Thụ hưởng chính sách trợ giúp xã hội của ngưòi cao tuổi - Một số vấn đề đặt ra
LêNgọc Lân*
’ TS., Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xà hội Việt Nam.
1 Bài viết là sản phẩm của Đề tài cấp Bộ “Thụ hưởng chính sách trợ giúp của người cao tuổi khu vực miền núi phía Bắc” do Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới chủ trì thực hiện năm 2021-2022.
Tómtắt: Chăm sóc người cao tuổi, bén cạnh vaitrò của giađình còn có yếu tố chính sách xã hộicủa Nhà nước. Ngoàimột tỷ lệnhấtđịnhtrong số họ còn cóthểtự lậpvề cuộc sống như tự chủ vềthunhập, khỏe mạnh, thì phầnlớn, cuộc sốngcủa họ đã bị giảmsút, cần sự hồ trợ về mặt này haymặt khác từnhà nước, cộng đồng. Chínhvìvậy,các quốc gia đều cónhững chính sách xã hội hồ trợcho người cao tuổi ở những mức độ khác nhau, nhấtlà nhóm người cao tuổigặp nhiều rủiro, khókhăntrong cuộc sống.Ở Việt Nam, trước đây sựtrợ giúp cho người caotuổiđược thựchiện trong hệthống chính sách xãhộinói chung. Từ khi có Pháp lệnh về Người cao tuổi (2000), Luật Người cao tuổi (2009)thi nhiều chính sáchcụ thể đã được Chính phủvà các Bộ ngành và địa phưomg quan tâm,ban hành và thựchiện. Người caotuổi ở khu vực miềnnúi là nhóm dân số có điều kiện sống khó khăn và còn nhiều thiệt thòi horn các khu vực khác. Bài viết này phân tích một số chính sách trợgiúp xãhộicho ngườicao tuổi,các kếtquảthụ hưởng và những vấn đề đặtra từ những nghiên cứuvề người caotuổiởViệtNamtrong những năm vừa qua*1.
Từ khóa: Người cao tuổi; Chính sách trợ giúp xã hội; Trợ giúp người cao tuổi; Chăm sóc người cao tuổi.
Ngày nhận bài: 30/9/2021; ngày chỉnh sửa: 15/10/2021; ngày duyệt đăng:
15/11/2021.
1. Giới thiệu
Chính sách xã hội làmột dạng chính sách được nhànước banhànhnhằm cung cấp chongườidân những dịch vụ xã hội tốt nhất và các chính sáchnhằm hồ trợ cho các đốitượng khó khăn của xã hội.Đây lànhữngbiện pháp của Đảng
vàNhà nước nhằm hỗ trợ cho các đối tượngchính sáchcùa xã hội và phục vụ lợi íchchung của xã hội.
Ngườicao tuổi (NCT) là nhóm yếu thế cuaxã hội.Tuồi già,bệnh tậtkhiến họ không còntự chủ được nguồn thu, đảm bảo đượccácchi trả cho cá nhân, vì thế, một tỷ lệ lớn trong số những NCT đang cần có những trợ giúp ở mức độ khác nhau từnhànước, xã hội và gia đìnhđể duy trì cuộc sốngbìnhthường.
Trong khoảnghai thập niên gầnđây, vấn đề chăm sócNCT, về chínhsách xã hội, an sinh xã hội (ASXH) nói chung, trong đó có NCT nói riêng đã được quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gầnđây cũng đã có một số tác già đề cậpđếncác vai trò, ý nghĩa của chính sách xãhội đối với NCT, bao gồm sự hồ trợđe đảm bảo cuộcsốngvềkinh tế (bảo hiểm xã hội/lưcmg hưu,trợcấp xãhội);
chămsóc sức khỏe và các hồtrợxã hội khác từ gócđộ chính sách và thực tiền ở các địabànnghiêncứu khác nhau.
Từ hệ thống quan điểm của Đảng và các chính sách của nhà nước về an sinh xã hội, trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi, bài viết tổng quan một số kết qua nghiêncứu đã có nêu lênthực tế việc thụ hưởng các chính sách này trên một sốmặt trong đời sống cùa người cao tuổi nói chung vàngười cao tuôi vùngdân tộc thiêu số, miền núi nói riêng. Qua đó, bài viếtchi ra nhữngkhoảng trốngcần nghiên cứu bố sung để có góc nhìn toàn diện hơn về việc thụ hương các chính sách trợgiúp xãhội với người cao tuổi.
2. Hệ thống chính sách xã hội, trợ giúp xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam
Từ nhiều năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối Đổi mới (năm 1986)đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực đê ốn định chính trị - xã hội, phát triển bền vững. An sinh xã hội được xác định là một bộ phận quan trọng cùa chính sách xã hội, nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cùa đất nước. An sinh xã hội (ASXH) là hệ thống chính sách, các chương trình của Nhà nước và cua các tổ chức xã hội nhằm trợ giúp, giúp đỡtoàn xã hội, các cánhân gặp phải rui ro hoặcbiến cố để đảm bảo mức sống tối thiểu và nâng cao đời sống cùa họ. Nói cách khác, an sinh xã hội làhệ thống các chính sách can thiệp của nhà nước (bào hiểmxãhội, trợ giúp xã hội) và tư nhân nhằm giảm mức độ đói nghèo và tổn thương, nhằm nâng cao năng lực tự bảo vệ của người dân và xã hội trước những rủi rohay nguy cơ giảm hoặc mất thunhập, baođàmổn định, phát triềnvà côngbằngxã họi (GIZ và ILSSA, 2011).
Hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay gồm 4 nhóm cơ bản: (1)Nhóm chính sách việc làm đảm bảothu nhập tối thiểu và giảm nghèo;
(2) Nhóm chính sách bảo hiểm xãhội; (3) Nhóm chính sách trợ giúp xã hội; và (4) Nhóm chính sách dịch vụ xã hội cơ bản, giúp người dân tiếp cậncác dịchvụ cơ bản về giáo dục,ytế, nhà ở, nước sạch và thông tintruyền thông(Đào Quang Vinh,2017). Trợgiúp xãhội là mộttrong những nhómchính sách cụ thể, hướng tới nhữngđối tượng cụ thể hơn trong nhóm các đối tượng của chính sách xã hội nói chung nhằmđảm bảo ASXH. Đối tượngđượctrợ giúp xã hội là những người được gọi là “yếu thể”, có khó khăn trong đời sống kinh tế, về sức khỏe, hay những người không nơi nương tựa, người cô đơn, trẻ mồ côi, có những thiệtthòi trongcuộc sống.
Chính sách trợgiúp xãhội là sựđảmbảo của Nhànước, sựhồ trợ của cộng đồng về thu nhập và các điều kiện sống thiết yếu bằng các hình thức và biện pháp khác nhau đối với các thành viên trong xã hội khi họ rơi vào cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, yếu thế hoặc hẫng hụt trong cuộc sống mà bản thân họ không đủ khả năng tự lo được cuộc sống của bản thânvà gia đình ởmức tối thiểu (Nghị định 20/2021/NĐ-CP). Đối với NCT, trợgiúp xã hội hướng tới việc hồ trợ chonhóm NCT khó khăn hơn,nghèo, ờnhững vùngdân tộc miềnnúi... Trợ giúp xã hội có thểđược phân loạithành các nhóm chính sách: trợ giúp thường xuyên, chăm sóc xã hội và trợ giúp khẩncấp (đột xuất). Tuy nhiên, trợ giúp xã hội thườngxuyên cũng là một phần của hệ thống đảm bảo ansinh rộng lớn hơn, bao gồm bảo hiểm xã hội (BHXH) và trợ giúp Người có công (Bộ Lao động - Thươngbinh và Xã hội, UNDP, 2016).
Trong các văn kiện Đại hội Đảng các khóa, cụ thể là từ Nghị quyếtHội nghịlầnthứ năm, khóa XI củaĐảng(2012) “Một số vấn đềvề chính sáchxã hội giai đoạn 2012-2020”; Luật Người cao tuổi (2009); các Nghị định củaChính phủ (Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013, Nghịđịnh20/2021/NĐ-CP ngày 1/7/2021 Quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội); Quyết định 488/QĐ-TTg ngày 14/4/2017 của Thù tướng chính phủ Phê duyệtđềán “Đổi mới,phát triển trợgiúpxã hội giai đoạn 2017-2020 vàtầm nhìn 2030” cũng như các thông tưhướng dần cuaBộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế... cho thấy các lĩnh vực trợ giúp xã hội(TGXH) cho ngườicaotuổi bao gồm cáclĩnh vực sau:
về kinhtế: hỗ trợ NCTtrong đời sống kinh tế, đảm bảothu nhập; chính sách đối với người có công; trợcấp hàng tháng với những NCT đủ điều kiện theo quy định bảotrợ xã hội; hỗ trợđột xuấtkhi gặp rủi ro thiên tai hỏa hoạn...
về
ytế: NCT có thẻbảo hiểm ytế đượctrợ giúp sử dụng một sốdịch vụ, ưu tiên trong khám chừa bệnh, được lập hồ sơ theo dõi sứckhỏe tại cơ sở y tế được tuyên truyền kiến thức về chăm sóc sức khỏe; khám sức khỏe định kỳ...về
văn hóa - xã hội: các công trình công cộng được xâydựng có tính đến nhu cầu NCT; ưu tiên khi tham gia giao thông công cộng và giảm giá vé một số dịch vụ theo quy định vàcác hồtrợ kháctừ cộng đồng (bao gồm cả trợcấpđộtxuất); cácmôhình (cơ sở) hồtrợchămsócNCT...Ngoài ra, ngườicao tuổi còn cócơ hội nhậnsự trợ giúp xã hội từ cộngđồng, mồi địa phươngtùy theo cácđiều kiện kinh tế-xã hội khácnhau.
Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, trợ giúpxà hội cho NCT làsựhỗtrợ cùaNhà nước (thôngquachính sách)vàcủacộng đồng,xãhội giúpnhững nhóm NCT khó khăn đảm bảođược cuộc sống tốithiểu củabảnthân vàgia đình. Việc thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội của người caotuổichínhlàviệctiếp cận chính sách, thụhưởngnhững ưu đãi vềkinh tế,chăm sócsức khỏe, cácdịchvụxãhội và thông tin từ nhànước vàcộng đồng nơi sinh sống để đảmbảo cuộc sống.
3. Thụ hưởng chính sách trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi
Đánh giá tình hình thụ hưởng chính sách trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi
Theo đánh giá của Cục Bảo trợ xã hội (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)trong việc thực hiện chínhsách đối với NCT năm 2019, với chủ đề chung tay vìsức khỏe và hạnh phúccủa NCT,Bộđã phốihợp cácBộ ngành, hội,đoàn thể và các địaphương tích cực chỉ đạo,tô chức thực hiện tốt các chính sách, chếđộ, bảo đảm quyền và phát huyvai tròcủaNCTViệt Nam. Ngân sách Nhà nướcđãbố trí nguồn lực phù hợp, bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội, chi trả lươnghưu hàng tháng cho hơn3,1 triệu người;đạt 95% NCT có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT);
trợcấpxãhội hàng tháng chohơn 1,7 triệu NCT; cảnước có trên 106 bệnh việncấp trung ương và cấp tỉnh có khoa Lão khoa; gần 1.000 khoa khám bệnh có buồng khám riêng hoặc bốtríbànkhám riêng cho NCT;hơn 10.183 giường điều trị nộitrú ưutiên cho NCT, hơn 1,57 triệuNCTđược lập hồ sơ theo dõi sức khỏe (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, 2019).
Các nghiên cứu về mảng chính sáchchămsócNCT, chăng hạn như Lê Ngọc Lân (2010) đãphân tíchmột số chính sách trong chăm sóc và pháthuy vai ữò của NCT,nghiêncứucủaĐặngNguyênAnhvàTrịnhDuyLuân (2014) đã phân tích rà soát hệ thống chính sách trợ giúp với NCT cho thấy các nội dung chínhsách chủ yếumới tậptrung vào các chế độ trợcấp xã hội thườngxuyên cho NCT có hoàn
cảnhđặc biệt, khó khăn; một sốưuđãitrong các dịchvụkhám chữa bệnh, sử dụng phươngtiện giaothông công cộng; phí tham quan, hay cácthủ tục mangtínhnghi thức, độngviên NCT như chúc thọ, mừng thọ hoặc mai táng. Do vậy, trong tầm nhìn dài hạn, cần đổi mới các chính sách theo hướng đa dạng hóa các loại hình TGXH,nâng cao chấtlượng, hiệu quảvàđộbaophủ cácđốitượng NCT.
về hệ thống chăm sóc sức khòe, nghiên cứu củaĐặngNguyên Anh, Trịnh DuyLuân(2014) chorằngnhìnchung, hệ thốngchăm sóc NCT hiện naycòn nhiều bấtcập như: nhận thức về già hóa dân số và tácđộngtớiphát triển kinh, tế - xãhội còn hạn chế; nhiều cấp lãnh đạo chưa nhận thức đúng vấn đề; xãhội thay đổi cách nhìnnhậnđối vớingười già;bàn thân NCT không nhận thức được sự cần thiết phải chăm sóc,bảo vệbản thân; người dân ở nông thôn chưa quan tâmchuẩn bịcho tuổi già. Đời sống tinhthần củaNCT ở địa phưonghiện dựa vàocáchội (người caotuổi, bảothọ)với hoạt động nghèonànvà nguồn kinh phí eo hẹp.Đây là một vấnđềchưa được chúý trong những năm qua(Đặng Nguyên Anh,Trịnh Duy Luân, 2014).
Chămsóc NCT vàchinh sáchvềlĩnh vựcnày kháđược quantâm, chú trọng tronghệ thống chính sách NCThiện nay. Trịnh Duy Luân và Trần Thị Minh Thi (2017) cho rằng cùng với việc suy giâm vai trò cùa gia đình xã hội hiệnđại, một phầntráchnhiệmchăm sóc đốitượng nàyđang dần được chuyến sang cho khu vực công (nhànước) và thị trườngdịch vụ. Tuy vậy, bêncạnhtính đa dạng thì hệ thống chính sách đốivới NCT nước ta đang cóvấnđề ở tính khả thi trongthực hiện chính sách, dần xuất hiện nhiều khoảng ưống, bất cậpcầnđược xem xét ưong mối tương quan với nhu cầu, đòi hỏicủaNCT.
Cũng về chủ đề này, Giang Thanh Long và ĐỗThị Thu (2019) cho rằng, do chính sách an sinh xã hội vẫn còn những khoảng trống, tình trạngngười lao động rút khỏi hệthốngan sinh xã hội gia tăng trong thời giangầnđây khiến NCT mấtcơhội có lương hưukhi tới độ tuối quyđịnh. Mức độ camkết tham gia của người sử dụng lao độngvới chế độ hưu trí nói riêng hay chính sách BHXH nói chung của ViệtNam cònthấp; tuổi nghỉ hưu thấp nêntỷ lệ hưởng lương hưu ở mứctối đa caovà dài. Hiện nay, số người được hưởnglươnghưu mới cókhoảng gần 2,3 triệu; sổ tiềntuyệtđối đóng vào quỳ BHXH không cao do tiền lươnglàm căn cứ đóng BHXH chỉ chiếm khoảng 60% thu nhập thực tế (GiangThanh Long, ĐồThị Thu, 2019).
Năm2015, Bộ Laođộng - Thươngbinh và Xã hộiphối hợp vớiUNFPA đã khảo sát đánh giá 5 năm thực hiện Luật NCT,trên bình diện đánhgiá việc thực hiện bảo trợxã hội choNCT, báocáo chothấy chínhsách bảo trợxãhội đã có tác động tích cực, bảođảm đời sốngvật chất, tinh thần, thể hiện sự quan tâm của nhà nước đổivới NCT. Tuymức ượcấpcònthấp, chỉ bằng khoảng 38% chuẩn nghẻo ở nông thôn, nhưng khoản ượ cấp nàyđã góp phần cải thiện đời sống cho nhữngNCT đang
có hoàn cành sống khó khăn, chiếm khoảng 15% NCT hiệnsốngở Việt Nam.63,2%
đại diệnhộ gia đình tham gia khảo sát cho biết khoản trợcấp vừa manggiá trịvật chất vừa manggiá trị tinh thần. Khoảntrợ cấp đã phần nào góp phần giàm bớt đi những khó khăn trong cuộc sống thườngnhật của NCT tại các hộ gia đinh. 11,9%
NCT đánh giákhoảntrợcấpxãhội rấtcógiátrịvề mặt vật chất, còn honx/i số NCT đánh giá nó ít có giá trị về vậtchất nhưng có giá trị vềtinhthần (29,4%)hoặc vừa có giá trị về vật chất,vừa có giá trịvềtinh thần (27,0%). Kết quảnàycho thấy với bản thân NCT, trợcấp xã hội vẫn thực sự rất có ý nghĩa (Bộ Lao động - Thương binhvà Xã hội,UNFPA, 2016).
Hơn nữa, ở vùng miềnnúi, đồng bào các DTTS nói chung được tiếp cận và hưởng thụcác dịchvụ xã hội cơ bản ở mức rất thấp so với bình quân chung cả nước. Vùng đồng bào DTTS và miền núi đã và đang là “lõi nghèo của cả nước”, thu nhập bình quân của hộ đồng bàoDTTS ở nhiều nơi chỉ bằng 40-50%
bình quân thu nhập trong khu vực, tỷ lệ dân số DTTS chiếm 14,7% nhưng tỳ lệ hộ nghèo chiếm 55,27% tổng số hộ nghèo của cả nước. Hiện có 9 tĩnh có tỷ lệ hộ nghèo người DTTS chiếm trên 90%; 4tinh tỷ lệ hộ nghèo từ 70%-90% (Chính phủ, 2019).
về
các chính sách phát triển kinh tế - xãhội đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núiđã có 118chính sách được banhành, bao trùm tất cảcác lĩnh vựckinh tế- xã hội,môi trường,văn hóa... Những văn banpháp luật vàcác chính sách khá đồng bộ, toàn diện đã mang lại diện mạo mớicho vùng dân tộc thiểu số, cơbản đã thực hiện được chiến lược giảm nghèovà mang lại nhiềucơhội phát triển cho cácdân tộc thiểusố và vùng miền núi. Hiện nay, trongtổngsố 118 chính sách còn hiệulực, có 54 chính sách trựctiếp hồ trợphát triểnkinhtế - xã hội vùng DTTS và miền núi và 64 chính sách chung áp dụng chotoàn quốc nhưng đồng thời cũng đầu tư tiếp cho đồng bào vùng DTTS và miền núi (Nguyễn Hữu Minh, 2020).Thụ hưởng trợ giúp về kinh tế
Các nghiên cứuliênquanđếnđời sốngcủa NCT những nămqua đều cho thấy một kết quảkhá tương đồnglà hiện có dưới 50% số NCT cơbản đảmbảođược đời sống vật chất từ lao động củabảnthân hoặc chếđộ trợcấp/hưu trí củamình (chẳng hạnnhư Điều tra gia đình ViệtNam 2006; Điều ưa của ủy ban quốc gia NCT năm 2007...). Nhóm NCT còn lại phải nhờ cácnguồn hồượ khác từ gia đình và xã hội đểđảm bảo cuộc sống.
Một nghiên cứu từ 2010về chù đề nàyđã cho thấy, nhìnchung, tỷ lệbaophủ cua hệthống an sinh xã hội đối với NCT còn rất hạnchế vàchỉ tập trung vàomột số nhóm NCT. Giữa các nhómdân số thì thấynhữngnhóm dềtổn thương hơn(tuổi cao hơn,nghèo...) có tỷlệnhận ượ cấp xã hội tăng lên vàcao hơn cácnhóm khác.
Ngượclạivớitrợcấpxã hội, mức độ tiếp cậnvới chếđộhưu trí giữa các nhóm NCT cósự khácbiệtrõrệt,trongđó nhóm íttổn thương hon lạicótỷlệ hưởng hưu trí cao hon nhómdễ tổn thưong và điều nàyđượcduytrì theo thời gian. Vídụ, năm 2008, tỷ lệ NCTlà người Kinh vàngười dân tộc thiểu số hưởnglương hưu tươngứnglà 23,3%và 8%;ngườikhông nghèovà nghèo là 24,5% và4,8%; ngườithành thị và người nông thôn là37,5%và 16%.Thực trạng này là do hiện nay hệ thốnghưu trí chỉdành cho lao động khuvựcchínhthức (GiangThanhLong, 2010).
Điều traQuốc gia về NCT năm 2011 cho thấycó khoảng 39% NCTvẫn đang làm việc (tham gia các hoạtđộng kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp) với những công việc khác nhau (dân tộc Kinh khoảng 39,9%và các dân tộc kháckhoảng 33,1%).
vẫn cótới 60% NCTtrongnhómtuổi60-69 đang làm việc, nhưng tỷ lệ làm việc ở nhóm tuổi70-79 và80 trở lên giảm rấtnhanh. Điều này chothấy ởnhómtuổi càng cao, NCT có tỷlệphụ thuộc vàogiađìnhhoặc các khoảntrợcấpcủa nhà nước, sự hồtrợcủa cộng đồng càng lớn. Tuy vậy,trên thực tế nhóm NCT còn làm việc hoặc thu nhập từ lương hưu, trợ cấp thườngxuyêncó thể đảmbảo cuộc sổng chỉ chiếm tỷlệ thấp, hầu hết họ phải nhờ cậyvào sự trợ giúp của gia đình(HộiLiên hiệp Phụ nữViệt Nam, 2012).
Đánh giá chung về đời sốngkinh tếvà sự trợ giúp xã hội từ chính sách giai đoạn này, ILO và UNFPAcho rằng, ViệtNam đã đạt được những thành tựu đáng kểvề tăng trưởng kinhtếvàxóađói giảm nghèo trong hai thậpkỷgần đây. Có một sốyếu tố dẫnđếnthunhập thấp choNCT. Thứ nhất,những thay đổi về thành phần gia đình cũngnhư chuẩnmực xã hội khiến cho nhiềuNCT phải sống một mình.
Thứ hai, tuổithọ trung bình tăng đồng nghĩa với việc tiền tiết kiệmcủaNCTsẽhết trướckhi chết. Cuốicùng, các chínhsách của Chính phủvềđảm bảothu nhập cho NCT, đặcbiệtnhữngngười ở độtuổi từ 60đến79 tuổivẫnchưa đápứng đầyđủ.
Chỉdưới 100.000người,khoảng 1,3%tổngdânsố trong nhóm tuổi trên được hưởng trợ cấpxãhội hàngtháng (haycòngọilàlương hưu xã hội)trong năm 2012. Khoảng 70% sốngườitrongđộtuổi từ 60 đến 79không được nhậnhỗtrợthunhập từ Chính phủ đồngnghĩa vớiviệc họ phải phụ thuộc vào tiềntiết kiệm và giađình.Dothay đổivề xãhội vàcơcấu gia đình ởViệtNam, Chính phủ cóthể cầnphải điềuchỉnh lại chính sách hỗtrợ thu nhập cho những ngườiđộtuổi từ 60 đến 79 nhằmđảm bảo mộtSàn Ansinh Xã hộichoNCT (ILO, UNFPA,2014).
Cuộc sống NCT ở khu vực nông thôn, miền núigặp nhiều khó khănhơn.
NCT làngườidân tộckhác có tỷ lệ phụ thuộc vào con cháucao hơn ngườiKinh/
Hoa khoảng mười điểm phần trăm, 48,1% so với 38,3%. Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ NCT sống dựa vàocon cháu giữa khu vựcthành thị vàkhu vực nôngthôn. Tuy nhiên, NCT thành thịcó nguồn sốngbằng lươnghưu/ trợcấp xã hội nhiều hơnNCTnông thôn (35,6% so với 21,9%). NCTnông thôncó nguồn
sống bằng lao độngcủa bản thân cao hơn NCT thành thị (35,2% so với 17,5%) (Lê NgọcLân, Trần Quý Long, 2009).
Nghiên cứu của Cao Thị Lan Anhtại mộthuyện ởtỉnh Đắk Lắk cho thấy có 11,6% NCT cònkhảnănglaođộng, 24,8% đãsuygiảm mộtphần khả năng laođộng và 63,6% không còn khả năng lao động. Khả năng lao động cùa NCT suy giảm nhanhtheođộ tuổi, ở tuổi từ 60-69, khoảng 26,7% NCT còn khả năng lao động, đến tuổi 70-79giảm xuống còn 5% và từ80 tuổitrởlên thì toànbộ NCT trong mầu điều tra không còn khả năng lao động. Trên 80% sổ hộ gia đình NCT có mức kinh tế trung bình so với cộng đồng dân cư nơi cư trú; có 4% hộ cóNCT thuộc diện hộ nghèo và 10%thuộc diện hộ cậnnghèo; chỉ khoảng 2% hộ thuộc diện khátrở lên (Cao Thị Lan Anh, 2017). Như vậy, có thể thấy, đời sống kinhtế của NCT chủ yếu dựa vào thu nhập của bảnthân (bao gồmcả lương hưu) và sựhỗ trợ cua gia đình.
Những trợ giúp xã hội mới chỉđược nghiên cứu ởtỷlệvà mức độ NCT hưởng trợ cấpxãhộitheochính sáchcủanhànước mà còn ítđềcậpđếncác hình thứctrợ giúp xãhội khác từcộng đồng hoặc các địa phương.
Bảo hiếm y tế và tiếp cận các dịch vụ y tế
Ngoài chăm sóc sức khỏe NCT trong gia đình thì bảo hiểm y tế chính là hình thức hồ trợ nhân đạo “người khòe hồ trợ người yếu” trong chăm sóc sức khỏe. Người cao tuổi, ngoài mộttỷ lệ có thẻ bảo hiểm dạng “băt buộc” thì cũng thuộc một trong nhóm đối tượng chính sách xã hội được hồ trợ trongđời sống và chăm sóc sức khỏe.
Việt Nam là một ữongcác quốc gia có tốc độ giàhóa dân số nhanh nhất thế giới. Tổng dân số Việt Nam tại thời điềm 1/4/2009 là85,85 triệu người, trong khi tổng dân số tạithòi điểm 1/4/2019 là 96,21 triệu người. Trong đó, số lượng NCT năm 2009 và2019tươngứnglà7,45 triệu (chiếm 8,68% tổng dânsố)và 11,41 triệu (chiếm 11,86% tổng dânsố). Tính trung bình trong giaiđoạn 2009-2019, tống dân số tăng 1,14%/năm thì dân số caotuối tăng tới 4,35%/năm. Kết quả phân tích từ số liệuTông điều tradân số vànhà ở 2019 cho thấy ty lệNCT gặp khó khănở ítnhất mộtchức năng chiếm 35,73% (Tồng cục Thống kê, 2021). Dovậy, chăm sóc sức khỏe cho NCT dựa vào bảo hiểm y tế ngày càng được chú trọng. Tại Việt Nam, người caotuổi đang chiếmtrên 11% trong tổngsố đối tượng thamgiaBHYT, đây là nhóm đổi tượngđược nhà nước đặc biệt quan tâm chăm sóc sứckhỏe thông qua việc cấp thẻBHYT; tạođiềukiện dễ dàngtiếpcận với các dịch vụ khám,chừa bệnh BHYT. Hiện người cao tuổi đang tham gia BHYT gồm: người trên 60 tuổi, vần đang/từng làm việc tại các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp; ngườithuộchộ gia đình cận nghèo, hộgia đình nông lâm ngư diêm nghiệp có mức sống trung bình... tham gia BHYT theo nhóm đối tượnghộ gia đình;ngườituổi từ 80 tuổitrở lên được ngân
sách nhà nước cấp thẻ BHYT. Tại một số địa phương đã cấp ngân sách mua thẻ BHYT cho người caotuổi từ 75 đếndưới80tuổi (HoaQuỳnh, 2019).
Một nghiên cứu tại HàTĩnh và Quảng Ngãinăm 2016 cho biết,tại 2địabàn nghiên cứu,ngoàinhómhưu trí, cựuchiếnbinh được cấp thẻ bảohiểmytếtheochế độbảo hiểm xãhội thì mộtsốnhóm NCT khác cũngđược hưởng các chính sáchxã hộivề y tế. Tỷ lệ chung cho thấycó 90,2% NCT trong mẫu khảo sát cóbảo hiểm y tế(92,0%ở namvà 88,5% ở nữ caotuôi).Tỷlệngười được cấp thẻ theochếđộ hưu trí vàchính sách cao(53,2%trong mẫu) và 35% người mua thẻ mongchờ vàoviệc được hưởngcác dịchvụytếvàhồtrợ tài chính. Đẻ bùđắpnhững khó khănvề kinh tế choNCT, cácđịa phương cũngđã cân đối nguồnthu, hỗ trợ bằng các cách khác nhau (LêNgọc Lân, 2020).
Ở một nhóm NCTđặcthù hơn, trongcác hộ nghèo ởmiền núi, họ không có lươngvà sốngchủyếu dựa vàotrợcấp cũng như hoạt động nông nghiệp tự cung tự cấp. Vấn đề địa lý cũng là cản ưởcủa NCT tronghộ nghèo miềnnúi khi tiếp cận các chính sách vì hầu như họ đềuởnhữngbản làng vùng sâu vùng xa và sứckhỏe khôngđảmbảo để họ có thể di chuyểnđến các trụ sở chính quyền đểcập nhật thông tin thườngxuyên.Ngoài vấnđề sức khỏethìNCT trong hộ nghèo cũng có nhu cầu được sửa chữanhà ở vì khó khănvề kinh tế. Qua nghiên cứucủaĐặng Phương Liên (2018) cho thấy,NCT trong hộ nghèotại huyệnYên Minh (Hà Giang) có thu nhập chủyếu dựa vào trợ cấpvàlàm nông, chính vì vậythu nhập thường khôngđủđểchi trảcho nhucầu cuộc sống. Họ thường gặp vấn đề tâmlý lo lắng cho sức khỏe và cuộc sống (Đặng Phương Liên, 2018).
về một số hỗ trợ xã hội khác
Khi phân tích về các nguồn trợ cấp của NCT ở 2 tỉnh Ninh Bình và Tiền Giang, nghiên cứu của Trịnh DuyLuân và TrầnThị Minh Thi (2107) cho thấy: cỏ 27,8% NCTđược hỏi có nguồnthu nhập từ 4 loạitrợcấp xãhội(trợcấp cho người trên 80 tuổi, người có công vớicách mạng, thương binh và gia đinh liệt sỹ, trợcấp tai nạn lao động). Ngoài ra còn một số trợcấp khácnhư nạn nhân chấtđộc da cam, con làsỳ quan quân đội - khoảng2,9%. Tổngcộng khoảng 30,7% NCTđược hường các loạitrợcấp xã hội. Những con sốnày phảnánh vai trò vàsự đóng góp từ khu vực nhànước, cùa lĩnh vực ASXH và chínhsách xã hộitrong chăm sóc NCT, cho dù từ “chăm sóc”ởđâyđược dùngchỉvới nghĩa đơngiản nhất là“có một khoản trợ cấp khiêm tốnhàngtháng”. Như vậy, cũngcó nghĩa là cáckhoản trợcấpluônluôn chỉ là một phần bổsung,phụ thêmcho cuộc sốngcủa những NCT thuộc nhóm “mục tiêu”. Mặc dù vậy, như trên đãchỉ ra, có 58%NCT thuộc nhóm đối tượng chính sáchvà 66% NCTthuộc nhỏm NCTyếuthế - đánh giávaitròcủacác khoản trợcấp mà họ nhận được là “rất quan trọng” hoặc “quan trọng”đối với cuộc sống của họ hiện nay(TrịnhDuy Luân,Trần Thị Minh Thi, 2017).
Nghiên cứu của Cao Thị Lan Anh (2017) về NCT vùng Tây Nguyên năm 2016 chothấyở tỉnh Đắk Lắkcó 20.909NCTđược hưởngtrợcấpxã hộithường xuyên tạicộng đồng, trong đó 20.623 người từ đu 80 tuồi trởlên khôngcó lương hưu, trợ cấpbảohiểmxãhội hằng tháng trợ cấpxã hội hàng tháng, số NCTđang hươngtrợcấp người có công với sốlượng khá đông là 3.210 người.Tại Trung tâm bảo trợxãhội tỉnh đang chăm sóc,nuôidưỡng 22NCT. Nãm 2016,tỉnhĐắk Lắk có 515 NCT được hỗ trợ nhàởvàxóa 278 nhàở tạm bợ, dộtnátchoNCT. sốNCT đang hường lương hưu là 1.513 người; hưởng trợ cấp bảo hiểm xãhội hàngtháng là 1.092 người. Tại các điểm tham quan như di tíchlịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, bảo tàng... đã thực hiện giảm giá các dịch vụ đối với NCT với mức giảmgiá từ 20% đến 50%. NCT thamgia giao thông công cộng được nhân viên phục vụ hồ trợ và hướng dẫn ưu tiên chồ ngồi. Theo thốngkê ở tỉnhĐẳk Lak có 6 đơn vị kinh doanh dịch vụ vận tải hành khách đường bộ công cộng bằng xe buýt thực hiện giảm giá vé đối với NCT, số lượt NCT được giảm giá vé đường bộ là 60.000 lượt người, kinh phí thực hiện khoảng 900 triệuđồng. Từ thực tiễn việc thực hiện các chính sách chăm sóc NCT tại Đắk Lắk, tácgiả cho rằng,tại mộtsố địa phương, nhiềuNCT chưađượctiếp cận hoặc tiếp cận, thụ hưởng các chế độ liênquan chưađầy đủ, quyền lợi chưa được đảm bảo (CaoThị Lan Anh, 2017).
Với hỗ trợ xã hội khác trong lĩnh vực văn hóa, giải trí, kếtquả khảo sát đánh giá 5 năm thực hiện LuậtNCT cho thấy trong số NCT được khảo sát, một bộ phận đãđược hưởng các chính sách ưu tiên cho NCT về miễn giảmgiá vé, ưu tiên bố trí sắpxếp chồ ngồi khi tham gia phương tiện giao thông, tuynhiên tỷ lệ được hưởng trong các cụ còn khá khiêm tốn chi khoảng từ 7%đến hơn 30%
NCT đã nhận được chế độ miền giam giá vé và khoảng 1/3 NCT đã từng được ưu tiên sắp xếp chồ ngồi khi sử dụng các phương tiện giao thông công cộng.
Điêu đó cho thấy, cần có sựquan tâm hơnnữa trongviệc thực hiện chính sách, tạo cơ hội để NCTđược ưu tiênsửdụng các dịch vụ này (BộLao động -Thương binh và Xã hội,UNFPA,2016).
Theo số liệu thống kê, đã có hơn 112.276 lượt NCT được giảm giá vé đường bộ; 59.498 lượtNCT được giảm giá vé đường thủy; 653.864 lượt NCT được giảm giá vé đường sắt; 6.867 lượt NCT được giảm giá vé đường hàng không (BộLao động - Thương binh và Xã hội, 2019). Nhận xét vềviệc thực hiện một số chính sách ưu đãi với NCT (giamgiá vé, sắp xếp chồ ngồi) khi tham gia phương tiện giao thông công cộng vàgiảm giá dịch vụkhi đithamquandu lịch, Nguyễn Hà Đông (2020) cho rằng, ưu đãi giảm giá vé trên các phương tiện giao thôngcông cộng cho NCThiện nay chủ yếu chì mới tập trungở các doanhnghiệp vậntải nhà nước; việc được giảm giá các dịch vụ, vé tham quan du lịch... còn nhiều bất cập, thủ tục còn phức tạp. Nhiều người không muốn sử dụng ưu đãi
này vì họ thường đi cùng gia đình vàkhông phải là người giao dịch. Mặt khác, nhận thức của NCT về những quyền này còn hạn chế (Nguyễn Hà Đông, 2020).
4. Kết luận
Qua một số kết quả nghiên cứu liên quan đến việc thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội cho NCT thấy rằng, các nghiên cứu gần đây mới chủ yếu tập trung ở nhóm ngườiKinh, ở khu vực đồng bằng. Việc thụ hưởngcác chính sách trợ giúp xã hội được giới nghiêncứu quan tâm chủ yếu mớikhoanh vùng trong nhóm đối tượng bảo trợ xã hội, những người được nhận trợ cấp thường xuyên. Còn ítsự quan tâm đếnnhững khía cạnhtrợ giúp khác (đột xuất, từcộng đồng), các hồ trợtrong sửdụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe; hỗ trợ về nhà ở hay các dịch vụ công cộng.
Kết quả phântích cũng chothấy còn ítnghiêncứu vềNCT vùng miền núi, dân tộc thiểu số, nhấtlàkhu vực miền núi phía Bắc. Chính vì vậy, những thông tin thu thập từ việc rà soát hệ thống chính sách trợgiúp xã hội, củacộng đồng cho người cao tuồi vàviệc tiếp cận, thụ hưởngcủa họ ở các địa bàn vùng miền núiphía Bắc sẽgóp phần làmđầy đủ hơnbức tranh vềcuộc sống của NCT cũng nhưnhững vẩn đề thực tiễn đặt ra.
Tài liệu trích dẫn
Bộ Laođộng- Thươngbinh và Xãhội, UNDP. 2016. Tông quan vàđềxuấtđôi mới hệ thống trợ giúp xãhội ở ViệtNam.
BộLao động - Thương binh và Xã hội, UNFPA.2016. Báo cáo đánh giá5năm thựchiện Luật Ngườicao tuôi.
BộLao động - ThươngbinhvàXã hội. 2019. Chính sách bảo trợxãhội góp phầnđảm bảo ansinh xã hội. http://www.molisa.gov.vn/Pages/tintuc/chitiet.aspx7tintucIDA222186. Cao Thị Lan Anh. 2017. Vai trò của trợ cấp xã hội thương xuyên trong việc nâng
caochất lượng đời sống cho người cao tuổiở huyện Krông Năng, tỉnh Đẳk Lak.
Báo cáo Đề tài cấp Cơ sở, Viện Khoahọc xã hội vùng TâyNguyên.
Chính phù. 2019.Đềán tông thê pháttriển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu sovàmiền núi, vùng cao cỏ điều kiệnđặc biệt khó khăngiai đoạn2021-2030.
Chính phủ. Nghị định20/2021/NĐ-CP ngày 1/7/2021; Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 Quy định chínhsách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bào trợ xãhội.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, khóa XI (2012) về Chính sách xã hội.
Đặng Nguyên Anh, Trịnh Duy Luân. 2014. Báo cảo rà soát phântích hệthống chính sách trợ giúp xã hội đối vớingười cao tuôi hiện nay.
Đặng Phương Liên. 2018. Dịch vụ công tácxã hội trongchăm sócsức khỏe ngưòicao tuôi thuộc hộ nghèo - huyện Yên Minh, HàGiang.Luậnvăn thạcsỳ,HọcviệnKhoa học xã hội.
Đào QuangVinh. 2017. Ansinhxãhội ởViệt Nam: Những thànhtựu, tháchthức và định hướng phát triển, http://ilssa.org.vn/vi/news/an-sinh-xa-hoi-o-viet-nam-nhung-thanh -tuu-thach-thuc-va-dinh-huong-phat-trien-208.
Giang Thanh Long, Đồ Thị Thu. 2019. “Chính sách ansinh xã hội đổi vớixu hướng già hóa dân số ở Việt Nam”. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, No 2+3.
http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210245/Chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-doi-voi- gia-hoa-dan-so-o-Viet-Nam.html 14-8-2019.
Giang Thanh Long.2010. Towardan Aging Population: MappingtheReformProcessin thePublicDeliveryofSocialProtectionServicesin Vietnam.Background paperfor the 2010Vietnam Human Development report (VNHTS).Hanoi: VASS and UNDP.
GIZ, ILSSA.2011. Thuật ngữ an sinhxãhội.
Hoa Quỳnh. 2019. Bảo hiểm y tế: Diêm tựa sức khỏe cho người cao tuổi.
https ://tapchitaichinh. vn/bao-hiem/bao-hiem-y-te-diem-tua-ve-suc-khoe-cho-nguoi- cao-tuoi-306523.html ngày 4/5/2019.
HộiLiên hiệpPhụ nữ Việt Nam. 2012. Điều traquốc gia về ngườicao tuổi ViệtNam 2011-Các kết quả chủ yếu. Nxb. Phụ nữ.
ILO, UNFPA. 2014. Báo đảm thunhập cho người cao tuổiở Việt Nam: Lươnghưuxã hội. Hà Nội.
Lê NgọcLân, Trần QuýLong. 2009. "Báo cáo phân tích sốliệuđiều tra gia đình 2006:
Quan hệ giữa người cao tuôi và các thế hệ trong gia đình". ViệnGiađình và Giói.
Lê Ngọc Lân. 2010. Một số vấn đề cơbản vềngườicao tuổi Việt Nam - giai đoạn 2011-2020. Báo cáođề tài cấp Bộ, ViệnGiađình và Giới.
Lê Ngọc Lân. 2020. “Chămsóc sức khỏe người caotuổi và vai trò củabảo hiểmy tế”. TạpchíNghiên cứu Gia đình và Giới, số 1,tr. 16-28.
Nguyễn Hà Đông.2020. “Quyền được ưu tiên khi sử dụngmộtsốdịchvụ củangười cao môi”. Tạp chỉ Nghiên cứu Gia đình vàGiới, so 1, tr. 51-62.
Nguyễn Hữu Minh. 2020. Bảo cáo tong hợpđề tài cấp Nhà nước: Một số vấn đề cơ bản vềbình đănggiới vùng dân tộcthiêu so nước ta hiện nay.
Thu tướng Chính phủ. Quyết định 488/QĐ-TTg ngày 14/4/2017 Phê duyệt đề án Đổi mới, phát triển trợgiúp xãhộigiai đoạn2017-2020 vàtầm nhìn 2030.
Tông cục Thống kê. 2021. Già hóa dân số và người cao môitại Việt Nam. Hà Nội, 7/2021.
Trịnh Duy Luân, Trần Thị Minh Thi. 2017. Chăm sóc người cao tuổi trongxã hội Việt Nam đang chuyển đổi - Những chiều cạnh chính sách và cấu trúc. Nxb.
Khoa họcxã hội,Hà NỘI.