• Tidak ada hasil yang ditemukan

TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC THEO CÁC CHỈ SỐ CỦA THÔNG TƢ SỐ 21/2013/TT-BYT TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HẬU GIANG

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC THEO CÁC CHỈ SỐ CỦA THÔNG TƢ SỐ 21/2013/TT-BYT TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HẬU GIANG"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC THEO CÁC CHỈ SỐ CỦA THÔNG TƢ SỐ 21/2013/TT-BYT TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HẬU GIANG

Bùi Hoàng Quân1*, Dương Xuân Chữ2 1. Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang 2. Trường Đại học Y Dược Cần Thơ

* Email: [email protected] TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Công tác dược bệnh viện đã có những bước phát triển cơ bản về mọi mặt góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng khám, điều trị tại các cơ sở y tế. Bên cạnh đó, việc chưa xác định được chỉ số sử dụng thuốc đạt một chuẩn mực nhất định, đã dẫn đến việc sử dụng thuốc thiếu hiệu quả và bất hợp lý, làm gia tăng chi phí cho người bệnh, giảm chất lượng chăm sóc sức khoẻ và uy tín của các cơ sở khám chữa bệnh. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Xác định tỷ lệ các chỉ số sử dụng thuốc đạt tiêu chuẩn tại Bệnh viện đa khoa Hậu Giang năm 2017. 2) Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chỉ số sử dụng thuốc không đạt tiêu chuẩn. 3) Đánh giá kết quả cải thiện các chỉ số sử dụng thuốc sau can thiệp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang có can thiệp gồm 768 đơn thuốc và 768 hồ sơ bệnh án trong 02 năm 2017 – 2018. Kết quả:

trong năm 2017, tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh chiếm 47,40% và đơn thuốc vitamin chiếm 19,01%, tỷ lệ hồ sơ bệnh án có kháng sinh chiếm 78,39% và đơn thuốc có vitamin chiếm 50%; trong năm 2018, tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh giảm xuống 44,27% và đơn thuốc vitamin chiếm 18,49%, tỷ lệ hồ sơ bệnh án có kháng sinh giảm xuống 71,35% và đơn thuốc có vitamin chiếm 53,65% . Kết luận: tỷ lệ sử dụng kháng sinh tại Bệnh viện đa khoa tỉnh cao hơn tỷ lệ bình quân của cả nước, do đó cần phải giám sát chặt chẽ việc kê kháng sinh trong điều trị.

Từ khóa: chỉ số sử dụng thuốc, kháng sinh, vitamin.

ABSTRACT

THE DRUG USE ACCORDING TO THE CIRCULAR’S GUIDELINE NO. 21/2013/TT- BYT IN HAU GIANG GENERAL HOSPITAL

Bui Hoang Quan1, Duong Xuan Chu2 1. Hau Giang General Hospital 2. Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: The hospital pharmacy has made basic development steps in all aspects, contributing to improve the quality of medical examination and treatment at medical establishments.

In addition, the undetermined drug use index reached a certain standard, which resulted in ineffective and unsuitable drug use, led to increasing costs for patients, reduced the quality of health care and prestige of medical facilities. Objectives: 1) Determine the rate of standardized drug use indicators at Hau Giang General Hospital in 2017. 2) Find out the factors related to the substandard drug use index. 3) Evaluate the improved results of post-intervention drug use indexes in Hau Giang General Hospital. Materials and methods: A cross-sectional descriptive and interventional study was carried out of 768 prescriptions and 768 medical records in 02 years 2017 - 2018. Results: In 2017, the rate of drugs prescription containing antibiotics accounted for 47.40% and vitamins accounted for 19.01%, the rate of medical records with antibiotics accounted for 78.39% and vitamins accounted for 50%; In 2018, the rate of antibiotics prescriptions was reduced to 44.27% and the vitamins prescription accounted for 18.49%, the rate of medical records with antibiotics reduced to 71.35%

and prescriptions with vitamin accounted for 53, 65%. Conclusions: The rate of antibiotic use at the provincial general hospital is higher than the national average, so it is essential to monitor closely the prescribed antibiotics in the treatment.

