của các đợt kiến tập, thực tập sư phạm không thể đủ để SV hiểu hết thực tiễn giảng dạy ở trường THCS.
Thứ năm, xây dựng quy trình RLNVSP cho SV với các bước, các khâu cụ thể nhằm hình thành cho SV những KN tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học và tự học cho HS. Trên cơ sở đó đưa ra các mục tiêu và quy trình luyện tập sao cho trong đó tạo ra sự tích cực hóa các hành động vận dụng tri thức của SV trong sự thống nhất với các hoạt động chỉ đạo của giảng viên hướng dẫn. Hơn nữa, trong quy trình cần nêu rõ
“chuẩn” các KN của quá trình luyện tập, đó là cơ sở để thống nhất việc hướng dẫn,
kiểm tra, đánh giá từng KN và toàn bộ quá trình thực hành – thực tập sư phạm một cách chính xác và khách quan.
Thứ sáu, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho RLNVSP. Để công tác RLNVSP đạt kết quả tốt cần phải có các phòng học chuyên dụng với đầy đủ các trang thiết bị cần thiết: Bảng, phấn, gương, camera, máy chiếu, màn hình, đầu đĩa, các loại đồ dùng trực quan... Ở đó, SV có thể tập giảng, rèn luyện theo một quy trình khoa học và chỉnh sửa các thao tác nghề nghiệp chưa chuẩn.
4. Kết luận
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt là cơ sở đào tạo nghề đặc biệt - nghề dạy học, nghề làm thầy. NLNN của mỗi SVSP nói chung, SVSP hệ đào tạo THCS nói riêng có được chính là kết quả của quá trình RLNVSP một cách bền bỉ, là nét đặc thù, là hoạt động cơ bản để rèn luyện tay nghề cho SV. Chỉ khi nâng cao chất lượng của hoạt động RLNVSP thì mới có thể nâng cao tay nghề cho SV, NLNN của SV mới có thể đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Quang Báo (2012), Kỷ yếu “Đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông - Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào Việt Nam”, Bộ GD-ĐT tổ chức ngày 10-12/12/2012.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương, NXB Bộ Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
3. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Luật giáo dục, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội (sửa đổi bổ sung 2009).
4. Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định Chuẩn nghề nghiệp GV phổ thông.
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Giáo dục (2005), NXB Lao Động, Hà Nội.