Thách thức mới trong hệ thống ngân hàng toàn cẩu
Năm 2020, đại dịch CO VID-19 đã đấy kinh tế toàn câu rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
Mặc dù vậy, các ngân hàng lại có mức vốn cao hơn so với trước khủng hoảng tài chính toàn cẩu. Các nhà tạo lập chính sách đã nhanh chóng triển khai hàng loạt chính sách để khuyến khích ngân hàng mở rộng tín dụng. Tuy nhiên, cú sốc quá lớn cùng với nguy cơ vỡ nợ doanh nghiệp và hộ gia đình có thể đặt ra những thách thức nhất định đối với hệ thống ngân hàng trên toàn cầu.
T
heo báo cáo cập nhật của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), sau một thập kỷ xây dựng nguồn vốn đệm và thanh khoản theo quy định cải cách sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, các ngân hàng bước vào khủng hoảng y tế hiện nay với vị thế vững vàng hơn so với những cuộc khủng hoàng trước đây. Tuy nhiên, lợi nhuận ngân hàng có nguy cơ sụt giảm tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trong bối cảnh lãi suất thấp triền miên nhiều năm qua với kỳ hạn ngắn là phổ biến. Môi trường lãi suất thấp này có thể sẽ kéo dài tới vài năm, khi các nhà tạo lập chính sách tiếp tục mở rộng chính sách tiền tệ để thúc đẩy cho vay đối với nền kinh tế.
TÁC ĐỘNG CỦA COVID-19 ĐÉN HỆ THONG NGÂN HÀNG
Ket quả khảo sát của IMF tại 350 ngân hàng lớn từ 29 quốc gia và vùng
lãnh thổ với tổng tài sản chiếm khoảng 73% trong hệ thống ngân hàng toàn cầu cho thấy, tỷ trọng vốn cố phần cấp 1 (CET1) có thể giảm do tác động của COVID-19, mặc dù vẫn trên mức yêu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, giữa các khu vực có sự khác biệt khá lớn, nhóm ngân hàng yếu (hiện chiếm 8,3% tài sản trong hệ thống ngân hàng toàn cầu) có thể thiếu vốn, nếu kịch bàn xấu xảy ra. Áp lực về nguồn vốn của ngân hàng được kỳ vọng sẽ giảm phần nào nhờ những khoản cho vay có bảo lãnh của chính phủ và chính sách dành riêng cho ngân hàng có thể điều chỉnh phương pháp tính toán tỷ trọng vốn.
Khi cân nhắc kỳ hạn chính sách hỗ trợ và những giải pháp khác, các nhà tạo lập chính sách cần quan tâm đến vấn đề cân xứng tạm thời đang đặt ra, do chính sách hạn chế rủi ro bất ổn tài chính bắt nguồn từ sự lan truyền của cú sốc có thể trầm trọng thêm mức độ tổn thương liên quan đến khả năng của
ngân hàng trong việc hấp thụ lỗ và nợ nần nếu khủng hoảng tiếp tục kéo dài.
Những chính sách hướng vào việc giới hạn phân bố vốn và đàm bào đù vốn cho các chương trình bảo hiểm tiền gửi cũng như các kế hoạch đột xuất (để đối phó với khó khàn có thể xảy ra) sẽ giúp xử lý hậu quả trong trường hợp tình hình xấu đi nghiêm frọng.
Mặc dù vị thế ban đầu của các ngân hàng khá bền vững và các biện pháp đối phó quyết liệt của các nhà tạo lập chính sách, nhưng sức tàn phá kinh hoàng của khủng hoảng COVID-19 ngay từ giai đoạn đầu đã đặt ra những thách thức đáng kể cho các ngân hàng.
Cú sốc này đã kích hoạt làn sóng tìm kiếm thanh khoản và tiền mặt. Tại Mỳ, các doanh nghiệp tăng cường khai thác những khoản tín dụng đã cam kết, dẫn đến sự gia tăng đột biến về hoạt động cho vay và xói mòn tỷ trọng vốn ngân hàng. Sau đó, hoạt động cho vay tại Mỹ và châu Âu có xu hướng đi ngang.