Key words: drug use index, antibiotic, vitamin.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Công tác dược bệnh viện đã có những bước phát triển cơ bản về mọi mặt góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng khám, điều trị tại các cơ sở y tế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, việc sử dụng thuốc thiếu hiệu quả và bất hợp lý trong bệnh viện đã, đang là

(2)

điều đáng lo ngại, đó là nguyên nhân làm tăng chi phí cho người bệnh, giảm chất lượng chăm sóc sức khoẻ và uy tín của các cơ sở khám chữa bệnh

Bên cạnh đó, việc chưa xác định được chỉ số sử dụng thuốc đạt một chuẩn mực nhất định, đã dẫn đến việc sử dụng thuốc thiếu hiệu quả và bất hợp lý, làm gia tăng chi phí cho người bệnh, giảm chất lượng chăm sóc sức khoẻ và uy tín của các cơ sở khám chữa bệnh. Trên cơ sở đó chúng tôi nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc theo các chỉ số của Thông tư số 21/2013/TT-BYT tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang” được thực hiện nhằm các mục tiêu như sau:

1. Xác định tỷ lệ các chỉ số sử dụng thuốc đạt tiêu chuẩn tại Bệnh viện đa khoa Hậu Giang năm 2017

2. Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chỉ số sử dụng thuốc không đạt tiêu chuẩn.

3. Đánh giá kết quả cải thiện các chỉ số sử dụng thuốc sau can thiệp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang.

II. ĐỐI TƢỢNG & PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu

- Danh mục thuốc bệnh viện sử dụng theo báo cáo xuất, nhập, tồn.

- Các đơn thuốc sử dụng tại Khoa Khám bệnh;

- Hồ sơ bệnh án tại các khoa điều trị.

Tiêu chuẩn lựa chọn

Thuốc có trong danh mục thuốc của bệnh viện được sử dụng tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang; hồ sơ bệnh án có đầy đủ thông tin cần nghiên cứu; các đơn thuốc có đủ thông tin về hành chính.

Tiêu chuẩn loại tr

Thuốc do các chương trình tài trợ miễn phí cho bệnh viện; thuốc phiến y học cổ truyền; các bệnh án, đơn thuốc không đủ thông tin hành chính, chữ ký của bác sỹ.

2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu

- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô trả cắt ngang, có can thiệp.

- Cỡ mẫu

* Đối với cỡ mẫu của mục tiêu 1 và mục tiêu 3 Trước can thiệp:

Cỡ mẫu hồ sơ bệnh án: n= Z2 [p(1-p)]/d2

n: cỡ mẫu; Z: hệ số tin cậy (1,96); d: sai số mong muốn (5%), p: tỷ lệ trong nghiên cứu, do chưa có nghiên cứu trước đó nên chọn p= 0,5. Kết quả lấy 384 hồ sơ bệnh án và 384 đơn thuốc.

Sau can thiệp: tương tự như cỡ mẫu trước can thiệp, kết quả lấy 384 hồ sơ bệnh án và 384 đơn thuốc.

* Đối với cỡ mẫu mục tiêu 2:

- Tất cả các thuốc có trong danh mục thuốc được Giám đốc Bệnh viện đa khoa tỉnh phê duyệt.

- Tất cả các thuốc có trong báo cáo xuất, nhập, tồn.

Nội dung nghiên cứu

- Xác định tỷ lệ các chỉ số sử dụng thuốc đạt tiêu chuẩn tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2017: Phân tích cơ cấu danh mục thuốc chủ yếu và danh mục sử dụng tại Bệnh viện; các chỉ số kê đơn trong điều trị ngoại trú; các chỉ số sử dụng thuốc trong nội trú.

- Các yếu tố liên quan đến chỉ số sử dụng thuốc không đạt chuẩn: thông qua phân tích ABC-VEN, phương pháp DDD/100 ngày-giường (liều xác định theo ngày) xác định các chỉ số không đạt chuẩn.

