ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM MŨI QUÁ PHÁT BẰNG PHẪU THUẬT CẮT ĐỐT CUỐN MŨI DƯỚI QUA NỘI SOI
TẠI BỆNH VIỆN TAI MŨI HỌNG CẦN THƠ
Phạm Thành Công*, Nguyễn Đăng Quốc Chấn, Dương Hữu Nghị Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
*Email: [email protected]
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nghẹt mũi là triệu chứng thường gặp trong thực hành lâm sàng của các bác sĩ tai mũi họng, một trong những nguyên nhân chính đó là quá phát cuốn dưới. Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trong viêm mũi quá phát và đánh giá kết quả phẫu thuật cắt đốt bán phần cuốn mũi dưới qua nội soi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu có phân tích trên 87 bệnh nhân ≥ 18 tuổi. Kết quả: 87 bệnh nhân, 63 nam, 24 nữ; tuổi trung bình 34,02±11,28. Các triệu chứng cơ năng: chảy mũi (74,7%), hắt hơi (60,9%), giảm hoặc mất mùi (26,4%), ù tai (57,5%), đau đầu (33,3%). Quá phát độ III: 82,8%. Thang điểm NOSE giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,001) sau mổ 1 tuần (28,97), 1 tháng (12,87) và 3 tháng (5,17) so với trước mổ (66,03). 98,9% cuốn dưới thu nhỏ lại và 100% lành thương tốt sau 3 tháng.
Kết luận: Phương pháp cắt đốt bán phần cuốn mũi dưới qua nội làm giảm thể tích cuốn mũi dưới cả phần niêm mạc và phần xương mà vẫn giữ được chức năng sinh lý của mũi.
Từ khóa: Quá phát cuốn mũi dưới, cắt đốt bán phần cuốn mũi dưới, nghẹt mũi.
ABSTRACT
THE TREATMENT OUTCOME OF HYPERTROPHIC RHINITIS WITH NASAL ENDOSCOPIC DIATHERMIC TURBINECTOMY
AT CAN THO ENT HOSPITAL
Pham Thanh Cong*, Nguyen Dang Quoc Chan, Duong Huu Nghi Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: Nasal obstruction is a common presenting symptom which an otorhinolaryngologist encounters in daily clinical practice, one of the most common cause of nasal obstruction is inferior hypertrophy. Objectives: Determine clinical, paraclinical features of hypertrophic rhinitis and evaluate the results of nasal endoscopic partial inferior turbinectomy with diathermy. Materials and Methods: Cross-sectional descriptive and prospective with analysis on 87 adult patients (18 years old or more). Results: 87 patients were included 63 males and 24 females; mean age was 34,02±11,28. Symptoms: nasal discharge (74,7%), sneezing (60,9%), hyposmia or anosmia (26,4%), tinnitus (57,5%), headache (33,3%). Grade III hypertrophy: 82,8%; total turbinate hypertrophy: 70,1%. Postoperative NOSE score was decreased statistically significantly (p<0,001) after 1 week (28,97), 1 month (12,87) and 3 months (5,17) compared with preoperative score (66,03). 98,9% of inferior turbinates were reduced in size and 100% of them were healed after 3 months. Conclusions: nasal endoscopic diathermic turbinectomy not only reduces the volume of inferior turbinate in both the mucosa and the bone but also helps to preserve nasal physiological functions.
Keywords: inferior turbinate hypertrophy, partial inferior turbinectomy, nasal obstruction.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghẹt mũi là một trong những triệu chứng gây khó chịu và than phiền nhất, nó ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả học tập, năng suất lao động và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Viêm mũi quá phát cuốn dưới thuộc bệnh viêm mũi mạn tính, gây ra phù nề, thoái hóa tổ chức liên kết niêm mạc mũi, cuốn mũi dẫn đến nghẹt mũi.
