TRONG QI AN LỸ PHATTRIEN kinhte - XĂ nội ỡ NƯỚC TA HIỆN NAY
189
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG vì sự PHÁT TRIEN BỀN VỮNG DƯA TRÊN PHÁT HUY TốT VAI TRÒ
NHÀ NƯỚC, NGUYÊN TẮC thị trường ,
TRÁCH NIIIỆM DOANH NGHIỆP VÀ sự ĐÒNG HÀNH CỦA XÃ HỘI
NGUYỄN THÊ' CHINH*
*PGS,TS, nguyênViện trưởng ViệnChiến lược Chínhsách tài nguyên và môitrường, Bộ Tài nguyênvà Môi trường
Trong
côngtácbảovệ
môitrường (BVMT), Nhà nước đóng
vaitròchủthểđiều
chỉnhcác
hoạtđộng
củaxã hội dựatrênquy
luậtcủathị
trường,xã
hộilàbên
đượchưởng lợi và cũng
làbênchịu
nhữnghậu
quảtácđộng tiêu cực
củamôi trường, phản
ánhlạinhững tácđộng
củamôi trường
chochủ thêquản lýnhà
nướcvà thị trường.
Khisựđiềuhànhquản
lý củaNhànước phù hựp
vớiquy
luậtcủathị trường sẽ điều
chỉnhđúng hướng các
hành vixã hội liên quan
đếnBVMT,ngược lại
sựquảnlýnhà
nướckhông tốt, không tuân thủ
quy luậtthị trường sẽ dẫn
đếncác hành
vicủaxãhộigây
ranhữngtôn thất
khôngnhỏcho
môitrường,dẫndenthat
bạicủa
cả thị trường,lẫn Nhànước.Chính vìvậy,
xửlýmoiquanhệ giữa
Nhànước,
thịtrường và xã hội trong BVMT ở Việt Nam hiện nay là
hếtsức
quan trọng vìmục
tiêuphát
triểnbềnvững.1. Quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong bảo vệ môi trường
1.1. Tác động của mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội đối với bảo vệ môi trường
Nhà nước, thị trường và xã hội cóquan hệ chặt chẽ với nhau trongcông tác BVMTMốiquan hệ này cơ bản dựatrên quan hệ lợi ích thông qua điều chỉnh bởi
“bàntay vô hình”của thị trường.
Giải quyết tốt mối quan hệ
giữa nhà nước, thị trường và xã hội đối với BVMT sẽ tránh được thấtbại thị trường, cụthể: chi phí xã hộigiảmnhờ hạn chế được các tácđộng tiêu cực do ô nhiễm môi trường gây tổnthấtcho xãhội,duy trì được hệ sinh thái tựnhiên, nâng cao chất lượng cuộcsống con người hướng đến sự phát triển bền vững.
Ngượclại, giảiquyết không tốtmối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội vềBVMT sẽ dẫn đến thất bại thị trường, làmphát sinhxung
đột giữa các nhóm xãhội,thậm chí tính chính danh của quyền lực nhà nước bịsuygiảm khiNhà nước bị đánh giá làthiếu nănglực bảo đảm cho người dânđược sốngtrongmôi trường an toàn.
Thị trường là nhân tố thúc đẩy Nhà nước hoànthiện thể chế
SÓ 01-2021 I TẠP CHÍ CỘNG SẢN-CHUYÊN ĐÉ
190
MÓI QUAN IIỆ GIỮA NHÀ NƯỚC, TI IỊ TRƯỜNG VÀ XÃ IIỘIBVMT cho phùhợp vớiquy luật thị trường; là động lực để phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, thu hút nguồn vốn đầu tư choxã hội để BVMT, giảm gánh nặng đầu tưtừngân sách nhà nướckhi có thể chế tốt theonguyêntắc “người gây ônhiễm phải trả tiền - PPP" và
“người được hưởng lợi môi nường phải trảtiền - BPP”. Sự tham gia của xã hội là kênhphản biệntốt và giảm gánh nặng của cơ quan quản lýnhà nướcđối với BVMT, thúc đẩyNhànước hoàn thiện thể chế huyđộngmọi thành phần xã hội tham giaBVMT
1.2. Quản lý nhà nước về môi trường dựa trên nguyên tắc thị trường sử dụng các công cụ kỉnh tế
Giới nghiên cứu cho rằng,đối với quản lý môi trườngđể đạt mục tiêu giảm ô nhiễm môi trường, về cơ bàn có hai cách tiếp cận.
Thít nhất, cách tiếp cận dựa vào công cụ mệnh lệnh và kiểm soát - CAC,chủ yếu dựavào các quy địnhhành chính mangtính áp đặt của Nhà nước về số lượng, tiêu chuấn, quy chuẩn đối với BVMT.
Thứ hai, cách tiếp cậndựavào thị trưòYig(Market Base Approach - MBA) sử dụngcác công cụ kinh tế. Bên cạnh đó, Nhà nước còn sử dụng các công cụ ít trực tiếp hơn, như giáo dục, truyền thông, cung cấp thông tin (thỏa thuận môi trườngtự nguyện, nhãn sinh thái, chứng nhận, xếp hạng, báo cáo bền vững, tráchnhiệm xã hội của doanh nghiệp), và nghiên cứu.
Cung cấpthông tin cho xãhộitrở thành một xu hướng mới trong quản lý môi trường với mục tiêu
thay đổi hành vi và tăng cường sự hiểubiết củangười dân về các côngcụ quảnlý môitrường. Công cụ này chỉ đóngvai trò bổ sung, chứ không thể thaythế hoàn toàn các cách tiếp cận truyền thống trong thiết kế các công cụ quản lý môi trường. Kinh nghiệm của các quốc gia phát triển cho thấy, không cómột côngcụnào có thể áp dụng cho mọitrường hợp, mà cần phải kết hợp nhiều công cụ mới đạt được các mục tiêu chất lượng môi trường mong muốn.
- Quản lý môi trường dựa vào tiếp cận thị trường {Market Base Approach - MBA) sử dụng các công cụ kinh tế: Các công cụ kinh tế đã được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật môi trườngờ nhiều quốcgia, đặc biệt là các quốc gia phát triển trên thế giới. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), hiện có hơn 3.000 công cụ kinh tếkhác nhau đang được ápdụng trên toàn thế giới. Các nhà kinh tế khuyến khích sử dụng công cụ kinh tếđể khắc phục thất bại thị trường, bởi vì chúng có nhiều ưu điểm nổi trội sovới cáccông cụ mệnh lệnh và kiểm soát. Thứ nhất, các côngcụkinh tế giúpđạt cùng một mứcBVMT với chiphí thấp hơn. Thít hai, các công cụ kinh tế tạo động cơ khuyến khích đốitượng gây ô nhiễm thiết kếvà thực hiện các quy trình sản xuất hoặcsử dụng công nghệ hiệu quả hơn nhằm tiết kiệm chi phí làm sạch ô nhiễm môi trường do họ gây ra. Thứ ba, các công cụ kinh tế đẩy nhanh quá trình cải thiện
chất lượng môitrường do thu hút được nguồn lực đầu tư củaxã hội, nhờ đó có nhiều nguồn lực hơn để thực hiện các chương trình, dự án BVMT.Thứtư, các công cụ kinhtếkhôngyêu cầu bấtkỳ một nguồn phát thải nào phải thực hiện một hành động cụ thể, cho nên chúng có tính linh hoạt cao hơn. Thứ năm, các công cụkinhtế thỏamãnnguyêntắc ppp, vàđiều nàyphù hợp với thông lệ quốc tế, với nguyên tắc thị trường.