- Đánh giá kết quả cải thiện các chỉ số sử dụng thuốc sau can thiệp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang: chỉ số kê đơn và chỉ số sử dụng thuốc trong nội trú

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

(3)

3.1. Các chỉ số sử dụng thuốc đạt tiêu chuẩn tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2017

Bảng 1. Tỷ lệ các đơn thuốc có nhóm kháng sinh và vitamin

Nhóm Có sử dụng Không sử dụng Tổng

cộng

n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)

Kháng sinh 182 47,40 202 52,60 384

Vitamin 73 19,01 311 50,00 384

Nhận xét: Tỷ lệ đơn thuốc có kê đơn kháng sinh chiếm tỷ lệ 47,40%; tỷ lệ đơn thuốc có kê vitamin chiếm tỷ lệ thấp chỉ chiếm 19,01%

Bảng 2. Tỷ lệ hồ sơ bệnh án có sử dụng thuốc kháng sinh, vitamin

Nhóm Có sử dụng Không sử dụng Tổng

cộng

n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)

Kháng sinh 301 78,39 83 21,61 384

Vitamin 192 50,00 192 50,00 384

Thuốc tiêm 337 87,56 47 12,44 384

Nhận xét: Tỷ lệ hồ sơ bệnh án có chỉ định sử dụng kháng sinh chiếm 78,39%, có sử dụng vitamin chiếm 50% và có thuốc tiêm chiếm 87,56%.

3.2. Các yếu tố liên quan đến chỉ số sử dụng thuốc không đạt chuẩn Bảng 3. Tỷ lệ các thuốc theo phân tích ma trận ABC-VEN về chủng loại

Nhóm 2017 2018

n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%) P

I 154 20,18 157 23,02

P<0,05

II 545 71,43 498 73,02

III 64 8,39 27 3,96

Tổng 763 100 682

Nhận xét: Tỷ lệ các nhóm thuốc theo phân tích ma trận ABC-VEN trước và sau can thiệp giảm nhiều ở nhóm III (bao gồm CN) t 8,39% xuống còn 3,96%.

Tỷ lệ nhóm I (bao gồm AV, AE, AN, BV, CV) có thay đổi tăng t 20,18% lên 23,02%

và nhóm II (bao gồm BE, CE, BN) tăng t 71,43% lên 73,02%. Sự thay đổi giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Bảng 4. Tỷ lệ các nhóm thuốc kháng sinh phân loại theo phân tích liều xác định theo ngày (DDD)

Nhóm 2017 2018 Tỷ lệ trung bình của BYT

Cephalosporin 206,45 135,67 126

Penicillin 56,07 79,44 62,7

Quinolon 59,23 24,96 29,9

Carbapenem 9,27 2,91 1,6

Khác 39,05 30,56 54,5

Tổng 370,07 273,54 274.4

Nhận xét: Trước can thiệp, số liều DDD của Cephalosporin vượt liều bình quân rất lớn gần 2 lần, số liều DDD của quinolon cũng cao gần 02 lần so với liều bình quân.

Sau khi can thiệp, liều DDD của các nhóm kháng sinh đã tương đối phù hợp với tỷ lệ liều bình quân của cả nước, nhóm cephalosporin và quinolon giảm gần ½ liều so với trước can thiệp.

(4)

Bảng 5. Tỷ lệ các thuốc kháng sinh theo phân nhóm Cephalosporin

Phân nhóm

2017 2018

Tỷ lệ trung bình DDD Giá trị

(triệu)

Tỷ lệ

% theo

giá trị DDD Giá trị (triệu)

Tỷ lệ % theo giá

trị

C1 7,09 1.165 7,74 7,71 1.233 21,15 11,2

C2 102,12 8.331 55,36 60,89 1.362 23,55 64,4

C3 87,20 3.717 24,70 65,25 2.990 51,70 47,7

C4 10,03 1.836 12,20 1,82 209 3,61 2,7

Tổng

cộng 206,45 15.049 100 135,67 5.784 100 126

Nhận xét: Trước can thiệp tổng liều DDD cephalosporin thế hệ thứ 2 cao gần 02 lần tỷ lệ bình quân 102 liều DDD so với 64,4 liều, cephalosporin thế hệ thứ ba có 87,20 liều, cephalosporin thế hệ thứ 4 có 10,03 liều, thế hệ 1 có 7,09 liều