Vấn đề điều trị viêm mũi quá phát cuốn dưới, John đã biết đến từ năm 1890, đến năm 1900 Holmes đã điều trị 1500 bệnh nhân bằng cách phẫu thuật chỉnh hình cuốn mũi dưới, và từ đó tới nay có rất nhiều phương pháp điều trị làm giảm thể tích cuốn mũi dưới.
Các phương pháp phẫu thuật lạnh như bẻ ép cuốn mũi, cắt cuốn dưới bán phần, toàn phần, cắt bỏ xương cuốn dưới dưới niêm mạc… Phương pháp phẫu thuật bằng nhiệt nóng như đốt điện nhiệt, điện cao tần đơn cực, lưỡng cực, Laser, sóng Radio, Coblator đã được ứng dụng trên thế giới và tại Việt Nam [3].
Nhiều năm qua, Bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ đã sử dụng phương pháp cắt đốt cuốn mũi trong điều trị viêm mũi quá phát. Tuy vậy đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào đánh giá phương pháp này một cách có hệ thống tại khu vực Cần Thơ. Vì vậy chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu với 2 mục tiêu: 1. Xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trên bệnh nhân viêm mũi quá phát; 2. Đánh giá kết quả điều trị viêm mũi quá phát bằng phẫu thuật cắt đốt cuốn mũi dưới qua nội soi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Bệnh nhân ≥ 18 tuổi được chẩn đoán viêm mũi quá phát cuốn dưới có chỉ định phẫu thuật tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ từ tháng 04/2016 đến tháng 04/2018.
- Tiêu chuẩn chọn bệnh: 1. Độ tuổi ≥ 18 tuổi; 2. Bệnh nhân bị nghẹt mũi kéo dài không đáp ứng với điều trị nội khoa gây khó chịu cho bệnh nhân và có than phiền nghẹt mũi ở thời điểm khám; 3. Bệnh nhân được chẩn đoán: viêm mũi quá phát cuốn dưới giai đoạn không hồi phục; 4. Cuốn mũi dưới quá phát không đáp ứng hoặc đáp ứng kém với thuốc co mạch và không phát hiện được những nguyên nhân khác gây nghẹt mũi; 5. Được phẫu thuật chỉnh hình cuốn dưới bằng phương pháp cắt đốt qua nội soi.
- Tiêu chuẩn loại trừ: 1. Có kèm theo các bệnh lý khác gây nghẹt mũi như viêm mũi xoang có tổn thương thực thể ở các xoang, polyp mũi, quá phát cuốn giữa, u hốc mũi, chấn thương mũi xoang đang điều trị; 2. Giai đoạn đầu của viêm mũi quá phát cuốn, cuốn dưới còn khả năng co hồi tốt; 3. Có bệnh lý nội khoa nặng hoặc rối loạn đông máu kèm theo; 4. Bệnh nhân không hợp tác và không chấp hành đúng quy trình điều trị; 5. Bệnh nhân không tái khám đầy đủ sau phẫu thuật.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu có phân tích.
- Cỡ mẫu: trong thời gian nghiên cứu chúng tôi thu thập được 87 bệnh nhân. Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện.
- Nội dung nghiên cứu: 1. Đặc điểm chung: tuổi, giới, tiền sử bệnh lý; 2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng: thời gian nghẹt mũi, mức độ nghẹt, triệu chứng cơ năng khác, phân độ quá phát, hình thái cuốn dưới trước phẫu thuật; 3. Đánh giá kết quả điều trị: thời
gian phẫu thuật, đau sau phẫu thuật, cải thiện nghẹt mũi, cải thiện các triệu chứng cơ năng khác, cải thiện thực thể, kết quả chung của phẫu thuật, tai biến.