Các công cụ kinh tế chủ yếu cho mục tiêu BVMT gồm: các côngcụdựa vàogiá(Price-based), các công cụ dựavào quyền sở hữu (Property-based), thương mại giấy phép, nghĩa làcác loại giấy phép hoặc chứng nhậngiảmthảicóthể chuyển nhượng (Permit trading), các công cụ thuế (Tax instruments), các công cụ phi thuế (Non-tax instruments
* 1’), lệ phí/phí (Fees/
charges), trợ cấp giảm thài hoặc trọ' cấp cho công nghệ thân thiện với môi trường như giảmVATcho
(1) Cóthể bổsung một công cụ khá phổ biến là hệthống ký quỹ - hoàn trả (deposit - refundsystem), một hình thức kết hợp giữa phí và trợ cấp. Hệ thống kýquỹ -hoàntrả áp một khoảnphụphí (surcharge) vào giá bán của các sản phẩm có tiếm năng gâyô nhiễm. Khi tránhđược ô nhiêm bằng cách đem trảlại sản phẩm sau khi sử dụng hoặc đem trảlại rác thải từ sản phẩm đã sử dụng thì khoản phụ phí này sẽ được hoàn lại. Cáchệ thống ký quỹ-hoàn trả không chi giớihạn ở chailọ, mà cònbao gốm các sản phẩm khác,như bình ắc quy có chì axít, phương tiện mô tô, lốp xe,các chất dung môi tẩy rửa
SỐ 01 -2021 TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐÉ
TRONG QUẢN LÝ PHÁT TRIÊN KINH TÊ - XÃ IIỘI ở NƯỚC TA HIỆN NAY
191
xe điện, hỗ trợ giá bán điện năng sản xuất từ nguồn nănglượngtái tạo, ưu đãi thuế cho các khoản đầu tưliên quan đến môi trường, chovay ưu đãi, cungcấp công quỹ cho các dự án bảo tồn thiên nhiên hoặc xử lý ô nhiễm môi trường (Subsidies), các loại thuế môi trường(Environmentaltaxes), các chi tiêu thuế môi trường, đây là các hình thức khấu trù' thuế hoặc ưu đãi thuế khi đối tượng gây ô nhiễm có những hành động làm sạch môi trường (Envứonmental tax expenditures), các loại thuế đánh trên lượng phát thải (Emission taxes), các loại thuế đánhtrên sàn phẩm gây ô nhiễm (Product taxes), các loại thuế tài nguyên (Resourcetaxes).
MBA dựa vào các công cụ kinh tế, nhất là thuế, phí và trọ' cấpmôi trường được sử dụng phổ biến nhất để giải quyết thất bại thị trường, nhằm đưacác chi phí môi trường vào giá cả hàng hóa trên thị trường. Như vậy giá hàng hóa giao dịch trên thị trường là giá mang tínhxã hội, chứ không còn là giá cá biệt của một hàng hóanào đó nữa. Thực hiện dược điềunàysẽtránh được thất bại thị trường đối với BVMT.
Thực tế cho thấy, dựa vào MBA sừ dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ờ các nước trên thế giới, chú yếu ở những nước phát triển và có thể chế kinh tế thị trường tốt, nhận được sự đồng thuận cao của xã hội, mang lại hiệuquảtốt đối với côngtác quàn lý môi trường của Nhà nước, giảm xung độtxãhội.
2. Vai trò của Nhà nước, thị trường và xà hội trong bảo vệ môi trường
2.1. Quản lý nhà nước đối với bảo vệ môi trường
Nhà nướcđóng vai trò hếtsức quan trọng trong BVMT, được thểhiện cơ bản ở 4nội dung sau:
(i) Xây dựng, thực thi và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách để thực hiện chức năng quản lýnhànước về BVMT;
định hướng, tạo môitrường, khởi xướng và tạo đà để hình thành, vận hành các yếu tố thị trường, các dạng thị trường trong lĩnhvực BVMT theo hướng bình đẳng, minh bạch và lành mạnh, huy động toànxã hội thamgia BVMT.
(ii) Phân bổ hiệu quả các nguồn lực, định hướng, điều tiết các hoạt động của toàn xã hội trong công tác BVMTphùhợpvói thể chế KTTT vận hành trong từng giaiđoạnnhằm tránh thất bại thị trường, (iii) Nhà nước vừa làchủ thể quản lý, vừa là chủ thể tham gia vào các quan hệ thị trường, mọi hoạtđộng điều hành của Nhà nước đều phải tôn trọngvà tuân thủ các nguyên tắc, quy luật của KTTT; (iv) Kiến tạo thị trường cho việc huyđộng, phân bổvà sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo độnglực để huyđộng nguồn lực xã hội cho côngtác BVMT.
Tổng kết, đánh giá thực tiễn trên quan điểm của thể chế KTTT chothấy công tác BVMTờ Việt Nam đã đạt đượcmột số kết quả nổi bậtnhư: (1) Tiếpcận thị trường (MBA) trong BVMT trở thànhxu thế chủ đạo và ngày càng
được hoàn thiện hơn. (2) Nhà nước đã phát huy được vai trò trong BVMT với yêu cầucùa nền KTTT định hướng XHCN trong phân bổ, sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế; vận dụng các công cụ dựa vào thị trường, như thuế, phí vàlệphí, các cơ chế tài chính để điều tiết hành vi và huy động sự tham giacủa doanh nghiệp, người dân vào công tác BVMT. (3) Hệ thống tổ chức bộ máy, nguồn nhânlực quản lý nhà nước vềtàinguyên,môi trường và biến đổi khí hậu ngàycàng hoàn thiệnvà phù hợphơn với yêu cầu của KTTT. (4) Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đã được khẳng định vàcó những đónggóp nhất định. (5) BVMT dựa vào thị trường, huy động nguồn lực từ xã hội đã được hình thành, vận hành và đạt được những kết quả nhất định. (6) Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về môi trường từng bước được hoàn thiện,một số lĩnh vực đang hướng theo xu hướng của cuộcCách mạng công nghiệp 4.0 vànền kinh tế số.