San can thiệp tổng liều DDD cephalosporin thế hệ thứ 2 còn 60,89 liều DDD cephalosporin thế hệ thứ ba có 65,25, cephalosporin thế hệ thứ 4 có 1,82 liều, thế hệ thứ nhất có 7,71 liều

3.3. Kết quả cải thiện các chỉ số sử dụng thuốc sau can thiệp ại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang

Bảng 6. Tỷ lệ các đơn thuốc có nhóm kháng sinh và vitamin

Nhóm Năm 2017 Năm 2018

n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%) P

Kháng sinh 182 47,40 170 44,27

P=0.385

Không 202 52,60 214 55,73

Vitamin 73 19,01 71 18,49

P=0.853

Không 311 80,99 313 81,51

Nhận xét: Năm 2018, tỷ lệ đơn thuốc chứa kháng sinh giảm khoảng 3%, t 47,40%

xuống còn 44,27%, tuy nhiên vẫn cao hơn một ít so với tỷ lệ trung bình. Tương tự, tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng vitamin giảm nhẹ t 19,01% xuống còn 18,49%.

Bảng 7. Tỷ lệ hồ sơ bệnh án có sử dụng thuốc kháng sinh, vitamin Nhóm

2017 2018

n Tỷ lệ (n=384) n Tỷ lệ P (n=384)

Kháng sinh 301 78,39 274 71,35

P<0,05

Không 83 21,61 110 29,65

Vitamin 192 50 206 53,65%

P=0.312

Không 192 50 178 46,35

Nhận xét: Tỷ lệ hồ sơ bệnh án sử dụng kháng sinh sau can thiệp chỉ còn 71,35% thấp hơn tỷ lệ bình quân của cả nước là 74,9% .

Tỷ lệ hồ sơ bệnh án sử dụng vitamin sau can thiệp tăng nhẹ t 50% lên 53,65%.

IV. BÀN LUẬN

4.1. Các chỉ số sử dụng thuốc đạt tiêu chuẩn tại Bệnh viện đa khoa Hậu Giang năm 2017 4.1.1. Các chỉ số sử dụng thuốc trong điều trị ngoại trú

Bảng 1 cho thấy tỷ lệ đơn thuốc có kê đơn kháng sinh chiếm tỷ lệ 47,40% cao hơn bình quân cả nước là 41,9%[5], đơn thuốc không chứa kháng sinh chiếm tỷ lệ 52,60%. Tỷ lệ đơn thuốc có kê vitamin chiếm tỷ lệ thấp chỉ chiếm 19,01%, đơn thuốc không chứa vitamin chiếm 80,99%

Tỷ lệ này khác với tỷ lệ của nghiên cứu tại Bệnh viện Đà Nẵng [7], tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh chiếm 36,59%, tỷ lệ đơn thuốc có vitamin chiếm 32,00%. Tỷ lệ khác với

(5)

nghiên cứu tại Bệnh viện C tỉnh Thái Nguyên [8], tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh chiếm 39,3%, tỷ lệ đơn thuốc có vitamin chiếm 2,5%. Tỷ lệ này khác với nghiên cứu tại Bệnh viện C tỉnh Thái Nguyên [8], tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh chiếm 39,3%, tỷ lệ đơn thuốc có vitamin chiếm 2,5%. Kết quả này cao hơn nhiều so với nghiên cứu tại Bệnh viện đa khoa Long An [12] khi tỷ lệ sử dụng kháng sinh chỉ chiếm 17,04%.Tỷ lệ cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu tại Bệnh viện huyện Tân Trụ tỉnh Long An [1] tỷ lệ sử dụng kháng sinh là 24% và vitamin là 12%. Tỷ lệ kháng sinh khá tương đồng với nghiên cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Long [11], tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh chiếm 47,27%; tuy nhiên khác biệt ở tỷ lệ đơn thuốc có vitamin chiếm 36,14%.