- Phương pháp thu thập và đánh giá số liệu: 1. Ghi nhận hành chính, hỏi tiền sử, bệnh sử và khám lâm sàng, hướng dẫn bệnh nhân tự đánh giá nghẹt mũi theo bảng điểm NOSE, làm các xét nghiệm tiền phẫu. 2. Tiến hành phẫu thuật cắt đốt bán phần cuốn mũi dưới: 2.1. tiêm tê tại chỗ bằng lignospan 2% từ sau ra trước; 2.2. Dùng Kelly kẹp dọc theo cuốn dưới tạo nên rãnh trên cuốn; 2.3. Dùng kéo cắt dọc theo đường kẹp; 2.4. Đông điện mặt cắt bằng ống hút đông điện; 2.5. Kiểm tra, hút sạch dịch máu, nhét merocel cầm máu.
3. Chăm sóc hậu phẫu đến khi xuất viện, dặn dò bệnh nhân tái khám sau 1 tuần, 1 tháng và sau 3 tháng. Đánh giá kết quả của phẫu thuật dựa vào bảng điểm đánh giá nghẹt mũi (NOSE), sự cải thiện các triệu chứng cơ năng khác đi kèm (thang điểm VAS) và hình ảnh nội soi sau mổ.
- Phương pháp xử lý và phân tích số liệu: kiểm định phi tham số χ2 để kiểm tra tính ý nghĩa thống kê của biến số, kiểm định Friedman Test để so sánh giá trị trung bình trước và sau mổ. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p<0,05.
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu được thực hiện trên 87 bệnh nhân (61 nam và 26 nữ), độ tuổi trung bình:34,00±11,28. Tiền sử bệnh lý:viêm mũi dị ứng (60,9%), môi trường ô nhiễm (49,4%), hút thuốc lá (21,8%), 85% sử dụng thuốc co mạch trước đó.
3.1. Đặc điểm lâm sàng 3.1.1. Thời gian nghẹt mũi
Bảng 1. Thời gian nghẹt mũi (n=87)
Thời gian nghẹt mũi Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Dưới 1 năm 11 12,6
1 đến 2 năm 20 23,0
3 đến 4 năm 32 36,8
Trên 4 năm 24 27,6
Tổng 87 100
Nhận xét: Các bệnh nhân có thời gian nghẹt mũi từ 3 đến 4 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 36,8%, kế đến là nghẹt mũi trên 4 năm chiếm 27,6%.
3.1.2. Mức độ nghẹt mũi
Giá trị trung bình của bảng điểm đánh giá nghẹt mũi (NOSE) trước phẫu thuật là 66,03±18,40, giá trị thấp nhất là 20 điểm và cao nhất là 100 điểm.
3.1.3. Các triệu chứng cơ năng khác đi kèm nghẹt mũi Bảng 2. Các triệu chứng cơ năng khác đi kèm nghẹt mũi (n=87)
Triệu chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Chảy mũi 65 74,7
Hắt hơi 53 60,9
Giảm hoặc mất mùi 23 26,4
Ù tai 50 57,5
Nhận xét: Triệu chứng chảy mũi khiến nhiều bệnh nhân than phiền nhất (74,7%), kế đến là hắt hơi (60,9%), ù tai (57,5%), đau đầu (33,3%) và giảm hoặc mất mùi (26,4%).
3.1.4. Phân độ quá phát
Có 72/87 trường hợp quá phát cuốn mũi dưới độ III chiếm 82,8%, kế đến là quá phát độ II chiếm 17,2%, không có trường hợp nào quá phát độ I.
3.1.5. Hình thái cuốn mũi dưới trước phẫu thuật Bảng 3. Hình thái cuốn mũi dưới trước phẫu thuật (n=87)
Hình thái Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Quá phát nhẵn 33 37,9
Quá phát xù xì thành múi luống 47 54,0
Thoái hóa cuốn 7 8,0
Tổng 87 100
Nhận xét: Có 47/87 trường hợp quá phát xù xì thành múi luống chiếm 54,0%, kế đến là 33/87 trường hợp quá phát nhẵn chiếm 37,9%. Hình thái thoái hóa cuốn chiếm 8,0%.
3.2. Đánh giá kết quả điều trị 3.2.1. Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật đa số nằm trong khoảng từ 30 đến 45 phút (71,3%), kế đến là
<30 phút chiếm 20,7%, chỉ có 7 trường hợp trên 45 phút chiếm 8,0%.
3.2.2. Đau sau phẫu thuật
Điểm VAS trung bình sau phẫu thuật: 15,63±11,18, tương ứng mức độ đau nhẹ.
3.2.3. Cải thiện nghẹt mũi
Biểu đồ 3.1. Diễn biến bảng điểm NOSE trước và sau phẫu thuật (n=87)
Nhận xét: Tổng điểm NOSE cải thiện sau phẫu thuật tại thời điểm 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
3.2.4. Cải thiện các triệu chứng cơ năng khác 66.03
28.97
12.87
5.17
0 20 40 60 80
Trước phẫu thuật Sau phẫu thuật 1 tuần
Sau phẫu thuật 1 tháng
Sau phẫu thuật 3 tháng
Biểu đồ 3.2. Diễn biến các triệu chứng cơ năng khác trước và sau phẫu thuật theo thang điểm VAS (n=87)
Nhận xét: Các triệu chứng cơ năng khác cải thiện sau phẫu thuật tại thời điểm 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng về cả tần suất và mức độ có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
3.2.5. Sự cải thiện thực thể qua nội soi
Bảng 4. Hình thái cuốn mũi dưới sau phẫu thuật (n=87)
Cuốn mũi dưới Sau 1 tuần Sau 1 tháng Sau 3 tháng
Thu nhỏ 71 (81,6%) 85 (97,7%) 86 (98,9%)
Phù nề 16 (18,4%) 2 (2,3%) 1 (1,1%)
Viêm teo 0 (0,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%)
Nhận xét: Sau phẫu thuật 1 tuần, có 71 trường hợp (81,6%) cuốn dưới thu nhỏ lại hơn so với trước khi mổ, sau 3 tháng tỷ lệ này là 98,9%.
Bảng 5. Sự lành thương sau phẫu thuật (n=87)
Lành thương Sau 1 tuần Sau 1 tháng Sau 3 tháng
Tốt 65 (74,7%) 87 (100%) 87 (100%)
Trung bình 22 (25,3%) 0 (0,0%) 0 (0,0%)
Kém 0 0 0
Nhận xét: Sau phẫu thuật 1 tuần, phần lớn các trường hợp đều lành thương tốt (74,7%). Sau 1 tháng và 3 tháng tỷ lệ lành thương tốt đạt 100%.
3.2.6. Đánh giá kết quả chung của phẫu thuật 0
20 40 60 80
Trước phẫu thuật Sau phẫu thuật 1 tuần
Sau phẫu thuật 1 tháng
Sau phẫu thuật 3 tháng
Chảy mũi Hắt hơi Mất mùi Khô họng Nhức đầu
Biểu đồ 3.3. Kết quả chung của phẫu thuật (n=87) Nhận xét: Kết quả tốt đạt 94,3%, khá 4,6%, trung bình 1,1%, xấu 0%.
3.2.7. Tai biến trong và sau phẫu thuật
Đa số các trường hợp không có tai biến trong và sau phẫu thuật. Chỉ có 4 trường hợp chảy máu sau rút merocel với lượng ít (4,6%).
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng
Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian nghẹt mũi từ 3 năm trở lên nhiều hơn so với tác giả Vũ Trọng Dũng và Lý Ngọc Điệp [2], [3]. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này có thể do bệnh nhân ở vùng Cần Thơ và các khu vực lân cận chưa được cung cấp đầy đủ thông tin để có ý thức điều trị bệnh sớm hơn, bệnh nhân tự ý mua thuốc để giải quyết tình trạng nghẹt mũi tạm thời đến khi bệnh đã ở giai đoạn muộn không hồi phục mới đến nhập viện điều trị.
Về mức độ nghẹt mũi: kết quả của chúng tôi tương đồng với các nghiên cứu trong và ngoài nước như Lý Ngọc Điệp [3], Nguyễn Quốc Thanh [5], Dinesh Kumar R. [8], De Corso E. và cộng sự [7], với số điểm này nghẹt mũi tương đương mức độ khá nhiều (50<NOSE≤75). Qua đó cho thấy nghẹt mũi là triệu chứng gây khó chịu cho bệnh nhân khá nhiều, là lý do chính để bệnh nhân đến viện điều trị.
Những trường hợp chỉ định phẫu thuật chỉnh hình cuốn dưới nói chung là Friedman từ độ II trở lên nên không có trường hợp nào quá phát độ I. So sánh với kết quả của tác giả Nguyễn Minh Tuấn có 65 trường hợp quá phát độ III, 35% trường hợp quá phát độ II [6]; Friedman gặp 68% quá phát độ III và 32% quá phát độ II [9]. Chúng tôi gặp 47/87 bệnh nhân (54,0%) có cuốn dưới xù xì tức là niêm mạc quá phát không đều làm cho bề mặt lồi lõm, có khi hình thành múi, luống và cũng chiếm tỷ lệ cao nhất, tương tự với nghiên cứu của tác giả Syhavong Buaphan có cuốn dưới xù xì thành múi luống 56,7% [1]
và Nguyễn Thái Hùng (54,5%) [4].
4.2. Đánh giá kết quả điều trị
Tổng điểm NOSE trung bình trước phẫu thuật là 66,03, sau 1 tuần còn 28,97, sau 1 tháng còn 12,87 và sau 3 tháng chỉ còn 5,17. Khi xét từng triệu chứng riêng lẻ của bảng điểm NOSE cũng cho thấy sự cải thiện đáng kể trước và sau phẫu thuật (p<0,001). Nếu tính ra tỷ lệ thì có đến 94,3% bệnh nhân sau 3 tháng phẫu thuật không còn nghẹt mũi. So sánh với tác giả khác sử dụng cùng phương pháp, sau 3 tháng: Syhavong Buaphan có đến 93,3% trường hợp không nghẹt mũi và chỉ có 6,7% nghẹt nhẹ [1]; Nguyễn Thái Hùng có 96,9% thở bình thường và 3,03% nghẹt nhẹ [4]; Nguyễn Minh Tuấn cũng cho kết quả tương tự sau 3 tháng có 94% hết nghẹt và 6% còn nghẹt nhẹ [6].
Hình thái cuốn dưới trở lại bình thường sau 3 tháng điều trị với tỷ lệ 98,9%. Kết quả này theo chúng tôi là do cuốn dưới sau khi được giải quyết thu nhỏ lại làm cho niêm mạc cuốn và mũi được thông thoáng, kết hợp bệnh nhân được hướng dẫn làm vệ sinh, rửa
mũi bằng dung dịch nước muối sinh lý 0,9% để làm sạch, nuôi dưỡng hồi phục niêm mạc và điều quan trọng là bệnh nhân không phải nhỏ thuốc co mạch cũng là điều kiện để niêm mạc hồi phục tốt.
Sự lành thương tốt sau phẫu thuật 3 tháng đạt 100%. Theo chúng tôi, để đạt được sự lành thương tối đa bệnh nhân cần phải tuân thủ quy trình phẫu thuật và săn sóc sau phẫu thuật, đồng thời rửa mũi bằng nước muối sinh lý tích cực để tạo điều kiện tốt cho sự lành thương sau phẫu thuật.
Kết quả chung của phẫu thuật đạt tốt 94,3%, phù hợp với kết quả nghiên cứu của Syhavong Buaphan tỷ lệ tốt đạt 93,3% [1]; Nguyễn Thái Hùng (93,4%) [4]; Nguyễn Minh Tuấn (94%) [6]. John Mathai với tỷ lệ 98% cải thiện nghẹt mũi sau phẫu thuật [10], kết quả của Santhosh U.P. hết nghẹt mũi sau phẫu thuật là 92% [11]. Để có được kết quả toàn diện này là do chúng tôi đã ứng dụng những hiểu biết mới về niêm mạc, sinh lý chức năng của mũi xoang vào điều trị là bảo tồn niêm mạc trong chỉnh hình cuốn dưới, làm sạch và dinh dưỡng niêm mạc. Phẫu thuật làm rộng hốc mũi để thở nhưng bảo tồn được niêm mạc.
Điều trị nội khoa chủ yếu là dùng nước muối sinh lý rửa và dinh dưỡng niêm mạc để nâng cao sức đề kháng của niêm mạc. Chính vì vậy phương pháp phẫu thuật này cũng mang tính chất nội soi chức năng mũi xoang.
V. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 85% sử dụng thuốc co mạch ở nhiều mức độ.
Việc sử dụng thuốc co mạch kéo dài dẫn đến quá phát cuốn mũi không hồi phục, làm bệnh nhân nghẹt mũi thường xuyên và đến viện để phẫu thuật.
Ưu điểm khác biệt trong kỹ thuật của chúng tôi là giải quyết được đồng thời cả phần xương và phần niêm mạc bị quá phát mà không làm thay đổi hình dạng hốc mũi, mất các khe cuốn, luồng khí thở vẫn giữ được chức năng hô hấp của mũi. Chính vì vậy phương pháp phẫu thuật này cũng mang tính chất nội soi chức năng mũi xoang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Syhavong Buaphan (2011), Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật cắt cuốn dưới và chỉnh hình vách ngăn dưới niêm mạc – màng xương, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
2. Vũ Trọng Dũng (2013), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị viêm mũi quá phát bằng Shaver dưới niêm mạc cuốn mũi dưới qua nội soi, Luận án Chuyên Khoa cấp II, Đại học Y Dược Huế, Huế.
3. Lý Ngọc Điệp (2014), Điều trị nghẹt mũi do quá phát cuốn mũi dưới bằng phẫu thuật lấy xương cuốn mũi dưới niêm mạc qua nội soi, Luận án Chuyên Khoa cấp II, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Thái Hùng (2009), Mô tả đặc điểm lâm sàng dị hình vách ngăn -cuốn mũi và đánh giá hiệu quả thông khí của phẫu thuật nội soi chỉnh hình vách ngăn - cuốn mũi, Luận án Chuyên Khoa cấp II, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
5. Nguyễn Quốc Thanh (2014), Đánh giá hiệu quả của kỹ thuật làm giảm thể tích cuốn mũi dưới quá phát bằng phương pháp cắt đốt sử dụng máy coblator, Luận án chuyên khoa cấp
6. Nguyễn Minh Tuấn (2014), Nghiên cứu kết quả điều trị viêm mũi mạn tính quá phát bằng phẫu thuật cắt một phần cuốn dưới, Luận án Chuyên Khoa cấp II, Đại học Y Dược Huế, Huế.
7. De Corso E., Bastanza G., et al (2016), “Radiofrequency volumetric inferior turbinate reduction: long-term clinical results”, Acta Otorhinolaryngol Ital, 36(3), pp. 199-205.
8. Dinesh Kumar R., Rajashekar M. (2015), “Comparative Study of Improvement of Nasal Symptoms Following Septoplasty with Partial Inferior Turbinectomy Versus Septoplasty Alone in Adults by NOSE Scale: A Prospective Study”, Indian J Otolaryngol Head Neck Surg, 68(3), pp. 275-284.
9. Friedman M., Tanyeri H., et al (1999), “A safe, alternative technique for inferior turbinate reduction”, Laryngoscope, 109(11), pp. 1834–1837.
10. Mathai J. (2004), “Inferior turbinectomy for nasal obstruction review of 75 cases”, Indian J Otolaryngol Head Neck Surg, 56(1), pp. 23-26.
11. Santhosh U.P., Manjunatha R.S.V. (2013), “Inferior turbinectomy for nasal obstruction- Study of 219 cases”, Journal of Evolution of Medical and Dental Sciences, 2(9), pp.
1370-1375.
(Ngày nhận bài: 06/8/2018- Ngày duyệt đăng: 10/9/2018)