Tuy nhiên, thực tiễn công tác BVMT ở Việt Nam vẫn còn không ít hạn chế, bất cập so với yêu cầu trong quá trình pháttriển KTTT như: (1) Hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về môi trường chưathựcsự đáp ứngyêu cầu của thể chếKTTT hiệnđại và hội nhập quốc tế khi Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào thị trườngthế giới thông qua các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA,
SỐ 01 2021 TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐỀ
192
MÔI Ql'AX HỆ GIỮA NHÀ xước. THỊ TRƯỜNG VÀ XÀ HỘIRCEP. (2) Các yếu tố thị trường, quan hệ thị trường và cấp độthị trường chưa được thiết lập đồng bộ, tính cạnh tranh trên thị trường còn yếu, thiếu minh bạchvà hiệu quảchưacao. (3) Vaitròcủa Nhà nước trong huy động nguồn lực cho BVMT, khắc phục các khiếm khuyết của thị trường, phân bổ nguồn lực cho BVMT còn hạn chế, chưa phù hợp với các nguyên tắc thị trường như “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và “người được hường lợi từ môi trường phải trả tiền”. (4) VaitròcủaMặt trậnTổ quốc Việt Namvà các tổ chức chính trị-xã hội trongphản biện, giám sát việc thực thi pháp luật, chính sách, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân và doanhnghiệp trong các vấn đề về môi trường cònmờ nhạt, chưa trở thành một độnglực xãhội thựcsự.
2.2. Thịtrường đốivới bảo vệ môitrường
Thị trường là nơi diễn ra mọi hoạt độngxã hội giữa bêncó nhu cầu về dịch vụ, hàng hóa và bên cung ứng dịch vụ, hàng hóa để đáp ứng nhu cầu đó được thống nhất bởi giá cả trên thị trường.
Đối với công tác BVMT có thị trường nhân tố về môi trường, đặc biệt là trong lĩnh vực quàn lý chất thải rắn, như thị trường mua bán quyền phát thải, thị trường cung cấp dịch vụ môitrường, như xử lýrác thải, nước thải, khíthải, thị trườnghànghóa mua bán sản phẩm xử lý ô nhiễm môi trường....
Điều đánglưu ý là tác động của những vấn đề môi trường ảnh hưởng tới thị trường nói chung,
làm sai lệch giá cả hàng hóa,dẫn đến thất bại thị trường.
Thị trường cóvai trò điều tiết mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội dựa trên những nguyên tắc cơ bảncủa thị trường. Đối với BVMT, thị trường có tác động tích cực, như cho phép lựa chọn công nghệ tốt nhất để xử lý ô nhiễm, phục hồi môi trường. Thực hiện quản lý môi trường của Nhà nước dựa vào thị trường sẽ bảo đảm tính hiệu quả và mềm dẻo, linhhoạt hơn so với cách quảnlý có tính áp đặt, mệnh lệnh hành chính. Đối với xã hội, xét trong bối cảnh thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường sẽ có tác động tích cực trong việc bảo đảm tính công bằng, sự đồng thuận cho BVMT. Mặt khác, trongđiều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, sản phẩm của những doanh nghiệp có thương hiệu gắn với chất lượng môi trường, được dán nhãn xanh là lợi thế để tiêu thụ ở các thị trường khó tính,đòi hòi chất lượng cao, nhờđó lợi nhuận thu được củng tốt hơn.
Bên cạnh những mặt tích cực, đối với BVMT, thị trường cónhững tác động tiêu cực,nhấtlà xét vềvai trò “bàn tay vô hình” sẽ làm cho công tác quản lý môi trường méo móvà BVMTsẽ khó đạt được mục tiêu của Nhà nước. Những thất bại thịtrường đối vớiquảnlý nhà nước về môi trườngdễ xảy ra trong điều kiện thị trường độc quyền, quyền tài sản không phân định rõ ràng, ngoạiứng không đượcgiải quyết và thông tin không đầy đủ. Mục tiêu hàng đầucủa doanh nghiệp là tối
đahóa lợi nhuận, giảmtốiđa các chi phí đầu vào.Đầutư để xửlýô nhiễm môi trường thường chiếm tỷlệ cao trong tổngchiphí, do vậy, nếu Nhànước không cócách thức quản lý đúng và đủ mạnh, thì sẽ tạo những kẽhở để doanhnghiệp lợi dụng trốn tránh chi phí xử lý ô nhiễm môi trường nhằm tăng lợi nhuận.
Thể chế thị trường trongBVMT làhệthống các quy định pháp luật, cơ chế, chính sách về BVMTdocơ quan nhà nước cóthẩmquyềnban hành nhằmtạo hành lang pháp lý cho hình thành, phát triển các thị trường nhân tố cho BVMT; điều tiết hành vi củacác chủ thể, quađó điều tiết hoạt động của nền kinh tế và can thiệp giải quyết những khiếm khuyết của thị trường... trên cơ sở tôn trọngcác nguyên tắc,quy luật của thị trường. Để bảo đảm cho sự hình thành và thực thi có hiệu quả thểchế thị trường đối với BVMT cần xây dựng, hoànthiện hệ thốngtổchức bộ máy, nhânlựcvà cơchế phối hợp, thực thicủaNhà nước đủ mạnh đáp ứng yêu cầu thựctiễn đối với công tác BVMT.
Cùng với đó là phát huy đầy đủ vai trò củacác tổ chức chính trị - xã hội, xã hội -nghề nghiệptrong phản biện, giám sát thực thi pháp luật,chínhsáchvà bảo vệquyền lợi chính đáng của người dân, các chủ thể của thị trường trong các vấnđề liênquan.
Có thể khẳng định, thể chế quản lý nhànước về BVMT ở Việt Nam đã được quan tâm xây dựng, từng bước hoàn thiện, phù hợp với thể chế KTTT qua từng giai
SỐ 01 2021 TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐÉ
TRONG QUẢN LÝ
PHÁTTRIỂN
kinh tẾ
- XÃ HỘI ở NƯỚC TA HIỆN NAY193
đoạn. Vai trò củaNhà nước trong điều hành, kiểmsoát vàphân bổ nguồn lực quốc gia về BVMTđã đượcchú trọng hơn. Các công cụ kinh tế dựa trên MBA, như thuế tài nguyên, thuế BVMT, phí và lệ phí, các cơ chế chi trả dịch vụ
môi trường rừng... đã sớm được áp dụngđể điều tiết hành vi của các chủ thể, cáchoạt động BVMT;
giảm thiểu các khiếm khuyết của thị trường trong lĩnh vực BVMT, công tác BVMT đã đượccải thiện hơn đáp ứng yêu cầu trong tình
hình mới, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vữngvà giữ vững an ninh quốc gia. Chi ngân sách nhà nước cho sựnghiệp môi trường tănglên qua từng năm thể hiện thông qua bảngthốngkê dướiđây.
TỔNG CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO sự NGHIỆP MÔITRƯỜNG QUA CÁCNĂM (Tổnghợptừ số liệu của Bộ Tàichính năm 2018,2019vàTổngcục Thốngkê năm2019)
Năm
Chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường
(tỷ đồng)
Ngân sách Trung ương
(tỷ đồng)
Ngân sách địa phương
(tỷ đồng)
Tổng chi ngần sách
(tỷ đồng)
GDP tính theo giá thực tế
(tỷ đồng)
Tỷ lệ chi ngân sách cho sự nghiệp môi .trường/Tổng chi
ngân sách (%)
Tỷ lệ chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường/ GDP
(%)
2013 9.772 1.172 8.600 1.088.153 3.584.262 0,898 0,273
2014 9.980 1.450 8.530 1.103.983 3.937.856 0,904 0,253
2015 11.400 1.700 9.700 1.276.451 4.192.862 0,901 0,272
2016 12.290 1.700 10.590 1.298.290 4.502.733 0,904 0,273
2017 18.676 1.880 16.796 1.390.480 5.005.975 1,343 0,277
2018 18.392 2.100 16.292 1.523.200 5.542.331 1,207 0,332
2019 20.442 2.200 18.152 1.633.300 - 1,252 -
Bảng trên cho thấy giai đoạn 2013 - 2019, chi cho BVMT từ ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương đều tăng, trong đó ngân sách địa phương tăng nhiều hơn thể hiện đúng với sự vận hành của thị trường, theo đó Nhànước không thể bao cấp mãi cho địa phương. Vai trò quàn lý nhà nước về môi trường của địa phương được tăng cường và thể hiện đúng với chức năng, nhiệm vụ của mình.
2.3. Xã hội đối với bảo vệ môi
trường
Xã hội được hiểu là ngườidân, cáctổ chức xãhội tham giaBVMT khôngthuộc tổ chức nhà nước và doanhnghiệp, như:cộngđồngdân cư,giađình, các hội, hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chứcchính trị - xã
hội (nhưMặt trận Tổquốc,Công đoàn,ĐoànThanh niên, HộiLiên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội nông dân), các tổchứcxãhội, các tổ chức tôn giáo, tínngưỡng....
Sựtham gia của xã hội vào công tác BVMT là rất đadạng,mang tính tự nguyện vàkết nối trong công tác tổ chức, không mang tính áp đặt. Sự thamgia của xã hội đối với BVMT phảituân theo quy định củapháp luật về BVMT. Đồng thời, hiệu quả sự tham gia của xã hội còn phụ thuộc vào đặc điểm vãn hóa, tín ngưỡng, đặc trưng vùng miền, do vậy phát huy tốt những yếu tố nàysẽ tạo sự đồng thuậnxã hội cao trongBVMT.
Ở Việt Nam, sự tham gia của xã hội vào công tác BVMT trước hết thông qua Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam vàcác tổchứcchínhtrị - xã hội, cộng đồng địa phương. Các tổ chứcnàycó vaitrò hết sức quan trọng trong việc phản biện, giám sát thực thi, chấp hành quy định pháp luật, chính sách của Nhà nước và bảo vệ quyền lợi người dân, doanh nghiệp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quảnlýnhà nướcvề BVMTvà hoàn thiện thểchế thị trường. Các tổ chức cộng đồng cũngcó thể nhậnnguồn tàitrợtừ Chính phủ để đứng ra trực tiếp cung ứng một số dịchvụ về BVMT tại cộng đồng, kể cả tự quản các rừngcộng đồng, rừng tín ngưỡng, rừng để duy trì nguồn nước có ý nghĩa BVMTsốngcho cộng đồng.
Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của các tổ chức xã hội đã
SỐ 01-2021 I TẠP CHÍ CỘNG SẢN-CHUYÊN ĐÉ
194
MỒI QUAN IIỆ GIỮA NỈIĂ NƯỚC. THỊ TRƯỜNG VÀ XẰ HỘIđược ghi nhận, khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam nói chung và về công tác BVMT nói riêng.
Thực tiễn chứng minh rằng, nhiều hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp trong thực thi pháp luật về BVMT được các tổ chức xã hội triển khai thông qua các diễn đàn, phong trào quần chúng tại các cụm dân cư, tổdân phố,tổ tự nguyện BVMT, những quy định trong hương ước của làng, xã...
đã tạo hiệu ứng tích cực cho công tácBVMT. Chức năng phản biện, giám sát thực thi chính sách, pháp luật củacác tổ chức này đã được phát huy theo hướng chủ động hơn thông qua việc đóng góp ý kiến cho các dự thảo luật, nghị định và các văn bản phápluậtliên quan trực tiếphoặcgiántiếp đến lĩnhvựcBVMT. Sựđóng góp của xãhội về nhân lực, vật lực và tài chính cho BVMTngày càng được khẳng định. Thực tiễn củng đã chứng minh trong phòng, chống thiên tai, với cách tiếpcận và chỉ đạo của Nhà nước về “bốn tại chỗ” thì vai trò, đóng góp củaxã hội làcơbản, tạo phản ứng nhanh và kịp thời.
Bên cạnh đó, xã hội luôn bị giới hạn về tổ chức, quản lý và nguồn lực,chỉ thuận lợi khi triểnkhai tại cộng đồng vi mô, còn triển khai trên phạmvi toàn quốc thì không chủ thể nào có thổ thay thế Nhà nước; nhiều nội dung BVMT ờ cộng đồng, gia đình (nhưvấn đề rácthài)chỉ giải quyết ờ dạngđơn
giàn, khó xử lýtriệt để,hiệu quà, nếu thiếu sự vàocuộc của doanh nghiệp gắn với nguồnđầu tư vốn lớn, ápdụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phát triển công nghiệp môi trường, vấn đề ô nhiễm môi trường cũng thường bị những thế lực thù địch, phản động lợi dụng để kích độngnhân dân,tập hợp lực lượng,thực hiện ý đồ xấu, gây bất ổn xã hội. Hiện tượngnày ờ nướcta đã xảy ra năm 2016 sau sự cố gây ô nhiễm môi trường 4tinhvenbiển miền Trung từ HàTĩnh đến Thừa Thiên Huế của doanh nghiệp Hưng nghiệp FormosaHà Tĩnh.
2.4. Nhữngvấn đề đặt ra về vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hộitrong bảo vệ môitrường
- Từ chính sách của Nhà nước Xét trong mối quan hệ giữa nhànước, thịtrường vàxã hội đối với BVMT, chính sách của Nhà nướclà yếu tố đóng vaitrò quyết định. Bời lẽ, chính sách phù hợp sẽ tạo điềukiện để thị trường vận hành thông suốtđối với công tác BVMT, góp phần tăng cường ổn định xã hội. Ngược lại. chính sách không phù hợp sẽ làm méo mó thị trường, làm cho nhóm được hưởng lợi nhiều, nhóm bị thiệt hại lớn, phát sinh xung đột xã hộivì môi trường. Đối với thị trường, khi Nhà nước ban hành những chính sáchmôi trường khôngdựa vào nguyên tắc ppp và BPP, thì thất bại về mặtchính sách trong quản lý môi trường là khó tránh khòi. Tuy nhiên, khi ban hành chính sách dựa trên hai nguyên tắc này,cácnhàhoạch định chính
sách củng phải xem xét kỹ từng trường hợp cụ thể, nhất là những đối tượng kinh doanh được hưởng lợi từ môi trường và sử dụngmôi trường làm nơi xả thải, sử dụng những dịch vụ của môi trường mang lại.
- Từ thất bại của thị trường (phần nào gồm cả thất bại của chính phủ) có nguyên nhân từ môi trường:
Ngoại ứngtích cực: Thực tiễn chothấy, những khoản đầu tư cải tạo, phụchồi, tôn tạomôi trường sẽtạo ra những tác độngtích cực đối với các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Nếu quản lý nhà nước không nhận thức và điều chỉnh kịp thời, thì sẽdẫn đếnthất bại thị trường do giá cả không phản ánh đúng giá trị thật của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Chẳng hạn, việc quy hoạch đầu tư xây dựng công viêncây xanh,hồ nước, mờ đường thông thoáng, giảm ônhiễm,... sẽ làm tăng giá các khu đất,nhà cửa gần đó. Trong bối cảnh đó, nếu quàn lý nhà nước không kịp thời điều chỉnh giá dất, giá nhà, thì sẽ phát sinh cácxung độtlợi ích, nhất là trong việcthu hồi đấtvà những giao dịch liênquan đến bất động sản. Hiện tượng này gọi là thất bại thị trường, hay thất bại của Nhà nước trong quànlý thị trường bất động sản, vì giá cả không phản ánh đúng giá trị của dịch vụ và hàng hóa trên thị trường nhờ tác động tíchcực cùa ngoại ứng.
Ngoại ífng tiêu cực: Đối với những hoạt động sản xuất kinh doanh xả thài gây ô nhiễm môi
SỐ 01 2021 ( TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐÉ
TRONG QUẢN LÝ PHÁT TRIEN kinhte - XÃ HỘI ở NT O(: TA IIIỆN NAY
195
trường, hủy hoại tài nguyên, nhưng khôngđầu tưtrởlại để khắc phục,chiphínàykhông được tính vào giá thành sản phẩm là nguyên nhân đưa ra những quyết định sai lệch trên thị trường từ phía quản lý nhà nước; là nguyên nhân cơ bản gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại tài nguyên, đẩy chi phí khắc phục hậu quả cho xã hội;
là nguyên nhân dẫn đến những xungđộtxã hội giữa các bên liên quan. Trường hợp Côngty Vedan xảthảixuốngsông Thị Vải ờ phía Nam, các doanh nghiệp sản xuất bộtsắnxảthải xuống sông Bưởi ở phía Bắclàm ô nhiễm nước,chết cá hàngloạt là những ví dụ điển hình.
Môi trường là hàng hóa công cộng thuộc tài sản sởhữu chung, mà chủ đại diện là Nhà nước, vì vậy việc định giá và xác định giá trị môi trường khó xác lập trên thị trường. Kết quả là việc kinh doanh, sử dụng tàisảnmôi trường dễ bị cá nhân lợi dụng nhằm tối đahóa lợi ích của mình, chính vì vậy quản lý môi trường đòi hỏi phải dựa trên cách tiếp cận phù hỢp với đặc trưng này cùa môi trường thông qua hệ thống pháp luật bảo đảm tính công bằng về mặt xã hội.
Thị trườngcạnh tranh không hoàn hảo, độc quyền là nguyên nhân gây ra những tổn thất về môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên. Điều này đã được minh chứng từ môhình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây ở mộtsố quốc gia chậm chuyển đổi sang cơ chế thị trường, như Liên
Xô. Chính vì vậy, quản lý nhà nước về môi trường phảitạo ra thể chế nhằm loạibỏ tính độc quyền trong khai thác tàinguyên,loại bỏ ưu đãi đối với những đối tượng gây thiệthại cho môi trường.
Sự bất đối xứng về thông tin môi trường. Xác lập được thông tin môi trường đầy đủ là rất khó khăn, phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan đến tự nhiên, kinh tế, xã hội và công nghệ. Thông tin khôngđầyđủ dẫnđến quyết định thiếu chính xác trong quản lý. Đây là nguyên nhân làm biến dạngthị trường, gây ra những bất ổn xã hội liên quan đến môi trường.
Chính vì vậy, cần có một cơchế thiết lập và đầu tư xứng đáng để có đượchệ thống thông tin môi trườngđầy đủ xét trong điều kiện KTTT. Thực tiễn nhữngnăm qua chothấy, số liệu về diện tích rừng, đa dạng sinh học, nguồn phát thài gây ô nhiễm, các chỉ số về ô nhiễmđất, nước, không khí... của Việt Nam chưa đủ độ tin cậy để các cơ quanquản lýnhà nước về môi trường đưa ra những quyết định quản lý môi trường đầyđủ và chính xác.
- Từáp lực của xã hội
Xãhội càngphát triểnthìnhu cầu về chấtlượng môi trườngsống càng cao, đòi hỏicôngtácquản lý nhànước về môi trườngcàng phải bài bản, khoa họcvà hiệu quả hơn.
Những sản phẩm tiêu dùng phải là những sảnphẩm xanh, hữu cơ, thân thiện với thiên nhiên. Chính vìvậy, đối với các nướcpháttriển, như Mỹ, EU, Nhật Bản...,tiêuchí môi trường của những sản phẩm
nhập khẩu vào các nước này là nhữngtiêuchícơ bản, như những ràocảnkỹthuậtđối với sảnphẩm nhậpkhẩu từ cácquốc gia không chứng minh được nguồn gốc và sự thân thiện của sản phẩm với môi trường.Áp lực xã hội còn thể hiện thông qua phảnbiện của xã hội đối với những chínhsáchcủa Nhà nước liên quan đến quản lý môi trường. Áp lực của xã hội đòihỏi thị trườnghoạt động hiệu quả hơn trong khai thác,sửdụng tài nguyên, BVMT; đòi hỏi thị trường các nhân tố BVMT, như thị trường phát thải, thị trường dịch vụxử lý chất thải, thị trường cungcấp trang thiếtbị,công nghệ xử lý môi trường phải không ngừng được hoàn thiện.
3. Những hất cập trong moi quan hộ Nhà nước - thị trường - xà hội VỚI bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Thực tế giải quyết mối quan hệ Nhà nước - thị trường- xã đối với bảo vệmôi trườngở ViệtNam thời gian qua bộc lộ những bất cập sau:
77ỉứnhất, mặcdùLuật BVMT năm 2020 đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhưng trước khi sửa đổi hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách triển khai về BVMT chưa đápứng yêu cầu của thể chế thị trường hiệnđạivà hội nhập quốc tế.
Chức năng quản lý nhà nước trong hệ thống pháp luật về đa dạng sinhhọc, BVMTchưađược phân địnhrõ,thiếu đồngbộ, thiếu thống nhất. Trong đó, đángchú ý
SỐ 01 2021 I TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐỂ
196
MÔI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC. THỊ TRƯỜNG VÀ XÃ IIỘIlà thiếusự thống nhấtgiữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; thiếu sự phân định rõ ràng vềquyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan Trungương và địa phương trong BVMT, trong khi cơ chế phối hợp thực thi còn yếu.
Thiếucác chế tài cụ thể ràng buộc quyền và trách nhiệm của các chủ thể, bao gồm cả các cơ quan nhà nước, dẫn đến tình trạng chấp hành pháp luật chưa nghiêm.
Chế tài giải quyết các tranh chấp, xung đột về môi trường giữa cộng đồng, người dân vàđịa phương với các tổ chức, cá nhân hưởng lợi từ tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường,... còn khiếm khuyết, chưa rõ ràng.
Thứ hai, các nhân tố thị trường chưa đượcthiếtlập đồng bộ; hoạt độngcủa các dạngthị trườngcòn sơkhai, tính cạnhtranhthấp, chưa minh bạch và không hiệu quả.
So với các nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại trên thế giới, thì nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập như: quyền sở hữu tài sản và bảo hộ sở hữu tài sản còn rất yếu, trình độ phát triển của các loại thị trường còn thấp, cải thiện chậm, giá cả của các nhân tố sản xuất bao gồm vốn,đất đai, lao động, tàinguyên thiên nhiên vẫn chưa hoàn toàn tuân theo quy luật thị trường, vị trí, vai trò và chức năng của kinh tế tưnhân và doanh nghiệp nhà nước chưa phù hợp với thông lệ của nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế. Giá của các dịch
vụ về môi trường chưa phản ánh đúng các lợi ích nhận được từ việc sử dụng nguồn tài nguyên hay dịchvụ môi trường. Việc chuyển từphísanggiá đối với dịchvụ thu gom, vận chuyểnvà xử lý rác thải sinh hoạt là chủ trương đúng, phù hợp với cơ chế thị trường, nhưng cách tính giá dịch vụ hiện nay chưa phảnánh được sự khác biệt giữa các chủ thể khácnhau, chưa bảo đảm nguyên tắc công bằng, nguyên tắc người gây ô nhiễm phảitrả phíkhắc phục. Ngoàira, phí BVMT đối vớinước thải chưa được chuyển thành giá, cách thu phí hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, không phù hợp với thực tiễn và năng lực giám sát của các cơ quan quản lýnhà nước.
Côngtác BVMT chủ yếu vẫn dựa trên cơchế mệnh lệnh hành chính, chưa xem trọng các biện pháp dựa vàothị trườngvà chưa cân nhắc đến việc hình thành các nhân tố thị trường để tạo động lực choviệc thay đổi hành vi của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng trong BVMT. Các tổ chức, cá nhân sảnxuất-kinh doanh chủ yếu vẫn tập trung vào mục tiêu ngắn hạn - thulợi nhuận, màchưa cân nhắc đến các lợi ích lâu dài, bền vững trongbối cảnh hộinhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Chính vìvậy,nhiều tổ chức, cá nhân bất chấp các quy định về BVMT nhằm giảm thiểu chi phíngắn hạn, tình trạng vi phạm pháp luật về môi trường gia tăng.
Công tác quản lý nhà nước và cách thức điều tiếtthị trường các giao dịch về hànghóavà dịch vụ
môi trườngcòn yếu, thiếu thông tin dẫn đến tình trạng thiếu cơsờ để xác định giá theo nguyên tắc thị trường. Thị trường hàng hóa và dịchvụmôi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường; thị trường buôn bán tín chỉ các-bon, cơ chế phát triển sạch (CDM) chưa thực sự được quan tâm, hỗ trợ để vận hành đồng bộ với xu hướngcủa thế giới.
Nhìn chung, ở nước ta hiện nay, thị trường trong lĩnh vực môi trườngcòn rất sơ khai, chưa phát huy được tiềm năng phù hựp với sự vận hành của thể chế thị trường. Tính cạnh tranh,minh bạch trong thị trường các nhân tố liên quan đến BVMT còn rất hạn chế. Việc phát huy ưuthế của thị trường trong huyđộng nguồn lực từ khu vực ngoài nhà nước cho công tác BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu còn gặp nhiều khókhăn.
Thứba, xét trong bối cảnh của thể chế thị trườnghiệnđại, vaitrò của Nhà nước trong BVMT còn hạn chế, chưa được pháthuy đầy đủ.
Cách thức Nhà nước quản lý và phân bổ nguồn lực quốc gia (đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên rừng,tài nguyên biển...) cho phát triểnkinhtế-xã hội thời gian qua còn mang nhiều dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, quan hệxin - cho, cấp - phát còn phổ biến,tình trạng làm trái với quyđịnh pháp luật trong thực thi, đã tạo điều kiện hình thành các nhóm lợi ích trong xã hội, tài nguyên quốc
SỐ 01 -2021 i TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐỂ
TRONG QUẢN LÝ PHÁTTRlỂN kinhte
-
xãhội ở nước tahiệnnay197
gia bị sử dụng lãng phí, không hiệuquả, khiến choô nhiễm môi trường gia tăng, gây tổn thất lâu dài cho xã hội.
Công tác BVMT vẫn mang tính mệnh lệnh, chỉ huy, nhưng lại bị động, chưa tính toán và cânnhắc đầyđủ các mối quan hệ giữaphát triển kinh tế với BVMT Chưa tạo ra được những động lực đột phá để huy động nguồn lực, đặc biệt là khu vựcngoài nhà nước, chocông tác BVMT
Vai trò của Nhà nước trong tạo dựng, hỗ trợ phát triển, điều tiết thị trường và hành vi của các chủ thể thị trường để hướngđến mục tiêu khaithác, sử dụng tiếtkiệm, hiệu quảtài nguyên, tăng cường BVMT; khắc phục các khiếm khuyết của thị trường còn yếu.
Đặc biệt, vai trò của Nhà nước trong giải quyết những khiếm khuyết của thị trường trong lĩnh vực môi trường còn hạn chế.
Những năm gần đây, các khiếm khuyết thị trường, nhưngoại ứng tiêu cực do ô nhiễm môi trường, ngoạiứngtích cực docải thiện môi trường, biểu hiện ngày càng rõ, nhưng chưa được quan tâm dẫn đến tình trạng thiếu công bằng, thậm chí gây khiếu kiện, xung đột giữa các vùng, địa phương vàcác nhóm xã hội;hàng hóavà dịchvụ côngcộng trong lĩnh vực môitrường chưa được xác định rõ ràng. Nhiều dịchvụ môi trường thị trường cóthể làmtốt hơn,nhưng vẫnđang đượcthựchiện bởi các đơn vị sự nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến hiệu quả thấp. Bên cạnh đó,
một số loại dịch vụ trong lĩnhvực môitrường đã được chuyển giao cho thị trường đảm nhận, nhưng lại thiếu cơchế và cácchế tài cụ thể đểquảnlý, giám sát dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật về tài nguyên,môitrường ngàycàng phức tạp, khó quản lý, điển hình là vấn đề quan trắc môi trường, đánh giá tác động môi trường (ĐTM), đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC). Chính vì vậy, Luật BVMT năm 2020 đã sửa đổi chuyển sang hình thức cấp giấy phép môitrường với điều kiện đã đáp ứng đầy đủ các quy định về môi trường tương tự như chính sách BVMT của nhiều nước có thể chế thị trườngvận hành tốt, như HànQuốc,Nhật Bản...
Thứ tư, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cáctổ chức chính trị -xã hội trongphản biện, giám sát thựcthi chính sách pháp luật,bảovệquyền lợi chính đáng củangười dân và doanh nghiệp về môi trường chưa được phát huy đầy đủ; huyđộng nguồnlựctừ xã hộicho công tác BVMT còn yếu, cụ thể như sau:
Sự phối hợp giữa các cấp ùy đảng, chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chứcthành viên trong giám sát môi trường chưa đồng bộ, nhiềunơi còn mang tính chấtgiaokhoán công việc, nhiều hoạt động còn mang nặng tính phong trào;
Vai trò giám sát, phản biệnxã hội đối vớicác chính sách và bảo vệ quyền lợi của người dân, cộng đồng dân cưtrong các vấn đề về BVMT chưa cao;
Trách nhiệmbảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân trong các tranh chấp, khiếu kiện về môi trường, nhất là cácvấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường chưa được phát huyđầy đủ, còn yếu.
4. Đê xử lý hiệu quả mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong bảo vệ môi trường ở việt Nam giai đoạn hiện nay
4.1. Hoàn thiện chức năng, phát huy vai trò của Nhà nước
đối với bảo vệ môi trườngdựa vào tiếpcậnthịtrường
(a) Hoạt động phòng ngừa và kiểm soát môi trường; khắcphục ô nhiễm, cải thiện chấtlượng môi trường và điềukiện sống của người dân.
Trong phòng ngừa, kiểm soátcác nguồn gây ô nhiễm môi trường cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng cải cách hành chính, minh bạch hơn, phân cấp cho bộ, ngành và UBND cấp tỉnh;
tiếp tục xâydựng các hướng dẫn kỹ thuật; tiếp tục ràsoát, bổsung và hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn về mối trường, hướng tới cơbản tương đương vớicác nước dẫnđầu trong khuvực. Chútrọng hơn hoạt động kiểm soátônhiễm ở các khu, cụm công nghiệp, tụ điểm khai thác, chế biến khoáng sản, các làngnghề, lưu vực sông, các đô thị lớn và khu vực nông thôn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kiểm soát về môi trường đối với hoạt động đầu tư, chuyểngiao công nghệnhằm ngăn chặnviệc tuồn công nghệlạc hậu,
SỐ 01 2021 I TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐỂ
198
QUAN ỉ IỆ GIỮA NHĂ NƯỚC, THỊ TRƯỜNG VÀ XÃ HỘImáy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vậtliệu khôngbảo đảm yêu cầu về môi trường từ bên ngoài vào. Việc ký quỹ khi nhập khẩu phế liệu phải trở thànhquy địnhpháp luật mang tính bắt buộc, ngăn chặn việc nhập khẩu trái phép chấtthải.
Khắc phục ô nhiễm, cảithiện chất lượng môi trường và điều kiện sốngcủa người dân,hạn chế tác động do ô nhiễm môitrường đếnsức khoẻ của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Đánhgiá chínhxác thiệt hại do ô nhiễm môi trườngvà xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân gây ô nhiễm để có biện pháp xử lý phùhợp theo nguyên tắc thị trường.
Đẩy mạnh hơn nữa sử dụng công cụkinhtế dựa vào thị trường đểđiều chỉnh hànhvi giảmô nhiễm môi trường của doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sớm triển khai Luật BVMT 2020 liên quan đến điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp và người dân khắcphục ô nhiễm, bảo đảmchất lượng môi trường.
(b) Bảovệ, phát triểnrừng bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống khung khổ pháplý để điều tiếtcác hoạt động liên quan đến rừng và đadạng sinh học dựa vào MBA gồm: Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (được thay thế bằng Luật Lâm nghiệp năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01-01- 2019). Cần sớm rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện Luật Đa dạng sinh họcnăm2008, chophù hợp với thực tiễn hiện nay trong bối
cảnh thể chế kinhtế thị trường đã hoàn thiệnhơn,thunhập và nhận thức củangười dânđã thay đổi so với thời điểm Luật này được ban hành (năm 2008).
Dựa vào MBA để phát huy vai trò của xã hội, nhất là cộng đồng dân cư và doanh nghiệp thamgia trồng, bảo vệrừng,trọng tâm là thực hiện chủ trương trồng mới 1 tỷ cây xanh trên phạm vi cả nước theo sáng kiến của Thu tướngChính phù. Chú trọng cây bảnđịa, duy trì đa dạng sinhhọc dựa vào cộng đồng, phát huyvai trò “bà đỡ” của Nhànướcthông qua những nguyên tắc của thị trường để tạođộng lực bên trong cho phát triển rừng vàbảo tồn đa dạng sinhhọc.
4.2. Mộtsố gợi ý vềcách thức xử lýmốiquan hệgiữa Nhà nước,thị trườngvà xã hộitrong bảo vệmôi trườngở Việt Namthờigian tới
(a)Trong ban hành chính sách.
Kinh nghiệm của các nước quản lý hiệu quả về BVMT cho thấy, việcban hành chính sách để xử lý mối quan hệ giữa nhà nước, thị trườngvàxã hội cần dựavào MBA để xây dựng và hoàn thiện chính sách, nghĩalà tuân thủtheo những quy luật khách quan của thị trường ờ từng giai đoạn phát triển. Tuy nhiên,quảnlý nhà nước cần phát huy đầy đủ sức mạnh của Nhànước đểhạn chế và loại bỏ dần những yếu tố liên quan đến môi trường gây ra thất bại thị trường. Côngcụ kinh tếlàcốt lõi đểxử lýmối quanhệ giữanhà nước, thị trườngvàxã hội đối vối BVMT dựa vàoMBA.
(b) Trong tổ chức thực hiện chínhsách.
Mặc dù chính sách được ban hành đầy đủ, nhưng nếu việc tổ chức thực hiện chính sách không tốt, thì côngtác BVMT khôngthể thành công trong việc xử lý mối quanhệgiữanhànước, thị trường và xã hội. Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, tổ chức thực hiệnchính sách luônlàkhâuyếu nhất. Trong cơ chếthịtrường, thì việc phân công, phân nhiệm và quy rõtráchnhiệm cụ thể cho các chủ thể quản lý là hết sức quan trọng. Những thất bại trong quản lý môitrường một phần dobị chi phối bởi “bàntay vô hình” của thị trường, khâu tổ chức thực hiện từ Trung ương đến địa phương, trong đó vai trò chính thuộc về người dân và xã hội, cấp quản lý nhà nước ở địa phương. Phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là vai trò của yếu tố văn hóa trong BVMT.
(c) Trong thanh tra, kiểm tra, giám sát thựcthí chính sách.
Thực hiện nghiêm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sátviệc thực thi chínhsách đối với BVMT sẽ tạo sự liên kết chặt chẽ giữa nhà nước, thị trường và xã hội.
Vì việc phát hiện đúng, kịp thời những bất cập trong chính sách và tổ chức thực hiện chính sách sẽ giúp kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách đối với quản lý nhà nướcvề BVMT.
(d) Cần có cách xử lý phù hợp dựa trêntiếp cậnthị trường đối với những vấn đề môi trường bức xúc.
SỐ 01-2021 1 TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐỂ
TRONG QUẢN LÝ PHÁT TRIEN kinhte
-
xàhội ở nướcta hiện nay199
Một là, phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn.
Mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội đối với thu gom, vận chuyển và xửlý chất thải rắn đã được xử lý tích cực, phù hợphơn từ khiViệt Nam chuyển sang kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy, những loại chất thải rắn có giátrị (cóthểtái chế) trên thị trường, như kim loại, giấy, thủy tinh...thì tự thị trường giải quyết.
Thị trường không tự giải quyết những loại chất thải khôngcógiá trị và chất thải độchại. Để xửlý tốt khâu phân loại, thu gom,vận chuyểnvà xử lý chất thải cần phải dựavào MBA, trướchết cầnchia rác thải thành 3 nhóm (i) nhóm nhữngloại rác thải thị trường tự giải quyết, (ii) nhóm những rác thải có sựhỗ trợ của Nhà nước sẽ dẫndắt thịtrường giảiquyết, (iii) nhóm rác thải chỉ Nhànướcmới có thể giải quyết. Với mỗinhóm rácthải phải có những cách thức quản lýnhànướcphù hợp.
Hai là, phục hồi, bảo tồn và phát triển các hệ sinh thái.
Mỗi hệ sinh thái có lịch sử hình thành, phát triển tương ứng với mỗi vùng miền và mang tính địa phương,vùng miền đó phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, đặc điểm kinhtế - xã hội của địa phương. Xử lý mối quan hệ giữa nhà nước, thịtrường và xã hộiđể phục hồi,bảo tồnvàphát triển các hệ sinh thái cơ bản vẫn phải dựa vào MBA. Tuy nhiên, cách tiếp cận ở đâykhác với cách tiếp cận trong xử lýchất thải,vì hệ sinh thái đượcxem làđầu vào của hệ thống
kinh tế, làkhông gian sinh tồn của con người vàsinh giới. Xét trong bối cảnh thị trường, phải lượng hóa, hạch toán được giátrịcủahệ sinh thái, các thànhphần củahệ sinhthái cung cấp hànghóa vàgiá trị dịch vụ cho con người và hoạt động kinh tế, ứng với mỗi loại giá trị Nhà nước sẽ có cách thức quản lý phù hợp. Những giá trị như hấp thụ các-bon, đa dạngsinh học, cảnh quan vàduy trì nguồn nước củahệsinh thái là nhữnggiá trị khó lượng hóa, nhưng nếu sử dụng MBA, hoàntoàn có thể xác định đượcgiá trịdịch vụ của từng loại theo nguyên tắc thị trường.
Ba là, chuyển đổi mô hình kinh tế từ“nâu” sang “xanh”; từ mô hình kinh tế phát thải “các- bon cao” sang“các-bonthấp”; từ môhình kinh tế“tuyến tính”sang kinh tế “tuần hoàn” phù hợp vớixu hướng chung của thế giới hướng đến phát triểnbền vững.
Đối với chuyển đổi mô hình kinh tế từ “nâu”sang“xanh”, cốt lõi là sử dụng năng lượng táitạo, hạn chế tối đa phátthải khínhà kínhvà duy trìđược hệ sinhthái tựnhiênđể hướng đến sự phát triển bền vững, chuyển đổi cách thức sản xuất cũ khôngthân thiện môi trường sang hoạt động kinh tế thân thiện môi trường hơn, “thuận thiên”.
Đối với chuyển đổi mô hình kinh tế phát thải “các-bon cao”
sang “các-bon thấp” nhằm giảm nhẹ phát thảikhí nhà kính trong ứng phó với biến đổi khí hậu, mặt khác, môhình này củng thân thiện vớimôi trường và hiệu quả trong sử dụng năng lượng.
Đối với chuyển đổi mô hình kinh tế từ “tuyến tính” sang “tuần hoàn” dựa trên nguyên tắc cân bằng vật chất trong hệ thống kinh tế. Thực hiện hoàn hảo mô hình này không đưa chất thải ra môi trường, các dạng vật chất được quay vòng trong hệ thống kinh tế,như vậy sẽ hạnchếtối đa khai thác tài nguyên thiênnhiên.
Trong mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội đối với phát triển các mô hình trên, trướchết Nhà nước phải tạo được hành lang pháp lý hoằn chỉnh, thứ hai hiệu quả kinh tế phải do thị trường điều tiết và thít ba phải nhận được sự đồng thuận cao của xãhội,phải mang lại nhiều phúc lợinhất cho xã hội.
*
* *
Đe xử lý hiệu quả quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội trong BVMT cần tiếp tục nâng cao vai trò của Nhà nước - chủ thể quản lý môi trường, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; hình thành thị trường các nhân tố BVMT, nhất là thị trường nhân tố sản xuất công nghệ cao thânthiện với môi trường; tạo cơ chế thuận lợi đểthu hút sự ủnghộ và nâng cao vai trò của xã hội đối vớiBVMT, vai trò phảnbiện chính sáchcủa xã hội đối với công tác quản lý môi trường, phát huybản sắc văn hóa địa phương đối với BVMT, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thông tin đại chúng phát huyvaitrò truyềnthông đưa tin, nângcaonhận thức về BVMT ■
SỐ 01-2021 I TẠP CHÍ CỘNG SẢN-CHUYÊN ĐÉ
200
______________________MÓI QUAN HỆ GĨƯA NHÀ NƯỚC, TI ĨỊ TRƯỜNG VĂ XÃ HỘITÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 24-NQ/TW, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương lần thứ bảy khóa XI về “chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và báo vệ môi trường”, ngày 3-6-2013
2. Phùng Thanh Bình - Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Bài viết về công cụ kinh tế, cơ chế tài chính và nguồn lực cho bảo vệ môi trường phục vụ sửa đổi Luật Bào vệ môi trường năm 2020, 2019
3. Bộ Chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận số 56-KL/TW, ngày 23-8-2019 “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 7 khóa XI, về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường"
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê Nin ”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2010
5. Nguyễn Thế Chinh (Chủ biên): Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường, Nxb. Thống kê, 2003 6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứXIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tập I, II 7. Quốc hội: Luật Bảo vệ môi trường, 2020
8. Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường: Dự thảo dề án “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu ”, 2019
Tiếng Anh.
1. Anthony E.Boardman, David H.Greenberg, Aidan R. Vining, David L. Weimer: Cost-Benefit Analysis Concepts and Practice, Third Edition, Library of Congress Cataloging-in-Publication Data, Copyright 2006, 2001 by Pearson Education, Inc., Upper Saddle River, New Jersey 07458
2. OECD: Market-based instruments, OECD Glossary of Statistical Terms, 2007 3. OECD: OECD Policy Instruments for the Environment, 2016
4. OECD: OECD Policy Instruments for the Environment, 2017
5. Sterner, T, Coria, J: Policy instruments for environmental and natural resource management, Second Edition. RFF Press, 2012
6. Swedish Environmental Protection Agency (SEPA): Economic instruments in environmental policy, 2007
7. Tom Tietenberg: Environmental and Natural Resoutce Economics, Library of Congress Cataloging-in-Publication Data, 2000
SỐ 01 2021 I TẠP CHÍ CỘNG SẢN - CHUYÊN ĐÉ