Qua các số liệu nêu trên cho thấy tỷ lệ sử dụng kháng sinh ngoại trú của Bệnh viện Hậu Giang cao hơn nhiều so với mặt bằng chung, cần phải giám sát hơn nữa việc kê đơn kháng sinh ngoại trú

4.1.2. Các chỉ số kê đơn thuốc trong điều trị nội trú

Bảng 2 cho thấy tỷ lệ hồ sơ bệnh án có chỉ định sử dụng kháng sinh chiếm gần 80 % hồ sơ bệnh án với tỷ lệ 78,39%. Tỷ lệ hồ sơ bệnh án có chỉ định thuốc tiêm chiếm hơn 80%

hồ sơ bệnh án với tỷ lệ 87,76%. Tỷ lệ đơn thuốc có chỉ định thuốc vitamin chiếm 50%. Tỷ lệ kháng sinh cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước là 74,9%.

Tại Bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ hồ sơ bệnh án có sử dụng kháng sinh chiếm tỷ lệ 43,39%, Vitamin chiếm 47,89% [13]. Như vậy tỷ lệ kháng sinh sử dụng ở bệnh viện đa khoa Hậu Giang cao hơn 1,5 lần. Kết quả cũng tương đồng với nghiên cứu tại Bệnh viện 354, tỷ lệ kháng sinh sử dụng chiếm tỷ lệ 73,5% bệnh án [10]. Kết quả cao hơn khi so sánh với nghiên cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc là 61,8% [9]

4.2. Các yếu tố liên quan đến chỉ số sử dụng thuốc không đạt tiêu chuẩn.

Bảng 3 cho thấy tỷ lệ các nhóm thuốc theo phân tích ma trận ABC-VEN trước và sau can thiệp giảm nhiều ở nhóm III (bao gồm CN) t 8,39% xuống còn 3,96%. Nhóm III là nhóm không thiết yếu chủ yếu là những thuốc bỗ trợ như glucosamin, thuốc đông dược thành phẩm. Kết quả khá tương đồng với tỷ lệ sử dụng thuốc của Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang khi có nhóm III chiếm 4,17% [14]

Bảng 4 cho thấy Kết quả phân tích liều xác định theo ngày (DDD) trước can thiệp, cho thấy số liều DDD của Cephalosporin vượt liều bình quân rất lớn gần 2 lần, số liều DDD của quinolon cũng cao gần 02 lần so với liều bình quân.

Theo báo cáo sử dụng kháng sinh tại 15 bệnh viện Việt Nam năm 2008-2009 của Bộ Y tế, tổng liều DDD trên 100 ngày giường của kháng sinh trung bình của các bệnh viện khu vực phía Bắc là 270 DDD, phía Nam là 206,7 DDD, miền Trung là 347 liều [2], liều trung bình của cả nước là 274,4 DDD.

Kết quả trên cho thấy có hiện tượng lạm dụng kháng sinh trong điều trị nội trú tại Bệnh viện đa khoa Hậu Giang.

Một nghiên cứu tại Bệnh viện Đà Nẵng [7], liều DDD/100 giường – ngày của nhóm Beta lactam là 106,34, của nhóm Quinolon là 32,48, của nhóm Carbapenem là 3,55, tổng liều DDD kháng sinh 209,85 liều.

Một nghiên cứu tại Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang [4], tổng liều DDD kháng sinh/100 giường – ngày là 227,2.

Bảng 5 cho thấy tỷ lệ các nhóm kháng sinh cephalosporin trước can thiệp có tổng liều DDD rất cao so với mức bình quân, cephalosporin thế hệ thứ 2 cao gần 02 lần tỷ lệ bình quân 102 liều DDD so với 64,4 liều.

Nghiên cứu tại Bệnh viện Đà Nẵng [7], kháng sinh C1 có 5,66 liều, C2 có 23,12 liều;

kháng sinh C3 có 35,12; C4 có 3,24.

Theo nghiên cứu tại Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang [4] liều DDD của các kháng sinh C1 là 1,2 liều, C2 là 39,8 liều, C3 là 54,2 liều, C4 là 0,8 liều

Theo nghiên cứu tại Bệnh viện C tỉnh Thái Nguyên [6], giá trị tiền thuốc của các nhóm cephalosporin có giá trị lần lượt là C1 có tỷ lệ 5,11%, C2 có 50,15%; C3 có 28,34; C4 có 0,19.