84 I ĩàlchinh Tiên tệ SÓ 1+2 (562+563) NĂM 2021
Những yếu tố quyết định trong hệ thống tài chính (như thị trường mua lại và kho bạc Mỹ) đã vấp phải thách thức về thanh khoản. Nỗ lực tăng cường dự phòng thất thoát vốn vay (nhất là giữa các ngân hàng Mỹ) và khủng hoảng xảy ra đúng vào thời điểm các ngân hàng chuyển đổi sang tiêu chuẩn tính toán “lỗ tín dụng kỳ vọng” - đã nhấn chìm kết quả tài chính của ngân hàng trong quý 1/2020. Trong quý 11/2020, thị trường tài chính hạ nhiệt, nhưng hầu hết các ngân hàng phải gánh chịu những khoản lồ dự phòng rất lớn và phải thắt chặt tiêu chuẩn cho vay do triển vọng kinh tế tiếp tục rối loạn.
Nhìn chung, điều kiện thanh khoản cải thiện đã giúp người vay tiếp cận những khoản tín dụng thận trọng, nhưng tăng trưởng tín dụng trong quý 1/2020 tại hầu hết các ngân hàng chỉ đạt thấp hoặc đảo chiều và điều này góp phần giảm áp lực về tỷ trọng vốn rủi ro gia quyền. Trong quỷ 11/2020, một số ngân hàng chủ chốt (nhất là tại Mỹ) đã báo cáo kết quả phục hồi rất nhanh, yếu tố dẫn dắt là thị trường vốn.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tỷ trọng vốn CET1 trong hệ thống ngân hàng toàn cầu sẽ suy giảm đáng kế xuống mức tối thiểu 9,6% trong kịch bản tăng trưởng cao và xuống 9,3%
trong kịch bản tăng trưởng thấp - lần lượt giảm 3,6 và 3,9 điểm phần trăm, thấp hon mức CET1 trong năm 2019.
Trong kịch bàn tăng trưởng cao, CET1 sẽ phục hồi liên tục sau khi chạm đáy vào năm 2020, nhung đen cuối năm 2022 vẫn thấp 0,7 điểm phàn trăm so với mức vốn ban đầu. Trong kịch bán tăng trưởng thấp, vị thế vốn suy giảm kéo dài, CET1 vào thời điểm cuối năm 2022 vẫn thấp 2,4 điểm phần trăm so với mức vốn ban đầu.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụt giảm tỷ trọng CET1 là do nguồn vốn dự phòng rủi ro tín dụng tăng cao.
Cụ thề, chi phí dự phòng thất thoát vốn vay đóng góp tới 5 điểm phần trăm vào sự sụt giảm CET1 trong kịch bản tăng trưởng cao và 6 điểm phần trăm trong kịch bản tăng trưởng thấp.
Quy mô sụt giảm vốn tổng thể và yếu tố tác động có sự khác biệt giữa các khu vực. Trong kịch bản tăng trưởng cao, các nước phát triển hàng đầu sẽ ghi nhận mức sụt giảm sâu nhất của CET1, nhưng chỉ giảm 4 điểm phần ưăm trong kịch bản tăng trưởng thấp, so với 4,9 điểm phần trăm tại các nước mới nối. Nguyên nhân chủ yếu của sự khác biệt này là do chi phí dự phòng tại các nước mới nổi tăng cao do hiệu quả kinh tế tại nhóm quốc gia này trong kịch bản tăng trưởng thấp sẽ chỉ đạt thấp, và do mức độ nhạy cảm khác nhau của các ngân hàng trong nước về điều kiện tài chính vĩ mô.
Giữa các ngân hàng cũng có sự khác biệt đáng kể, trên 50% số ngân hàng khảo sát có tỷ trọng CET1 trên 10%, kể cà trong kịch bàn tăng trưởng thấp - cao hơn nhiều so với tỷ lệ tối thiểu theo yêu cầu. Trong khi đó, CET1 tại nhóm ngân hàng chiếm 13%
tài sản toàn cầu sẽ giảm xuống dưới 4,5% trong kịch bàn tăng trưởng thấp và CET1 tại nhóm ngân hàng chiếm 6% tài sản sẽ giảm xuống dưới 6%.
