ĐÀO TẠO -BÓIDƯỠNG tff
NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
NguyễnBá Chiến *
Tóm tắt: Chúng tađang chứng kiến giáo dục đạihọc (GDĐH) trên thế giới cũngnhư ở trong nước đã và đang có những thayđổi không ngừng cả chiều rộng lẫnchiều sâu,từ môi trường giáo dục, vai trò của người dạy, người họcđến phương pháp dạy học. Sự thay đổi này nhâm đáp ứng nhu cầubổsung sựthiếu hụt laođộng trình độcao, cóchuyên mon, kỹ năng. Bài viết làmrõ những nội dung cơ bản vềsự thay đổicủaGDĐH trênthế giớicũng như quan điểm, giải pháp của Việt Nam về vấn đề này.
Từkhóa: đổimới giáo dục đại học, giáo dục đạihọc ViệtNam
Abstract: The higher education has been constantly changing internationally and nationally in both breadth and depth dimensions, ranging from the educational environment, teachers’/learners’rolesto teaching methods. These changesare to have more highly qualified and skilled workers. The article explains changes in the world’s higher educationas well as Vietnamssolutions to this issue.
Keywords:highereducationinnovation; Vietnamese highereducation
Ngàynhận bài: 14/4/2020 Ngàysửa bài:20/'5/2020 Ngày duyệt đăng: 10/6/2020
Hai thách thức chính mà GDĐH phải đối mặt là toàn cầuhóa và cách mạng kỹ thuật số. Toàn cầu hóa làm cho công tác tuyển sinh gặp khó khăn khi thị trường GDĐH rộngmở hơn, du họcđang trở nên phổ biến hơn. Sinh viên thích học ngôn ngữ mới, các nền văn hóa mới và cơ hội kếtbạn,giaolưuquốctế. Côngnghệgiáo dục từ truyền thốngsẽ chuyển sangtrực tuyến, do đó học phí sẽ giảm, thậm chí miễn phí,doanh thu từGDĐH có thểđến từ những nguồnkhác. Tương lai của mô hình học tập trực tuyến ngày càng phát
(,)PGS. TS, Trường Đại học Nội vụ HàNội
triển đểthay thế mô hìnhbàigiảngthông thường. Mộtsố khâu trong quá trình đào tạo sẽ được thay thế con người bằng trí tuệ nhân tạo. Cách mạng kỹ thuật số có thể loạibỏ khâutrung gian trong đào tạo đại học. Sự thay thế bằng đào tạo trực tuyến dẫn đến cách thức đánh giá khác nhau. Trong thời gian tới, người học sẽ lựachọn trường đại học như những người mua sắm thông thái hơn, cân nhắc các lựa chọnmàtrước đây chưa được xem xét khi quyết định họctrườngnàohoặc theo học loại bằng cấp nào. Vấn đê' chuyên môn
42 I Tạp chí Khoa học Nộivụ
\\\ ĐÀO TẠO-BÓIDƯỠNG
hóa và tự động hóa làm cho lượng lao động giảmvề số lượng nhưng tăng về chất lượng. Điều này làm chotính cạnh tranh trong GDĐH ngày càng khắc nghiệt.
1. Những thay đổicótlõicủa GDĐH trên thế giới
Việc làm của sinh viên quyết định việc lựa chọn trường đại học của họ, chứ không phải trường đại học tạo việc làm chosinh viên qua đào tạo. Do đó, trường đạihọc phải trang bị cho họ những gì họ có thểhọc suốt đời, cung cấpcho họ các kỹ năng, tính kỷ luật vàtư duykinhdoanh trong môi trường toàn cầu hóa. Dự đoán vê' bức tranh GDĐH trong tương lai, các nhà nghiên cứuđã chỉ ra rằng GDĐHsẽ có nhiều thay đổi vì bản chất của công việc đang thay đổi. GDĐH cần trang bị cho sinh viên các kỹ năng quan trọng để sau khi ra trường họ vận dụng những kỹnăng đó trong suốt sự nghiệp củahọ.
Tuy nhiên, do thực tiễn luồnthay đổi, kỹ năng của sinh viên do yêu cẩu công việc quy định. Điếu này dẫnđến sinh viênlựa chọn trường đại học để bù đắp kỹ năng củamình, tứchọ phải trả lời câu hỏi mình sẽ làm gì để đáp ứng yêu cầu công việc rồi mới xác định trường đại học. Để đối phó với vấn đê' này, các trường đạihọc cầnsử dụng đầy đủ vàtối ưu hóa cơ sở hạ tầng hiện có của họ, nênthiếtlập và mở rộng các chinhánhquốc tế quaquanhệđối tác địaphương [1].