(6)

4.3. Đánh giá kết quả cải thiện các chỉ số sử dụng thuốc sau can thiệp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang

4.3.1. Các chỉ số sử dụng thuốc trong điều trị ngoại trú

Bảng 6 cho thấy năm 2018, tỷ lệ đơn thuốc chứa kháng sinh giảm khoảng 3%, t 47,40% xuống còn 44,27%, tuy nhiên vẫn cao hơn một ít so với tỷ lệ trung bình. Tương tự, tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng vitamin giảm nhẹ t 19,01% xuống còn 18,49%.

Tuy nhiên sự thay đổi sau can thiệp không có ý nghĩa thống kê ở cả 02 nhóm vitamin và kháng sinh (P>0,05).

Nguyên nhân tỷ lệ kháng sinh vẫn không giảm nhiều và cao hơn các nghiên cứu của các tác giả tại Bệnh viện Đà Nẵng [7] là 36,59% và tại Bệnh viện C tỉnh Thái Nguyên [8] là 39,3% là do đối tượng khám chữa bệnh tại Bệnh viện đa khoa tỉnh là các cán bộ hưu trí và trẻ em chiếm đến 61,74% đối tượng khảo sát thường mắc các bệnh viêm nhiễm hơn các đối tượng khác.

4.3.2. Các chỉ số kê đơn thuốc trong điều trị nội trú

Bảng 7 cho thấy tỷ lệ hồ sơ bệnh án sử dụng kháng sinh sau can thiệp chỉ còn 71,35%

thấp hơn tỷ lệ bình quân của cả nước là 74,9%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) Tỷ lệ hồ sơ bệnh án sử dụng vitamin sau can thiệp tăng nhẹ t 50% lên 53,65%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).

Kết quả sau can thiệp cho thấy tỷ lệ kháng sinh trong điều trị nội trú gần tương đồng với nghiên cứu Bệnh viện 354, tỷ lệ kháng sinh sử dụng chiếm tỷ lệ 73,5% bệnh án [10] và cao hơn nghiên cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc là 61,8% [9]

Việc áp dụng các biện pháp mang tính toàn diện và lâu dài nhằm đảm bảo sử dụng kháng sinh hợp lý là một việc làm tối cần thiết để hạn chế tình trạng kháng kháng sinh tại bệnh viện. Vai trò quan trọng trong chiến lược này là chương trình quản lý kháng sinh (antimicrobial stewardship) tại bệnh viện. Một chương trình quản lý kháng sinh tốt là: sư lựa chọn thuốc, khoảng thời gian điều trị tối ưu nhằm đem lại hiệu quả lâm sàng và ngăn ng a triệt để nhiễm khuẩn, giảm thiếu tối đa độc tính trên bệnh nhân và giảm thiểu sự kháng thuốc về sau [3].

V. KẾT LUẬN

Trong năm 2017, tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh chiếm 47,40% và đơn thuốc vitamin chiếm 19,01%, tỷ lệ hồ sơ bệnh án có kháng sinh chiếm 78,39% và đơn thuốc có vitamin chiếm 50%; trong năm 2018, tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh giảm xuống 44,27% và đơn thuốc vitamin chiếm 18,49%, tỷ lệ hồ sơ bệnh án có kháng sinh giảm xuống 71,35% và đơn thuốc có vitamin chiếm 53,65%. Tỷ lệ sử dụng kháng sinh tại Bệnh viện đa khoa tỉnh cao hơn tỷ lệ bình quân của cả nước, do đó cần phải giám sát chặt chẽ việc kê kháng sinh trong điều trị TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Ngọc Ẩn (2016), "Khảo sát tình hình kê đơn sử dụng thuốc điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Tân Trụ năm 2016", Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, (Số 10/2017), tr. 61-64.

2. Bộ Y tế (2010), Báo cáo sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh tại 15 bệnh viện Việt Nam năm 2008-2009.

3. Bộ Y tế (2016), Ban hành tài liệu hướng dẫn thực hiện quản lý sử dụng kháng sinh trong bệnh viện, Quyết định số 772/QĐ-BYT ngày 04/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

4. Nguyễn Thị Bê (2016), Nghiên cứu tình hình sử dụng kháng sinh can thiệp tại Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang năm 2014-2015, Luận án chuyên khoa cấp II.