Trong kịch bản tăng trưởng thấp, giữa các khu vực và giữa một bên là các ngân hàng chiến lược toàn cầu với một bên là những ngân hàng khác cũng
ẢNH MINHHỌA: NGUÓN INTERNET
có sự khác biệt nhất định. Các ngân hàng chiến lược toàn cầu sẽ tiến triển tốt hơn, một phần là nhờ tỷ trọng vốn ban đầu vững vàng hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ CET1 của khoảng 8% tài sản nhóm ngân hàng này sẽ giảm xuống dưới 4,5%. Trong nhóm ngân hàng còn lại, 16% tài sản ngân hàng sẽ không duy trì được tỷ lệ CET1 4,5%. Ngân hàng tại các thị trường mới nổi bị tác động trầm trọng hơn, với gần 40% tổng tài sản ngân hàng sẽ có tỷ lệ CET1 giảm xuống dưới 4,5%. Ngân hàng tại các nước phát triển sẽ tiến triển tốt hơn, cho dù 12% tài sản ngân hàng sẽ có tỷ trọng CET1 giảm xuống dưới 4,5%
vào năm 2022.
Có thể đánh giá những thiệt hại đối với ngân hàng bằng cách ước lượng mức độ thiếu vốn, đó là sự khác biệt giữa tỷ trọng CET1 dự kiến với tỷ lệ theo quy định pháp lý. Sự khác biệt này được xác định dựa trên hai giới hạn chuẩn: CET1 tối thiểu theo quy định - tương ứng tỷ lệ 4,5% cộng với khoản phụ phí vốn tăng thêm đối với từng ngân hàng chiến lược toàn cầu - và giới hạn chung theo quy định (cũng bao gồm mức vốn đệm theo quy định hiện hành và nguồn vốn đệm chống chu kỳ vào thời điếm tháng 6/2020).
Ijp(hl IN truorxj
SÓ 1+2 (562+563) NĂM 2021 Tàichlnhĩlểntệ I 85
NHÌNRA THÊ GIỚI
Ngưỡng ban đầu được định nghĩa là mức thiếu hụt vốn tối thiểu so với giới hạn mà cơ quan giám sát phải can thiệp, ngưỡng thứ hai được định nghĩa là mức thiếu hụt vốn theo nghĩa rộng so với tỷ trọng vốn đã cộng thêm phần vốn đệm theo quy định hiện hành.
Trên phạm vi toàn cầu, mức thiếu hụt vốn tối thiêu vào khoảng 200 tỷ USD và mức thiếu hụt vốn theo nghĩa rộng vào khoảng 420 tỷ USD (0,6%
tài sản của nhóm ngân hàng khảo sát). Trong cả hai trường họp, tình ưạng thiếu hụt vốn tập trung vào các ngân hàng chiến lược toàn cầu do nhóm ngân hàng này thường có quy mô rất lớn. Giữa các khu vực có sự khác biệt nhất định, chù yếu là do quy mô của hệ thống ngân hàng. Theo đó, ngân hàng tại các nước phát triển có mức thiếu hụt lớn hơn. Neu đối chiếu với mức thiếu hụt vốn theo nghĩa rộng, mức thiếu hụt vốn toàn cầu chiếm khoảng 0,8% GDP tại những quốc gia có ít nhất 1 ngân hàng thiếu vốn. Tại những quốc gia này, mức thiếu hụt vốn theo nghĩa rộng chiếm trung bình 1,1% GDP.
ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH
Đe đối phó với những rối loạn kinh tế do COVID-19 gây ra, chính phủ các
nước ưên thế giới đã áp dụng những chính sách chưa có tiền lệ nhằm mục tiêu giảm bớt thiệt hại dai dắng lên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp và hộ gia đinh, duy trì dòng tín dụng frong nền kinh tế thực. Trong lĩnh vực ngân hàng, các cơ quan quản lý đã triển khai nhiều chính sách để nâng tính linh hoạt của các ngân hàng ưong việc duy trì dòng tín dụng đối với nền kinh tế thực. Chính sách này bao gồm những khoản cho vay có bảo lãnh cùa chính phủ và chính sách vốn phù hợp, tác động đến sự cần thiết phải để dành một phần vốn dự phòng và cách thức tính toán tỷ trọng vốn, qua đó có thể cải thiện tỷ trọng vốn ngân hàng trong ba năm tới đây.
Tuy nhiên, COVID-19 đã gây hậu quả nghiêm trọng cho khu vực ngân hàng toàn cầu và sẽ đặt ra những thách thức tiếp theo. Quá trình phục hồi kinh tế không thế diễn ra một sớm một chiều, khả năng thanh toán của các doanh nghiệp và hộ gia đình tiếp tục giảm và tài sản thế chấp có thể mất giá, tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng cao, dẫn đến thiệt hại lớn hơn về tín dụng và đặt ra những thách thức cho các ngân hàng toàn cầu, như mức sinh lợi thấp tại một số khu vực và ưong môi trường lãi suất thấp kéo dài - kịch bản này có dấu hiệu đang gia tăng ưong bối cảnh đại dịch COVID-19.
Kết quả khảo sát cho thấy, hệ thống ngân hàng vẫn có khả năng thanh toán trong những năm tới, dù có sự khác biệt giữa các khu vực và ttong từng khu vực, khả năng thanh toán tổng thể phụ thuộc phần nào vào nguồn vốn đệm tích lũy sau các nỗ lực cải cách hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Trên thực tế, tỷ lệ CET1 tại những ngân hàng khảo sát tăng từ mức trung bình 11,9% vào năm 2017 lên 16,2%
vào năm 2019 và tiếp tục cải thiện cho đến khi xảy ra đại dịch. Dù cho tỷ trọng vốn tổng thể cao hơn mức quy định tối thiểu, nhưng khó khăn sẽ ảnh hưởng đến ngân hàng và khả năng thanh toán. Quy mô tác động tùy thuộc phần lớn vào mức độ và thời gian diễn ra khủng hoảng, vốn đang lan rộng tại hầu hết các khu vực và nhóm ngân hàng trong kịch bản tăng trưởng thấp với hoạt động kinh tế suy giảm triền miên. Một số ngân hàng chiến lược toàn cầu cũng sẽ gặp khó khàn và tiếp tục ảnh hưởng xấu đến hệ thống tài chính ưong kịch bản tăng trưởng thấp.
Các chính sách của chính phủ, NHTW và các cơ quan quản lý đã góp phần giảm nhẹ những thách thức do khủng hoảng COVID-19 gây ra. Việc hỗ trợ trực tiếp cho người vay (cả doanh nghiệp và hộ gia đình) và cung cấp thanh khoản (cho những thị trường chủ chốt, ngân hàng và những định chế tài chính khác) đã tác động rõ rệt đến tỷ ưọng vốn ngân hàng, thể hiện qua các chỉ số kinh tế vĩ mô. Trong số này, cho vay có bảo lãnh của chính phủ và chính sách đủ vốn đóng vai frò quan trọng nhất, là kênh bào vệ thứ hai với tác dụng giảm áp lực lên hệ thống ngân hàng.
Cho đến nay, các biện pháp điều chỉnh đối phó với COVID-19 nhìn chung đều phù hợp với những tiêu chuẩn cốt lõi đã được thực hiện sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và theo nguyên tắc chi đạo quốc tế đã thống nhất. Các cơ quan quản lý quốc gia đã sử dụng linh hoạt, thận trọng các biện pháp về vốn và thanh khoản đề thúc đẩy cho vay đối với nền kinh tế. Các cơ quan quản lý đã xác định rõ mức độ
Tap diiThịtruởng
86 I Tàichinhlìêntệ số 1+2 (562+563) NĂM 2021
sử dụng vốn và thanh khoản đệm, khuyến khích ngân hàng sử dụng những nguồn vốn đệm này để hấp thụ lỗ và mở rộng tín dụng, tránh phân bổ vốn tràn lan nhằm bảo toàn tài sản. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc nới lỏng quy định được tiến hành bằng cách nới lỏng các yêu cầu tối thiểu xuống dưới giới hạn do Basel quy định. Cách thức phân tán rủi ro như vậy đã làm suy giảm độ tin cậy của các chuẩn mực quốc tế đã thống nhất, có thể dẫn đến tình trạng phân đoạn thị trường và làm tăng rủi ro đối với tính an toàn và lành mạnh của ngân hàng.
Các cơ quan đề ra chuẩn mực như ủy ban Basel và cơ quan quàn lý quốc gia cũng đã khuyến khích các ngân hàng làm việc một cách kiến tạo và thận trọng với khách hàng vay vốn và đã phát hành hướng dẫn cách thức xử lý các khoản vay tái cơ cấu, tạm hoãn thanh toán nợ công và tư nhân thông qua dự phòng và phân loại tài sản. Tuy nhiên, một số giải pháp trái với những khuyến nghị này, như đóng băng quy chế phân loại tài sản và yêu cầu dự phòng tác động đến mức độ chính xác của các báo cáo tài chính và tỷ trọng vốn, có nguy cơ làm suy giảm niềm tin vào hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, những giải pháp này có thể dẫn đến tình trạng cho vay đối với những khách hàng không còn khả năng thanh toán nhưng không thừa nhận lỗ tín dụng, không chí hủy hoại tính lành mạnh tài chính của ngân hàng mà cũng giảm hiệu quả sử dụng vốn vay.
Trong tương lai, các nước cần cân bằng một cách thận trọng những lợi ích của chính sách này trong việc giảm khó khăn về vốn cho ngân hàng và duy trì on định tài chính trong giai đoạn hung hạn. Dù việc sử dụng linh hoạt khung khổ thận trọng theo khuyến nghị của Basel và những tổ chức tài chính khác có thế góp phần giảm rủi ro mang tính chu kỳ và tác động tiêu cực của những cú sốc tạm thời, song việc nới lỏng phân loại tín dụng và quy chế dự phòng sẽ làm giảm tính minh bạch và độ tin cậy của dừ liệu do các báo cáo tài chính. Hệ quả là, tỷ lệ thận trọng sẽ không phản ánh đúng sức mạnh thực tế của ngân hàng. Một sự suy giảm chất lượng thông tin đều có thể gây thiệt hại về niềm tin vào hệ thống ngân hàng, dẫn đến bất ồn tài chính. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải rút dần một số biện pháp khi kinh tế phục hồi, nhất là trong kịch bản tăng trưởng cao. Trong bất cứ kịch bản kinh tế nào, các ngân hàng cần kịp thời xác nhận lồ đối với những khách hàng vay vốn đang cận kề mất khả năng thanh toán một khi phát hiện có bằng chứng nào đó. Tổng quát hơn, việc cắt giảm các biện pháp hỗ trợ của chính phủ (bao gồm bảo lãnh chính phủ) quá nhanh có thể gây thiệt hại lâu dài cho nền kinh tế, nhưng nếu cắt giảm quá chậm cũng sẽ gây thiệt hại cho nền tài chính công hoặc duy trì thả nổi tình trạng mất khả năng thanh toán của người vay một cách thái quá. Phát hiện này nhấn mạnh lợi
ích của việc tiếp tục các đợt kiểm tra sát hạch đê đánh giá sức khỏe của hệ thống ngân hàng, làm cơ sờ để định hướng các giải pháp chính sách đối phó với khủng hoảng. Loại hình đánh giá này sẽ phụ thuộc vào những dữ liệu chi tiết hơn so với dữ liệu sử dụng trên phạm vi toàn cầu và vì thế sẽ cần bổ sung đế hoàn thiện.
Sau khi hoàn tất đánh giá, nếu phát hiện thấy ngân hàng sắp gặp khó khăn, các cơ quan quản lý cần xem xét những điều kiện đặc trưng của đất nước. Hiện nay, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải củng cố mạng lưới an toàn tài chính, bao gồm các chương trình bảo hiếm tiền gửi, chế độ giải quyết, nới lỏng thanh khoản NHTW.
Các biện pháp bảo toàn vốn sẽ đóng vai trò hỗ trợ, bao gồm việc giới hạn tạm thời về phân chia tiền lãi cổ phần, như một số quốc gia đã tiến hành. Các cơ quan giám sát có thể sử dụng thông tin này để đánh giá lại kế hoạch vốn trong tương lai và có giải pháp bảo toàn, hồ trợ các kế hoạch từng bước xây dựng lại nguồn vốn của những ngân hàng bị tổn thương nhiều nhất nhằm bảo đàm niềm tin và duy tri ổn định tài chính, cần chuẩn bị các kế hoạch đối phó với những tình huống bất ngờ và áp lực trong tương lai, góp phần đảm bảo hiệu quả khắc phục những thiệt hại có thể xảy ra<
THS.VŨ XUÂN THANH Nguồn:
Báo cáo của IMF về tình hình ổn định tài chính toàn câu
Tap chlThị trường
SỐ 1+2 (562+563) NĂM 2021 TàĩChiílhTlểntệI 87