Do yêu cầu của thị trường lao động ngày càng khắt khe nên các trường đại học đang gia tăng cạnh tranh để thu hút
và giữ chân sinh viên tốt nhất trên phạm vitoàn cầu. Những khuyến cáo từ các nhà nghiên cứu rằng,các trường đại học nên tận dụng mạng lưới cựu sinh viên, tham quan trường học quốc tế và đa dạng hóa thông qua hợp tácđể củng cố thương hiệu của họ vàtốiưu hóa phần bổ nguồn lực, cũng như tận dụng các vị trí có sức mạnh tươngđối [5].
Để tuyểnvà giữ chân sinh viên tốtnhất, các trường đại học cần đánh giá lại cách họ cung cấp dịch vụ đào tạo để người học trải nghiệm cuộc sống thực tếgắnvới môi trường làm việc để chuẩn bị cho sinh viên có những kiến thức, kỹ năng cần thiết giúp họ có sự năng động,nhạy bén,thích ứng và hạn chế sự hụt hẫngtrong tương lai. Điềuđó có nghĩa là, cáctrường đại học phảinắm lấy“sự bềnvững” và “giữgìn sức khỏe” như là thành phần chính của cuộc sống trong khuôn viêntrường [2]. Để duy trìbền vữngvề tài chính, các trường đại học phải cung cấp hiệu quả các dịch vụ cho ngành công nghiệp, bao gồm tư vấn và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng qua các chương trình giảng dạy đồng phát triển. Trường đại học phải xem xét tận dụng các mô hìnhtài chínhsáng tạo như quan hệđối tác công tư và đầu tư vốn cổ phẩn tư nhân. Để có nguồn tài chính bảo đảm mọi hoạt động của trường đại học hiệu quả, các nhà quảntrị GDĐH cần có tư duykinh doanh mạnh mẽ, các quy trình có cấutrúc. Sự gắn kết giữa trường đại học với các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng bểnchặtlà yêu cầu cấp thiết hơn baogiờ hết [1].
Tạp chí Khoa họcNội vụI 43
ĐÀO TẠO -BÓI DƯỠNG ỄfỄ
Bảng 1.Kếtquả khảo sát của AGB vềkỳ vọng nộidungGDĐH Nguồn:The AGB 2020 Trustee Index
Skills and abilities: Kỹ năng và năng lực Occupational background: Nền tảng nghê' nghiệp
Race: Chủngtộc Gender: Giới tính
Political perspectives: Quan điểm chính trị Very important (public): Rấtquantrọng (khu vựccông)
Veryimportant (privatenonprofit): Rất quan trọng (khuvực tư phi chính phủ) Kinh phí nghiên cứu ngày càng bị lệch
vê' phía các trường đại học hàng đầu. Để duy trì tính cạnh tranh và tối đahóa hiệu suất tổng thể, các trường đại học nên chuyên môn hóa sâu trong nghiên cứu và giảng dạy, tức là cho phép một số nhân viêntậptrung vào nghiên cứu hoặc giảng dạy,tùy thuộc vào thếmạnhcụ thể củahọ.
Môi trường họctập số hóa đang trở thành tiêu chuẩn. Để tối đa hóa hiệu quả liên quan đến công nghệ, các trường đại học phải hiểu được sự đổi mới trong giáo dục và có chiến lược để đáp ứng tốt nhất các xuhướngkỹ thuật số mới nhất với vaitrò tiềm năng trong giáo dục. Cơ sở hạ tầng thông tin và hệ thống phương tiện phục
vụ đào tạo, nghiên cứu nên được thiết lậpthôngqua quan hệđốitác với các nhà cung cấp có uytín đểđảm bảo an ninhdữ liệu và tính bềnvững [6].
Học tập kết hợp đang trở thành phương pháp đào tạo chính trong các trường đại học. Điển hình như phương pháp đàotạo từ xa (MOOCs). Những phương pháp này tập trung vào sinh viên, cung cấp trảinghiệm họctập cá nhân hóa vàthích ứng và nâng caohiệu quả chiphí của các chương trình lớn. Các trường đại học đang hợp tácnhiều hơn nhưngngày càng chọn lọc. Sự hợp tácmới đượcxây dựng từdướilêntốtnhấtthông qua sựcộngtác 44 I Tạp chí Khoa họcNội vụ
\\\ ĐÀO TẠO - BÓI DƯỠNG
của nhân viên, sauđódẩn dẩn đượclàm sầu sắc hơn bởi sự hỗ trợ chính thức.Các trường đại học nên tìm kiếmcác đối tác đã được xếp hạngtốt hơn, làm việctrong các lĩnh vực có sức mạnh bổ sung.
Một cuộc khảo sát của AGB (The Association of Governing Boards of Universities and Colleges) cho thấy, doanh ngiệp này càng đòi hỏi cao về kỹ năng (skill) và khả năng (abilities) ngày càng quan trọng (Bảng 1). Những kiến thức nghề nghiệp không còn được chú trọng như giáodục truyền thống.
Internet sẽ đóng vai trò lớnhơn trong đào tạo đại học: Internet đang ngày càng trở thành một công cụ đào tạo cho các trường cao đẳngvà đại học trên thế giới.
Khi internet ngày càng đóng vai trò lớn hơn trongcáchhọc đạihọc, các trườngđại học sẽ duy trì sự kết nối chặt chẽ giữa tài nguyênhọctập trực tuyến của các trường đạihọc trên thế giới với các cơ sởvậtchất của họ. Nhờ internet mà các trường đại học tạora các chương trinh đàotạo phản ánh đúng cách mọi người có cơ hội học tập như nhau. Internet làm cho lĩnh vực GDĐH xuấthiện khái niệm “học hỏi xã hội” trong đó,kiến thứcluôn được chuyển từ người này sang người khác một cách nhanh chóngtrong không gian mạng.
Trí tuệ nhân tạo sẽ đóng vai trò cải thiện nội dung học tập khi càng nhiều người sử dụng nó,tứclà thuật toán sẽ loại bỏ những gìngười họckhônghoặc ít lựa chọn ra khỏi chương trình. Phòng học trên mạng sẽ được mô phỏng theo hình
thức“đồnghọc” tương tự như không gian làm việc chung. Không nhữngthế, trí tuệ nhântạo sẽ đảm nhậnvaitrò trợ lýgiảng dạy ảođược xây dựngtrên nền tảng công nghệ để giúp sinh viên vượt qua những rào cản họ gặp phải trong các khóa học lớn hoặc trực tuyến. Các trường đại học đang làm những việc tiếp theo để phát triển gia sư ảo, có thể khả thi trong hai đếnnămnăm [7].
Cách thức lên kế hoạch học tập và phương thức trả học phí có nhiều thay đổi. Thayvìthi vào đại họcvà đóng một khoản phí hàng tháng, người học có thể tham giabấtkỳ khóa học nào họ cónhu cầu, với quyểntruy cập dài hạn để được tưvấnvàgiúpđỡnghê'nghiệp. Sinh viên sẽ có quyền truy cập vàomột mạng lưới cố vấn trên toàn thế giới vàbất cứ điểu gì aiđócần làm để cải thiện tình hình nghê' nghiệp của họ,hoặc có được một kỹnăng mới hoặcnhậnphản hồi vê' cách mọi thứ đang diễn ra. Kết quả học tập của sinh viên sẽ không đóng khung trong bảng điểm cố định do một trường đại học cụ thể cấp mà được thay thế bằng bảng điểm mở, bảng điểm học tập suốt đời.
Các trường đại học Mỹ, cao đẳng và các chươngtrình đào tạolực lượng lao động hiện đang cấp ít nhất 738.428 chứng chỉ độcđáotheo kiểu này [2].
Trường đạihọc sẽ cótrách nhiệm hơn với sinh viên của mình trước và sau tốt nghiệp. Nói như vậy có nghĩa là, trường đạihọc phải có trách nhiệmlà tăng sự hài lòng củangườihọc cả trong vàsaukhi tốt nghiệp, vì sựhàilònglànhântố sống còn Tạp chí Khoa học Nội vụI 45
ĐÀO TẠO - BÓI DƯỠNG t/Ễ
của trường đại học. Ở nhiều nước phát triển (Mỹ, Anh, Australia, Nhật Bản...) và nhiều nước trong khu vực ASEAN (Thái lan,Malaysia,Philipine,...) hệ thống GDĐH trở thành một ngành dịch vụ tri thức cao cấp, góp phần đáng kể vào thu nhập quốc dân của quốc gia thông qua các hoạt động dịch vụ đào tạo và khoa học và công nghệ. Họ xem sự hài lòng là nhân tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh GDĐH trên phạm vitoàn cầu. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, sự hài lòng của sinh viên là nhân tố biểu hiện chấtlượngđàotạo của trườngđại học.Sự hài lòng của sinh viên tăng lên khi chất lượng nghiên cứu tăng, tài chính và thời gian họctập ngắn. Đểcải thiệnchất lượng của sinh viên tốt nghiệp, các trường đại học cần xem xét nhu cầu hài lòng của sinh viên. Dựatrên lýthuyếtvể sự hàilòngcủa người tiêu dùng, coi sự hài lòng của sinh viên là một chức năng của mức độ mong đợi của sinh viên về trường đạihọc được đáp ứng với những xác nhận tích cực vê' những kỳ vọng dẫn đến mức độ hàilòng cao hơn.
Trách nhiệm của trường đại học đối với sinh viên còn xuất phát từ nhu cầu gắn kết giữa họ với doanh nghiệp. Trong nhiễuthập kỷ, các trường đại học đã tập trung vào việc đào tạoranhữngsinh viên tốt nghiệp là những cá nhân toàn diện.
Nhưng thực tế đã không đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Điều đó đã thúcđẩy các nhàtuyển dụng dành tiền để tự đào tạonhânviênmới của họ - hoặc tìmkiếm nhóm sinh viên tốt nghiệp đại học để bổ sung vào nhómnhữngngườilao động có
46 I Tạp chíKhoa học Nộivụ
trình độ. Thực tế này đòi hỏi các trường đại học sẽ có trách nhiệm hơn với những gì họ đang dạy sinh viên. Sẽ có sự hợp tác lớn hơn với các tập đoàn để đảmbảo sinh viên có được các kỹ năng chính xác cho các côngviệc theo yêu cầu. Một cuộc khảo sát ở Hoa Kỳgần đầy cho thấy, chỉ có khoảng 11% nhà tuyển dụng nghĩ rằng GDĐH đang làm tốtcôngviệc của mình.
Ngày càng có nhiều công ty khởi nghiệp nổi lên để tham gia đào tạo kỹ năng cho sinh viên nhằm thu hẹpkhoảngcáchgiữa những gì nhà tuyển dụng muốn từ sinh viêntốt nghiệp [2].
Chăm lo đến sinh viên cũng là cách mà trường đại học giữ chân người học.
GDĐH hiện đang chứng kiến thực tế ngườihọc thay vì theo học tại một trường đạihọcduy nhất,họcóthể tích lũytínchỉ theo nhiều cách, bao gồm từ các chương trình đại học/bằng kép, cao đẳng cộng đồng, nhà cung cấp trực tuyến và nhiều trường đại học. Các sinh viên tham gia các khóa học trực tuyến và làm suy yếu chương trình giảng dạy truyềnthống. Do đó, các trường đạihọc phải trở nên nhanh nhẹn, cótinh thẩn kinh doanh, tập trung vào sinh viên và có trách nhiệm với những gì sinh viênhọc.
Trước tác động của khoa học, công nghệ, đặcbiệt là trí tuệ nhân tạo, ngoại trừ toán học thuần túy và một số khía cạnh của triết học, sẽ không còn aicó thểtìm kiếm, sao lưu và sau đó thao túng kiến thức trong bất kỳ lĩnh vực nào. Ngay cả trong phê bình văn học và khoa học xã hội, kho tài liệu để tìm kiếm không còn
\\\ ĐÀO TẠO - BÔI DƯỠNG
có thể được thực hiện bằng tay. Chính khoa họckỹ thuật làm cho thế giớichúng tađang sống phứctạpvàngàycàng phức tạp hơn.Các giaodịchkinh tếxã hộicủa một thế giớitoàn cầu hóa cực tinh vi,chỉ bằng một cúclick chuột, hàng tỷđô la di chuyển khắp hành tinh với tốc độ ánh sáng. Mạng lưới các giao dịch được kết nối làrất lớn,hiệuứngxử lýhànhđộng và sựtươngtáccủanó với các hiệuứngkhác rất khó dự đoán. Phương pháp dạy học đại học truyền thống dạy cho sinh viên kỷ luật để chịu đựng và làm chủ cácnhiệm vụ họctập nhàm chánvàlặp đi lặplại những gì được môtảtronggiáo trình sớmmuộn cũng bị khai tử để nhường chỗ cho việc sửa đổi giáo trình,phương pháp dạy học nhấn mạnh các kỹ năng cơ bản, giải quyết vấn đê'vàhọc để thựchành [3].Giảng viên phải được đào tạo tốt hơn nhiều để trở thành những người hỗ trợ, những người sẽ khuyến khích sinh viên nhận ra niềm vui vê' những khám phá trong bài giảng và có thể sử dụng các phương pháp giảng dạy cho phép mỗi cánhân thay đổi năng lựchọctập củariênghọ. Các nhà nghiên cứucho rằng hệthống GDĐH tương laisẽ chứng kiến sự bùng nổ về nộidung, vượt quá khả năng tưởng tượng của chúng ta hôm nay.
Hiện naychúngtalànhữngngườitìm kiếm thôngtin, tri thức chứ chẳngcó ai mangđến cho chúngta. Kiếnthức và biểu hiện văn hóa là một hành trình chứ không phải là một đích đến như quan điểm GDĐH trước đây. Trường đạihọc sẽlà nơi
thay đổi trong xã hội, nơi nhữngngười trẻ học cách trở thành người lớn, và là nơi những người phụ thuộctrở thànhnhững công dân độc lập và tích cực. Trường đại học từ việc chuẩn bị cho người trẻ tuổi những kiếnthức và kỹ năng cần thiết để tham gia thị trường việclàm. Thị trường này sẽ thay đổinhanhchóng,tácđộngrất lớn đếnviệc nghiên cứu vàđổimớitrong mộtxã hội. Nhiều chức năng truyền thống của trườngđại học, như tìmkiếm tri thức mớithông qua nghiên cứu và phổ biến nó, bảo vệ các giá trị, chuẩnbịkiến thức và kỹ năng của sinh viên để giúp họ bước vào đời. Chức năng mới của GDĐH là giúp từng cá nhân theo đuổi các lựa chọn của họ đối với tam giáckhoa học, công nghệ vàđổimới(STI).Do đó, GDĐH sẽ không chỉ làmột giai đoạn trong cuộc sốngcủa mọi người, màlà sự hiệndiện lâudài trong cộng đồng xã hội củachúngta.