5. Cục Quản lý khám chữa bệnh (2010), Báo cáo tổng quan tình hình quản lý và sử dụng thuốc trong các cơ sở khám chữa bệnh.

6. Hoàng Thị Kim Dung (2015), Phân tích thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh tại Bệnh viện C tỉnh Thái Nguyên năm 2014, Luận văn thạc sĩ dược học.

7. Trần Thị Đảm (2015), Phân tích thực trạng sử dụng thuốc tại Bệnh viện Đà Nẵng năm 2013, Luận án dược sỹ chuyên khoa cấp II.

(7)

8. Nguyễn Thị Thanh Hải (2015), Phân tích thực trạng kê đơn thuốc ngoại trú tại Bệnh viện C Thái Nguyên năm 2014-2015, Luận văn chuyên khoa cấp I.

9. Trần Thị Hằng (2012), Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc và thông tin thuốc tại bệnh viện Đa Khoa tỉnh Vĩnh Phúc năm 2011, Luận văn thạc sĩ.

10.Lê Ngọc Hiếu (2010), Khảo sát công tác quản lý sử dụng thuốc tại Bệnh viện 354, giai đoạn 2007-2009, Luận văn thạc sỹ.

11.Lê Thị Bé Năm, Trần Thái Phương Vy và Lê Đông Anh (2015), Khảo sát tình hình kê đơn sử dụng thuốc điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Long năm 2015, Đề tài cấp cơ sở.

12.Nguyễn Duy Linh Huỳnh Thị Thanh Phượng, Đào Trúc Linh, Trần Thị Hồng Nga, "Tình hình sử dụng thuốc kháng sinh của bệnh nhân điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Long An", Tạp chí Y Dược học Cần Thơ (Số 10/2017), tr. 131-137.

13.Trần Nhân Thắng (2008), "Nghiên cứu thực trạng kê đơn thuốc ở người bệnh nội trú Bệnh viện Bạch Mai", 2012. Số 7/2012, tr. 89-94.

14.Nguyễn Thiện Tri (2015), Bước đầu nghiên cứu sử dụng thuốc qua phân tích ABC/VEN tại Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang, Tham luận báo cáo hội nghị dược bệnh viện năm 2015.

(Ngày nhận bài: 20/10/2018- Ngày duyệt đăng: 15/03/2019)

Referensi

Dokumen terkait

Nhằm góp phần cho việc xây dựng chương trình phòng chống thừa cân, béo phì người trưởng thành có hiệu quả tại tỉnh Hậu Giang, chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu với các m c tiêu

TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC CẦN THƠ – SỐ 42/2021 165 ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG BẰNG CÔNG CỤ CONUT TRÊN BỆNH NHÂN SUY TIM TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG NĂM 2020 Lê Nguyễn

TÌNH HÌNH BỆNH TẬT CỦA TRẺ SƠ SINH ĐƯỢC SINH RA TỪ BÀ MẸ NHIỄM COVID-19 TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỨC GIANG Vũ Thị Thu Nga1, Đinh Thị Tường Vi1, Nguyễn Trung Phong1, Chu Thị Huệ1,

50 ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI KHỐI NỘI – BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH KIÊN GIANG NĂM 2020 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Nguyễn Văn Khải1,2, Trần Quang Huy1, Trương Việt Dũng1

Kết quả khảo sát cho thấy cơ cấu thuốc đã sử dụng tại bệnh viện cơ bản phù hợp với mô hình bệnh tật của một bệnh viện chuyên khoa nội tiết và rối loạn chuyển hóa thông qua tỷ lệ khoản

TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC CẦN THƠ – SỐ 36/2021 60 KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP TẠI KHOA NỘI TIM MẠCH BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ NĂM 2019 Phạm Thái

KIẾN NGHỊ Trong những năm qua bệnh viện mắt đã cùng 3 bệnh viện: Đa khoa trung tâm Tiền Giang, Gò Công Đông, Khu vực Cai lậy được trang bị máy chụp OCT, Siêu âm B, để tầm soát bệnh lý

Kết quả này có sự tương đồng với các nghiên cứu trong nước như Trần Thị Hà 2015 khoa Hồi sức tích cực có tỷ lệ NKBV cao nhất với 43,8%10; và nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang