ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 73 (01/2021) No. 73 (01/2021)
Email: [email protected] ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ho Chi Minh’s thought on education and its application to education innovation
in Vietnam today
TS. Nguyễn Minh TríTrường Đại học Công nghệ TP.HCM
TÓM TẮT
Giáo dục có vị trí quan trọng, không chỉ đào tạo những con người có tri thức và trình độ chuyên môn giỏi, mà còn rèn luyện họ thành những con người có tinh thần, ý thức, phẩm chất đạo đức và thể chất tốt, phục vụ hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Do đó, hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đều coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển, là quốc sách hàng đầu. Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta và nhân dân ta một di sản lý luận vô cùng quý giá, trong đó có tư tưởng về giáo dục đã được Đảng ta kế thừa, phát huy trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: giáo dục, hướng dẫn, nội dung, tư tưởng Hồ Chí Minh, ý nghĩa ABSTRACT
Education has an important position, not only to train people with good knowledge and expertise, but also to train people with moral, conscious, and virtuous qualities, good moral and physical, effectively serving the socio-economic development of each nation. Therefore, most countries in the world, including Vietnam, consider investment in education as investment in development, as the top national policy. Ho Chi Minh has left our Party and our people an extremely valuable theoretical legacy, including the thought on education inherited and promoted by our Party in the process of innovation and international integration.
Keywords: education, guidelines, content, Ho Chi Minh’s thought, meanings
1. Mở đầu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là sự kết tinh tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, vừa là sự thể hiện năng động thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng như đặc điểm của thời đại, trên cơ sở kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm phát triển về giáo dục và đào tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Vì thế, quan điểm về giáo
dục của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đặc biệt là đối với công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở nước ta hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục không chỉ là cơ sở lý luận, kim chỉ nam cho việc xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, mà còn là cơ sở phương pháp luận cho việc xây dựng nội dung, phương pháp, phương
châm giáo dục nhằm phát triển một nền giáo dục toàn diện ở Việt Nam hiện nay.
2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Khi đề cập đến vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội nói chung, đối với sự phát triển con người nói riêng, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đều thừa nhận rằng, giáo dục có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách, thông qua đó góp phần phát triển xã hội.
Các ông cho rằng tri thức là vũ khí kỳ diệu để quần chúng tự giải phóng và phát triển toàn diện mọi khả năng của mình. Hơn thế nữa, tương lai của loài người hoàn toàn phụ thuộc vào nền giáo dục thế hệ công dân đang lớn lên: “Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho họ có thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tùy theo nhu cầu của xã
hội hoặc tùy theo sở thích của bản thân họ.
Do đó, công tác giáo dục sẽ làm cho họ thoát khỏi tình trạng một chiều mà sự phân công lao động hiện nay đang buộc mỗi một người phải theo” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995, tr.475).
Với sự hiểu biết sâu sắc về con người và về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội, bằng sự đúc kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng phong phú và
sinh động của một người luôn vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc và đất nước, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những hạn chế của nền giáo dục thực dân phong kiến, vạch ra chủ trương ngu dân dễ trị của nó, khi “dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là
Tổ quốc của mình và đang bị áp bức” (Hồ Chí Minh, 2011a, tr.399). Người lên án chính sách giáo dục của thực dân rằng,
“dưới chế độ thực dân phong kiến, mục
đích đi học là cốt được mảnh bằng làm ông thông, ông phán; rằng mục đích giáo dục nô dịch của thực dân phong kiến chỉ để đào tạo ra những tri thức nô lệ để hầu hạ chúng…” (Hồ Chí Minh, 2011b, tr.32). Từ đó, Người hướng đến một nền giáo dục phát triển toàn diện năng lực của người học, Người nhấn mạnh: “Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng của giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” (Hồ Chí Minh, 2011d, tr.80). Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được thể hiện sâu sắc và khái quát ở các nội dung chủ yếu sau:
Một là, quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu của giáo dục đối với sự phát triển con người và xã hội
Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của giáo dục đối với dân tộc, rằng “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (Hồ Chí Minh, 2011a, tr.7). Với tầm nhìn mang tính thời đại, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những mục tiêu cơ bản nhất của nền giáo dục dưới chế độ mới, đó là đào tạo nên những con người Việt Nam mới, phát triển toàn diện, trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Với Người, “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” (Hồ Chí Minh, 2011c, tr.208). Hồ Chí Minh còn khẳng định mục tiêu trọng tâm và xuyên suốt của nền giáo dục mới là vì con người, cho con người và hướng tới việc xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa.
Theo Người, con đường ngắn nhất thoát khỏi tình trạng hèn yếu và kém phát triển chỉ có thể thông qua giáo dục, rằng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”
(Hồ Chí Minh, 2011b, tr.35). Từ đó, Người yêu cầu giáo dục phải nhằm mục tiêu: tất cả vì con người, cho con người, do con người. Đây chính là triết lý nhân bản với tư tưởng cốt lõi: sự nghiệp giáo dục phải phục vụ nhân dân, vì sự tiến bộ và phát triển của nhân dân, do nhân dân thực hiện. Người nhấn mạnh, thông qua giáo dục: “Tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình” (Hồ Chí Minh, 2011b, tr.315).
Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh giáo dục thực hiện các chức năng của văn hóa là
bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, mở mang dân trí, bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người. Nói cách khác, giáo dục là
con đường, là phương thức để đào tạo con người có ích cho xã hội. Dưới chế độ xã
hội mới do nhân dân là chủ và làm chủ, giáo dục nhằm đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chứ không phải để làm quan như trong xã hội cũ và cũng “không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng được giao nhiệm vụ quét nhà lại để cho nhà đầy rác!” (Hồ Chí Minh, 2011h, tr.668).
Có thể khẳng định rằng, quan niệm của Hồ Chí Minh từ những năm 50 của thế kỷ XX về mục tiêu của giáo dục (học để làm việc, làm người, làm cán bộ) thống nhất với quan niệm của UNESCO (1997)
khi coi mục tiêu của giáo dục trong xã hội hiện đại là “học để biết, để làm việc, để chung sống và để làm người”. Điều đó, một lần nữa cho thấy tầm nhìn xa và sự vượt trước thời đại trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về mục đích của công tác giáo dục.
Thứ hai, quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung của giáo dục.
Giáo dục trong quan niệm của Hồ Chí Minh như đã nói trên, hướng tới những mục tiêu cao cả. Muốn đạt được những mục tiêu đó thì nội dung giáo dục phải toàn diện, phù hợp với tính chất của trường học dưới chế độ mới, phù hợp với đặc điểm Việt Nam trong bối cảnh chung của thế giới. Nội dung đó bao gồm cả giáo dục văn hóa, chuyên môn nghề nghiệp, các ngành nghề liên quan trực tiếp tới công nghiệp, nông nghiệp, nông thôn.v.v.
Về lĩnh vực tri thức cũng phải có sự giáo dục toàn diện, bao gồm giáo dục văn hóa, giáo dục khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ và giáo dục tri thức chính trị. Bởi lẽ, các tri thức này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Người nhắc nhở: “Phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” (Hồ Chí Minh, 2011g, tr.530). Tuy nhiên, còn cần phải chú ý học cả lý luận chính trị, vì
nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không học chính trị thì sẽ như người nhắm mắt mà đi. Học chính trị chính là học chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng. Đối với việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh nhấn mạnh điều cốt lõi là phải “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta” (Hồ
Chí Minh, 2011f, tr.611). Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, theo Người, là học tập cái phương pháp biện chứng, bởi cách mạng là sáng tạo. Có lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường sẽ giúp quần chúng nhân dân có thể nhận thức và hành động đúng đắn, giải quyết tốt mọi vấn đề mà
thực tiễn của đất nước đặt ra.
Tính toàn diện về nội dung giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ nền giáo dục phải hướng tới giáo dục con người cả về đức, trí, thể, mỹ. Trong đó, giáo dục đạo đức cách mạng phải được đặt lên hàng đầu. Trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày mở trường (24/10/1955), Người nhắn nhủ việc giáo dục gồm có:
“- Thể dục: Để làm thân thể mạnh khoẻ, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung.
- Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới.
- Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp.
- Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công” (Hồ Chí Minh, 2011f, tr.175).
Tính toàn diện về nội dung giáo dục thể hiện ở chỗ, nền giáo dục phải hướng tới giáo dục con người cả về đức, trí, thể mỹ;
trong đó, giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa phải được đặt lên hàng đầu. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang, đặc biệt Người chú trọng giáo dục những phẩm chất đạo đức như “cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc”
(Hồ Chí Minh, 2011c, tr.117), nền tảng cho việc xây dựng con người mới toàn diện.
Ở khía cạnh khác, nội dung của giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần phù
hợp với mỗi lứa tuổi, mỗi cấp học, mỗi bậc học. Trong bức thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ và thanh niên ngày 31/10/1955, Hồ Chí Minh còn cụ thể hóa nội dung giáo dục cho phù hợp với từng bậc học: “Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công” (Hồ Chí Minh, 2011f, tr.81).
Thứ ba, quan điểm Hồ Chí Minh về phương châm và phương pháp của giáo dục.
Để việc giáo dục đạt được chất lượng và hiệu quả cao, cần phải có phương châm đúng đắn, khoa học. Điều này là hết sức quan trọng, bởi nó giúp tạo ra sự khác biệt theo hướng tích cực, tiến bộ về chất của nền giáo dục mới của chế độ dân chủ nhân dân so với nền giáo dục cũ của chế độ thực dân nửa phong kiến vốn xa rời thực tế, ngu dân và xảo trá.
Phương châm giáo dục đúng đắn, khoa học có thể giúp người học lĩnh hội sâu sắc tri thức, vận dụng sáng tạo vào thực tế, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: nội dung giáo dục phải gắn với thực tiễn Việt Nam, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với lao động sản xuất, phải biến những điều đã học thành hành động cách mạng. Hồ Chí Minh yêu cầu phương pháp giảng dạy phải: “Cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” (Hồ Chí Minh, 2011c, tr.357) và “Phải gắn liền
lý luận với công tác thực tế” (Hồ Chí Minh, 2011c, tr.358) đạt tới mục đích “cải tạo tư tưởng” và “nhằm đúng nhu cầu” (Hồ Chí Minh, 2011c, tr.357) của xã hội. Trong bài Nói về công tác huấn luyện và học tập, Hồ Chí Minh chỉ ra công tác giáo dục phải làm cho người học có kiến thức, năng lực để phục vụ sản xuất, công tác, nên việc cốt yếu là phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề. Vì vậy, trong giáo dục và đào tạo không nên tham nhiều, dàn trải không hiệu quả. Phải xuất phát từ tình hình cụ thể của đất nước, của địa phương; phải căn cứ vào từng đối tượng cán bộ công tác ở cơ quan, ban ngành cấp tỉnh, cấp huyện… xem nhu cầu của công việc mà họ đảm nhận, năng lực của họ đang yếu và thiếu cái gì để trang bị những tri thức, phương pháp và kỹ năng cần thiết để người học có thể thực hành công việc được ngay. Theo Hồ Chí Minh:
“Các ngành công tác như là người tiêu thụ hàng. Ban huấn luyện như là người làm ra hàng. Làm ra hàng phải đúng với nhu cầu của người tiêu thụ. Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra nhiều bình tích thì hàng ế” (Hồ Chí Minh, 2011c, tr.359).
Với tầm nhìn sâu rộng, trong phương châm giáo dục, Hồ Chí Minh còn khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Cần phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa trò và thầy… giữa nhà trường với nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó” (Hồ Chí Minh, 2011g, tr.403).
Thực tế cho thấy sự học là vô bờ. Học ở nhà trường là cách học hệ thống nhưng không phải ai cũng có điều kiện để đến trường; hơn nữa, khi khối lượng tri thức mà nhân loại tạo ra quá lớn và ngày càng tăng nhanh thì không có một nhà trường nào có thể cung cấp hết tri thức cho người
học. Nhà trường chỉ có thể trang bị cho người học phương pháp học tập, nghiên cứu và những kiến thức cơ bản nhất. Để lĩnh hội và làm chủ được kho tàng tri thức phong phú về các lĩnh vực của đời sống xã
hội mà nhân loại đã tạo ra, điều cốt yếu nhất là người học phải tự mình học tập bằng những phương pháp, hình thức phù hợp và hiệu quả. Học qua thực tiễn (học lẫn nhau, và học ở dân) là cách học trực tiếp, nhanh và sát với điều kiện mỗi người.
Cùng với đó còn phải học qua sách vở, học qua bạn bè.v.v.
Một yêu cầu quan trọng mà Hồ Chí Minh đặt ra là người học phải có tinh thần vượt khó để tự học. Tự học, tự đào tạo là
một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Con đường dẫn Người trở thành danh nhân văn hóa kiệt xuất, nhà sáng lập nền giáo dục cách mạng chủ yếu là nhờ quá trình tự học, tự đào tạo và sự khổ công rèn luyện. Từ thuở thiếu thời học tập trong các nhà
trường hay trong quá trình bôn ba khắp năm châu tìm đường cứu nước cũng như khi đã trở thành người đứng đầu Đảng và
Nhà nước Việt Nam, bao giờ Hồ Chí Minh cũng tranh thủ tự học và không ngừng tự học. Người đã thực sự nêu một tấm gương sáng ngời về tinh thần và thái độ tự học.
Như chúng ta đã biết, kho tàng tri thức mà nhân loại tạo ra qua các thế hệ, qua các thời đại là vô cùng lớn, những điều mà con người cần tìm hiểu, khám phá là không có điểm dừng. Do đó, theo Hồ Chí Minh, để không bị tụt hậu, không bị thực tiễn vượt qua thì mỗi người cần phải học suốt đời.
Người khẳng định rằng, “học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời (...). Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi”
(Hồ Chí Minh, 2011g, tr.215). Đó thực sự là những quan điểm rất hiện đại về giáo dục mà Hồ Chí Minh, với thiên tài cũng
như từ chính sự nhận thức và những trải nghiệm thực tiễn của bản thân mình trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đã
vạch ra từ rất sớm.
Phương pháp giáo dục, theo Hồ Chí Minh, phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu, đối tượng giáo dục. Cụ thể là cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi, sát với đối tượng giáo dục, kết hợp học tập với hoạt động vui chơi có ích. Để giáo dục đạt hiệu quả cao, cần phải dùng phương pháp nêu gương qua các điển hình người tốt - việc tốt. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cần lấy ngay những gương tốt đó của các cháu và những gương người tốt, việc tốt trong nhân dân để giáo dục các cháu. Không nên nói lý luận suông” (Hồ Chí Minh, 2011h, tr.670). Đặc biệt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh giáo dục phải gắn liền với thi đua để phát huy cao nhất tính tích cực vốn có của từng cá nhân. Người luôn quan tâm chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong trào thi đua, như phong trào “Người tốt, việc tốt” trong toàn quốc; phong trào “Dạy tốt - học tốt” trong nhà trường; đề xuất phong trào “Kế hoạch nhỏ” cho học sinh nhằm tạo môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi cho công tác giáo dục.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là cơ sở lý luận cho sự đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo Việt Nam. Bằng sự trải nghiệm và khái quát từ thực tiễn cũng như kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống giáo dục của dân tộc, những tinh hoa của nhân loại, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã đúc kết những tư tưởng mang tầm triết lý sâu sắc về giáo dục và vượt qua thời gian, những tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cả từ phương diện lý luận lẫn phương diện chỉ đạo thực tiễn, góp phần vào sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là
hệ thống quan điểm phong phú, sâu sắc và
toàn diện; là nền tảng quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định chiến lược giáo dục Việt Nam trong những năm qua và thời gian tới. Nhận thức được vị trí, vai trò của giáo dục đối với cách mạng Việt Nam, kế thừa tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của giáo dục Việt Nam là “nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại; phát huy tiềm nǎng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”
vừa “chuyên” như lời dặn của Bác Hồ”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, tr.28-29).
Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định lại quan điểm xuyên suốt của Đảng ta: “Giáo dục - đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục - đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu; đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển” (Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2011, tr.77).
Trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “Về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, đã khẳng định:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân” (Ban Chấp hành Trung ương, 2013).
Nghị quyết xác định mục tiêu của đổi mới lần này là: tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập hệ thống giáo dục và đào tạo quốc tế;
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và
bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; xác định các quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn tới là:
(1) giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân; (2) đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; (3) phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài; (4) phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan; (5) đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; (6) chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo; (7) chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Tiếp nối quan điểm này, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và
đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và
thị trường lao động” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr.114-115). Đây là quan điểm định hướng cho phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta trong những năm tới. Quan điểm chỉ đạo này là kết quả của thành tựu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới lĩnh vực giáo dục trong công cuộc đổi mới đất nước. Nội dung quan điểm thể hiện sự nhận thức đúng đắn và
nhất quán của Đảng ta trong quá trình đổi mới về vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục và đào tạo.
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng,
Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ thúc đẩy giáo dục phát triển. Điển hình là ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Giáo dục năm 2005, Luật Dạy nghề năm 2006, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Giáo dục đại học năm 2012;
ban hành các cơ chế, chính sách về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; về phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; về cơ hội tiếp cận giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách; về đảm bảo bình đẳng giới trong giáo dục và
đào tạo.v.v. Đặt biệt, Luật Giáo dục năm 2019 (Luật số 43) được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2019 thay thế Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục năm 2009, được đánh giá là đã có những thay đổi tiến bộ
đối với mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục, thể hiện quan điểm đổi mới giáo dục theo hướng phát triển năng lực và
phẩm chất người học. Những quy định trong luật đã thể hiện sự kế thừa ưu điểm giáo dục của Việt Nam và thế giới. Điều 2, Luật Giáo dục năm 2019 đã xác định mục tiêu giáo dục: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế” (Quốc hội, 2019).
So với mục tiêu giáo dục trong bộ luật năm 2005, tiêu chuẩn về “con người Việt Nam” mà giáo dục cần hình thành được bộ
luật 2019 bổ sung thêm những tiêu chí như
“có văn hoá”, được "phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo cá nhân”, nền giáo dục có thêm trọng trách “nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” và đáp ứng thêm yêu cầu “hội nhập quốc tế” của Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, Luật số 43 đã làm rõ tính liên thông, phân luồng, hướng nghiệp trong giáo dục; chủ trương đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; quy định trình độ
chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và giảng viên đại học, sau đại học đều được nâng lên so với các quy định trước đây; quy định chính sách hỗ trợ học phí và chi phí sinh hoạt đối với học sinh, sinh viên sư phạm;
quy định chính sách về học phí đối với học sinh diện phổ cập; và quy định về chính sách tiền lương đối với nhà giáo.v.v.
Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất để hiện thực hóa chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nền giáo dục Việt Nam, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, để luật đi vào thực tế sinh động của nền giáo dục nước nhà, cần phải có những văn bản dưới luật cụ thể hóa, chi tiết hơn mới thực sự phát huy tác dụng, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới giáo dục trong thời gian tới.
Như vậy, vấn đề phát triển giáo dục đã
trở thành một hệ thống quan điểm luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, xây dựng và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội. Những vấn đề này cần được quan tâm nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện nhằm đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống.
Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục chứa đựng những nội dung cơ bản và toàn diện, thể hiện tầm nhìn chiến lược về vai
trò của giáo dục đối với sự phát triển của con người và toàn xã hội. Trong đó, có những tư tưởng trở thành chân lý được thừa nhận và tiếp tục phát triển. Tư tưởng của Người về giáo dục toát lên triết lý sâu sắc, được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo những giá trị tinh hoa, cốt lõi của nền văn hóa dân tộc cùng với những tri thức tiến bộ của văn minh nhân loại, đồng thời xuất phát từ chính thực tiễn đất nước và trở lại chỉ đạo, dẫn dắt nền giáo dục nước nhà. Giáo sư Song Thành đã từng đưa ra nhận xét rất xác đáng rằng, triết lý giáo dục Hồ Chí
Minh chính là sự kết nối giữa truyền thống và hiện đại, giữa Việt Nam và thế giới, giữa định hướng xã hội chủ nghĩa của dân tộc và những giá trị phổ quát của nhân loại.
Với tính chất khoa học và cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục tiếp tục là
cơ sở lý luận, kim chỉ nam soi sáng cho Đảng và Nhà nước ta trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đổi mới nền giáo dục và đào tạo Việt Nam trong điều kiện mới, nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện; vừa có “tài” vừa có “đức”;
vừa “hồng” vừa “chuyên”; biết phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Trung ương. (2013). Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Hà Nội.
C.Mác và Ph. Ăngghen. (1995). Toàn tập. Tập 4. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng.
Hồ Chí Minh. (2011a). Toàn tập. Tập 1. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh. (2011b). Toàn tập. Tập 4. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh. (2011c). Toàn tập. Tập 6. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh. (2011d). Toàn tập. Tập 8. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh. (2011e). Toàn tập. Tập 10. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh. (2011f). Toàn tập. Tập 11. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. (2011g). Toàn tập. Tập 12. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh. (2011h). Toàn tập. Tập 15. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Quốc hội. (2019). Luật giáo dục. Hà Nội. Truy cập https://luatvietnam.vn/giao-duc/luat- giao-duc-2019-175003-d1.html
Ngày nhận bài: 24/4/2019 Biên tập xong: 15/01/2021 Duyệt đăng: 20/01/2021