2. Quan điểm và giải pháp đổi mới GDĐH Việt Nam hiệnnay
Thứ nhắt, cần đẩy mạnh hơn nữa xã hội hóa GDĐH để thu hút tối đa mọi nguồn lực trong xã hội, giảm gánh nặng đầu tư công. Điểu này thể hiện trongcác chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội X củaĐảngchỉ rõ: “Đẩy mạnhxã hội hoágiáodục và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại quy hoạch mạng lưới các trường đại học... Điểu 1 Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ ghi rõ: xã hội hoá hoạt động giáo dục là vận động và tổ chức sự thamgia rộng rãi của nhân dân,của toàn
Tạp chí Khoa học Nội vụI 47
ĐÀOTẠO - BÓI DƯỠNG Ĩ/Ễ
xãhội vào sựphát triển sự nghiệp giáo dục nhằmtừng bước nângcao mức hưởng thụ về giáodụctrong sự pháttriển vê' vậtchất và tinh thẩn củanhân dân. Sau thờigian đó, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng,vídụnhư Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xãhội hóa trong lĩnh vực giáo dục, y tế... vàNghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổsung mộtsố điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP. Khoản 4 Điều 12 Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi bổ sung năm 2018) quy định: Thực hiện xã hội hóa GDĐH, khuyến khíchphát triển cơ sởGDĐH tư thục; ưu tiên cơ sởGDĐH tưthụchoạt động không vìlợi nhuận; có chính sách ưu đãi đối vớitổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào hoạt động giáo dụcvà đào tạo, khoahọcvàcôngnghệ tại cơ sở GDĐH; có chính sách miễn, giảm thuếđối vớitài sản hiến tặng, hỗtrợcho GDĐH, cấp học bổngvà thamgiachương trình tín dụng sinh viên. Xã hội hoágiáo dục không có nghĩalà buông lỏng sựquản lý thốngnhất của Nhà nước vê' giáo dục màtráilại vai trò quản lý, định hướng,chỉ huy, điểu hành,kiểmtra,giám sát của nhà nước được tăng cường. Nguyên tắc can thiệp vào hoạtđộng cụ thể của nhà trường được thay thếbằng luật hóa các nguyên tắc quản lý. Tính rõ ràng, minh bạch để các cơ sở đàotạo hoạt động có hiệu quả, đảm bảo chất lượng đào tạocũngnhưthu hút mọi nguồn lực xã hội tốt hơn. Làm như vậy mới mở rộng dân chủ, khuyến khích, động viên việc nâng cao tinhthẩn tự quản, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạođạihọc.
Thứ hai, cầnthực hiện triệtđể các giải pháp cốt lõi để đưa GDĐH Việt Nam nhanh nganh tầm với các nướctrongkhu vực và quốc tế. GDĐH ở ViệtNam hiện nay có 3 tồn lại lớn. Đó là: chất lượng nguồn nhân lựcthamgia đào tạo đạihọc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn;
khả năng nghiên cứu và công bố các kết quả nghiên cứu cònkhiêm tốn; tài chính của các trườngđạihọc chưa mạnh. Đánh giá vê' chất lượng GDĐH, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và ĐàotạoPhùngXuânNhạ cho rằng: “Chất lượng đào tạo thấp vàmứcđộ phù hợp chưa đạt yêucầu; sốlượngnghiên cứu và hợp tác nghiên cứu quốc tế dù đã có cải thiện nhưngvẫn còn bịbỏ khá xa so vớicác nước láng giềng, như Singapore, Thái Lan và Malaysia; các hoạt động đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ giữa nhà trường và doanh nghiệp chưa thực sựhiệuquả”[10]. Theo người viếtbài này, nếu giải quyết được bài toán vê' chất lượng của đội ngũ tham gia đào tạo đại họcthì cơbản sẽ nâng cao nănglực nghiên cứu khoa học, đổi mới phương pháp dạy học, thu hút đầu tư tài chính từ các nguồn lực xãhội, tăng khả năng cạnh tranh của GDĐH Việt Nam trong khu cực và quốc tế. Để giải quyết bài toán này, trước hết cần xây dựng triếtlýGDĐH chung, đồng thời mỗi trường đại học, mỗi cơ sở giáo dục cũng cần cótriết lýgiáodụcriêng phù hợp vớitôn chỉ, mục đích và hướng tới hội nhập vàodòng chảy pháttriển chung của giáo dục quốc tế. Khoản 7 Điều 12 Luật giáodục đạihọc năm 2012 quy định chính sách quan trọng của GDĐH Việt Nam là hu hút, sử dụng và đãi ngộ thích hợp để 48 I Tạp chíKhoa học Nội vụ
v\\
ĐÀO TẠO - BÓI DƯỠNGnâng cao chấtlượnggiảng viên; chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, giáo sưđầu ngành trong cơ sở GDĐH. Quy định nàymang tính độtphá để giải bài toán về nhànlựctham gia đào tạođạihọc hiện nay.
Thứ ba, thực hiện triệt để nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, hiệu quả trong đầu tư công đối với GDĐH. ViệtNamlà quốc gia có mức đầu tư công cho GDĐH thấp nhất thế giới (chỉ chiếm 0,33%GDP) [10]. Theo Nghịđịnh số 16/2015/NĐ-CP, nguồn tài chính của các trường đại học cônglập vàcách thứchuy độngcủatừng nguồn hiện nay là: (i) Nguồn ngần sách nhà nước cấp; (ii)Nguồn thutừ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công; (iii) Nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định; (iv) Nguồn thukhác theo quy định của pháp luật; (v) Nguồn tài chính có từnhững giao dịch tài chính của các trườngđạihọccông lập theo quy định của pháp luật (vốnvay, vốn huy động, lãi tiền gửi ngân hàng...); (vi) Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật;
(vii) Nguồnhỗ trợtài chính cho sinh viên.
Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, ngân sách nhà nước đầu tư cho các trường đại học công lập còn theo nguyên tắc bình quân, càobằng. Để khắc phục tình trạng này, Khoản 2 Điều 12 Luật Giáo dục đại học năm 2012(sửa đổi, bổ sung năm 2018) quyđịnh:Phân bổngân sách vànguồn lực cho GDĐH theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng,hiệuquả thông quachiđầu tư, nghiên cứu phát triển, đặt hàng nghiên cứuvà đào tạo, học bổng, tín dụng sinh
viên và hình thức khác. Ưu tiên, ưu đãi vê' đất đai, thuế, tín dụng và chính sách khác để phát triển GDĐH.Thực hiện triệt để nguyên tắc quy định trong Khoản 2 Điểu 12 Luật Giáo dục đại học năm2012 (sửa đổi, bổ sungnăm 2018) là điều kiện quan trọng, tiên quyết để buộc các trường đạihọc, các cơ sởGDĐHphải tự chuyển mình nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư công.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế trong GDĐH để kếthừa có chọnlọc triết lý, phương pháp, công nghệ GDĐH tiên tiến để dần dần phá vỡ tư duyđộcquyền, cứng nhắc trong GDĐH, từng bước tạo lợi thế cạnh tranh và đứng vững trong trong thị trườngGDĐH khu vực và quốc tế. Để làm được việc này, trước hết, cần hợp tácquốctế để đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nội dung chương trình và phương pháp dạy học. Thực tế cho thấy sự lạchậu của nội dung GDĐHở Việt Namlà“công nghệ tiến nhanhnhưchớp,giáotrình lớp ngớptheo sau”.Đó là ví von củanhiều chủ doanh nghiệp khi nói vê' giáo trình đào tạo của các trường đại học hiện nay [9].
Khoản 3 Điểu 12 Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định ưu tiên đầutư phát triểnmột số cơ sở GDĐH, ngành đào tạo mang tầm khuvực,quốc tếvà cơsởđào tạo giáoviên chất lượng cao; phát triển một số ngành đặc thù, cơ sở GDĐH có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ chiến lược quốc gia, nhiệm vụ phát triển vùng của đất nước.
Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để các trường đại học tự mình tự Tạp chí Khoa họcNộivụI 49
ĐÀOTẠO-BÓIDƯỠNG ĨỄĨ
đổi mới chính mình nhằm tích lũy điểm thu hút các khoản đầu tư công có sự ưu tiên của Nhà nước.
Thử sáu, các trường đại học xem ưu tiên đẩutư cơ sở hạ tầng côngnghệthông tin là khâu đột phá nhằm thích ứng với phương pháp, công nghệ GDĐH tương lại. Trongsuốt lịch sử của mình, GDĐH đã thử nghiệm những tiến bộ công nghệ đa dạng như bảng đen và máy tính cá nhân. Theo các nhà nghiên cứu, kể từ năm 1994, tài nguyên học tập phụ thuộc ngày càng nhiều vào e-mail, Internet, trang web và cáclớp học mô phỏng máy tính. Công nghệ thông tin có tiềm năng cách mạng hóa quá trình dạy và học truyền thống. Nó có thể loại bỏ các rào cản đối với giáodục áp đặt bởi không gian và thời gian và mở rộng đáng kểkhảnăng tiếpcận họctập suốt đời.Về cơ bản, công nghệthông tin có khả năng thayđổi một tổ chức GDĐH. Không còn là một tổ chức GDĐH nhất thiết phải là một nơi có các lớp học cố định, sinh viên ở trong ký túc xá. Máy tính và viễn thông lànhững công nghệ chính định hình lại GDĐH.Cácmô phỏng và chương trình học được phát triển nền tảng công nghệ thôngtin đang làm thay đổi hoạt động hàng ngày vàmở rộng nhiệm vụ của các trường cao đẳng và đạihọc [6].
Thứ bảy, thiết lập và gắn kết quan hệ giữa trường đại học với doanh nghiệp là đòi hỏi cấp thiết. Ngay nay, việc làm của người lao động quyết định nội dung chương trình và ngành nghề đào tạo đại học chứ không phải GDĐH quyết định
ngành nghê' của người lao động. Thực tế khoa học kỹthuậtđã làm cho nhu cầu ngày càng tăng đối vớicác cơ hội học tập suốt đờicủa người laođộng để giúp họ theo kịp các thay đổi kinh tế - xã hội.Hiện nay các trường đại học chạy đua công nghệ được ví như “cuộcchạy đua vũ trang”. Để làm được việc này, các trườngđạihọcsửdụng nguồn lựctừ sinh viên, giảng viênvànhà tài trợ là các doanh nghiệp nơi cựu sinh viên làm việc. Nguồn lực của trường đại học có hạn, trong khinguồn lựcxãhộilà vô hạn. Quanhệvềlợiích của trường đại học và doanh nghiệp là lợi ích chéo. Khi công nghệ đã trở thành một khoản đầutư thiết yếu và định kỳ, hầu hết các trường phải tìmthêmnguồnvốn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng củahọ.Sự hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp là giải pháp để giảibàitoánhócbúa này. Với vai tròlà trung tâmkhoahọcvàđào tạo, mỗi trường đại học đều cố gắng thực hiệntốt ba nhiệm vụ chính của mình là đào tạo được các thế hệhọc viên giỏi đáp ứng nhu cầu xã hội; nghiên cứu phát triển khoa học theo kịp các hướng nghiên cứu tiền tiến của thế giới; ứng dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ vào công cuộc dựngxâyđất nước.
Banhiệm vụ trên gắn kết với nhau và hỗ trợcho nhau. Đây cũnglà ba tiêu chí để đánh giá xếp loại các trường đạihọc trong xu thế phát triển và hội nhập. Nghị định số 115 ngày 05/9/2005 về Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ trao quyển tự chủ cho các đơn vị khoahọc côngnghệ. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc gắn kếtgiữa trường đạihọc với doanh nghiệp.
50 Tạp chíKhoa học Nộivụ
\\\ ĐÀO TẠO-BÓIDƯỠNG
Các trường đạihọc chủ động liên kếtvới các doanh nghiệp hoặc thành lập doanh nghiệpđể chuyển giao tri thức, ứng dụng khoa học công nghệ. Khoản 6 Điều 12 Luật Giáo dụcđạihọc năm 2012 (sửa đổi bổ sung năm 2018) quy định: Gắn đào tạovới nhucầu sử dụng lao động củathị trường, nghiên cứu triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở GDĐH với doanh nghiệp, tổ chứckhoa học và công nghệ; có chính sách ưu đãi vể thuế cho các sản phẩm khoa học và công nghệ của cơ sở GDĐH; khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệptiếp nhận,tạo điểu kiện đểngười họcvà giảng viên thực hành, thựctập, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Trên đầy là cơ sở pháp lý quan trọng để cáctrường đại học Việt Nam thực hiệntốtnộidung này.
Thứ tám, cần chú trọng tính độc đáo, cánhân hóa và tính tương táctrongquản lý GDĐH. Công nghệ giúp thúc đẩy học tập hợp tác, nó cũng giúp cá nhân hóa và cá nhân hóa giáo dục. Công nghệ làm cho phương pháp GDĐH giảm cung cấp lượng thông tin khổng lổ cho nhiều sinh viên cùng lúc mà hướng vào giải phóng khả năngcủa từng sinh viên cụthể. Nội dung và kịch bản giảng dạy được điều chỉnh để phù hợp hơn với sởthích và nhu cầu của sinh viên trong lớp. Việc cungcấp thông tin đang chuyển dần sang cho dữ liệu lớn. Matthew Hickey, một nhà nghiên cứu bảo mật và là người đổng sáng lập công tybảo mật mạng Hacker House tai Mỹ cho rằng,GDĐHquatrung gian công nghệ làm cho lịchhọcvàcấu trúc chương
trìnhgiảng dạy cứngnhắc trở nên lỗi thời vì nó có thể thíchứng giáo dụcrấttốtvới sở thích và nhu cầu học tập cá nhân.Công nghệ đangtraoquyển cho người họckiểm soát giáo dục của họ nhiều hơn bao giờ hết [6]. Khicôngnghệbiếnđổithị trường giáo dục, cán cân quyền lực đang chuyển từ trường đại học sang người tiêu dùng GDĐH. Ngườitiêu dùng GDĐH giờđầy được tự do lựachọnvàlựa chọn, từnhiều nguồnkhácnhau, có nhiều các cơ hộihọc tập đáp ứngmục tiêu của họ. Thực tế này đòi hỏithay đổi phương pháp quản lý và đánh giá GDĐH.
Thứ chín,đẩymạnh thực hiện quyển tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học. Điểu 13 Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi bổ sung năm 2018) quy định trường đại học được tự chủ vê' học thuật và hoạtđộngchuyên môn; về tổ chức bộ máy và nhân sự; vể tài chính và tài sản. Vềtráchnhiệmgiảitrình, Điểu 12 của Luật nàycũng quy định cơ sở GDĐH thực hiện đầy đủ các quy định, yêu cầu về chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất của chủ sở hữu và cơ quan quảnlý nhà nước có thẩm quyển; chịu trách nhiệm trước người học, chủ sở hữu, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và các bên liên quan về việc bảo đảm chất lượng đào tạo theo quy định của pháp luật, quy định nội bộ vàcamkết của cơ sở GDĐH.Nhưvậy, GDĐH Việt Namđã đủ cơ sở pháp lýđể trường đại học có trách nhiệm giải trình đối với ngườihọc,xã hội, cơ quan quảnlý vê' cam kết chất lượng, côngkhaichỉsố kết quả hoạt động hàng năm, vê' báo cáo tài chính, mức lương, thưởng, quyển lợi của Tạp chí Khoa học Nội vụI 51
||j|
ĐÀO TẠO - BÓI DƯỠNG Ễttlãnh đạo, quản lý nhà trường.Tính trung thựcvà minh bạch trong quản lý GDĐH, trong giảngdạy và nghiên cứu là tiêu chí khẳng định chất lượng giáo dục đại học.
Đầy cũng là tiêu chí để kiểm định chất lượngtrường đạihọc củacác tổ chứckiểm định độc lập. Điểm mấu chốt để trường đại học tự chủ và thực hiện trách nhiệm giải trình chính là công khai, minh bạch hóa thông tin củatrường đại học. Đây là haimặt của một vấn đê' cẩn phảithực hiện song song. Cụ thể, tăng quyển tự chủ mà không đặt yêu cầu vể tự chịu trách nhiệm sẽ có nguycơ dẫn đếnvô chính phủ, giảm sút chất lượng, chạy theo lợi ích trước mắt. Ngượclại, tăng cường sự chịu trách nhiệm mà hạn chế quyền tự chủ sẽ trói buộc các cơsởđại học, khôngtạo ra động lực và cơ chế cho sự vận hành tự nhiên, hạnchế sự mềm dẻo, linhhoạt,khả năng đáp ứng yêu cầu đa dạng của xãhội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chloe Lane (2019), what Does the Future of Higher Education Look Like? QS Quacquarelli Symonds Limited
2. Donna Fuscaldo (2019), What Will Higher Education Look Like 5, 10 or 20 Years From Now?At GoodCall
3. Jon Marcus (2020), How Technology Is Changing the FutureofHigher Education, The Newyork Times. Published Feb. 20
4. The QS World University, Understanding The Future of Higher Education, https://www.qs.com/
understanding-future-higher-education/
5. Stephen Rogers, Morsi Berguiga (2016), Ben Thuriaux-Aleman, Adina Raetzsch, Ingrid afSandeberg, Thefuture of higher education-.Transforming the students of tomorrow. Arthur D. Little
6. Matthew w. Savage,Renee E. Strom, Amy s. Ebesu Hubbard and Krystyna s.
Aune, Commitment in College Student Persistence, Journal of College Student Retention: Research, Theory & Practice, 10.1177/1521025117699621, 21, 2, (242- 264), (2017).
7. Bradley, Paul & Sheldon, William
& Wooster, Blake & Olsen, Peter &
Boanas, Paul & Krustrup, Peter. (2009).
High-intensity running in English FA Premier League Soccer Matches.
Journal of sports sciences. 27. 159-68.
10.1080/02640410802512775.
8. Churchill Jr., G.A. and Surprenant, c. (1982) An Investigation into the Determinants of Customer Satisfaction.
Journal of Marketing Research (JMR), 19, 491-504.http://dx.doi. org/10.2307/3151722
9. Anh Tú, Doanhnghiệp chê giáo trình trường đại học cũ kỹ, lạc hậu: Các trường buộc phải thay đổi, Giáo dục thời đại, 08/11/2019
10. Thái Bình. 0,33% GDPđẩu tư cho GDĐH: Thấp nhất thể giới, Dần trí, Thứ Sáu 13/09/2019
11. Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửađổibổ sung 2018)
52 I Tạp chí Khoa học Nộivụ