• Tidak ada hasil yang ditemukan

tiép tục phát triển hiến pháp việt nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "tiép tục phát triển hiến pháp việt nam"

Copied!
10
0
0

Teks penuh

(1)

TIÉP TỤC PHÁT TRIỂN HIẾN PHÁP VIỆT NAM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN

Trương Hồng Quang*

* TS., Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.

’* ThS.,Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.

Bài viết là kết quả nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2021 của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp): “Sự phát triền của che định quvền con người, quyền công dãn qua các bàn Hiến pháp Việt Nam và một số vấn đề đặt ra đối với pháp

luật Việt Nam hiện nay”.

1 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Võ Khánh Vinh (chủ biên), Những vấn đề lý luận và

! thực tiễn về sửa đổi, bô sung Hiến pháp năm 1992, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr. 12.

2 Lương Minh Tuân, Các hình thức phát triền của I Hiến pháp - kinh nghiệm cùa Đức và Việt Nam, Tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, số 23/2011, tr.l 1-17.

3 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Võ Khánh Vinh (chủ biên), Những vẩn đề lý luận và

thực tiễn về sửa đối, bổ sung Hiến pháp năm 1992, tkid.tr. 32.

4 Lương Minh Tuân, tlđd, tr.l 1-17.

Hoàng Diệu My**

Tóm tắt: Quyền con người, quyền công dân là mộttrong những chế định không thế thiếu của Hiến pháp. Bài viết phân tích nhu cầu và đưa ra những kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển (giảithích, cụ thêhóa và sửađối, bo sung) Hiếnpháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân ở nước ta trong thời gian tới.

Abstract: Human rights, citizens ’ rights are one of the indispensable institutions of the constitution. This article analyzes the needs and makes suggestions for the development (interpretation, detailing, amendment, and supplementation) ofthe 2013 Constitution of VietNam relating to human rights, citizens ’rights in thecomingtime.

1. Dẩn nhập

Hiến pháp vừa là bản khế ước mang trong nóý chí chung của xã hội, vừa là văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước1. Vì vậy, Hiến pháp cần có sự ổn định lâu dài để bảo đảm cho sự ổn định của hệ thốngpháp luật, góp phần bảo đảm, duy trì sự tin cậy của người dân vào Hiến pháp và pháp luật củaNhà nước* 12. Các Hiến pháp tiến bộ, dân chủ, công bằng, bình đẳng đều là những Hiến pháp có đời sống thựctế lâudài3 *. Tuy

vậy, Hiến pháp cũng cần có sự phát triển vì Hiến pháp ra đời trong nhữngbối cảnh lịch sử nhất định và chịu ảnh hưởng lớn của bối cảnh lịch sửđó. Thực tiễn kinh tế - xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp thường thay đổi trong tiến trình phát triển của lịch sử và nó không thể không ảnh hưởng đến nội dung của Hiến pháp. “Hiến pháp có thể sẽ đánh mất đi vai trò của mình, nếu Hiếnpháp hoàn toànphù hợp với hoàn cảnh thực tế đã thay đổi theo cách các quy phạm Hiến pháp không còn là chuẩn mực cho các quan hệ kinh tế - xã hội mà các quan hệ kinh tế - xã hội trở thành chuẩn mực cho các quy phạm Hiếnpháp”4. Dođó, việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong một bản Hiến pháp hoặc thay hẳn bằng một bản Hiến pháp mới cho đến nay là việc thông thường và cần thiết. Phát triển Hiến pháp phải gắn với các định hướng phát triển đất nước và cácđiều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đưong đại. Phát triển Hiếnpháp

(2)

NHÀNƯỚC PHẢPLUẬTSÔ3/2022

phải trên tinh thần “quốc gia nào thì Hiến pháp ấy”5.

5 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Võ Khánh Vinh (chủ biên), tlđd, tr. 34.

6 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Võ Khánh Vinh (chủ biên), tlđd, tr. 36.

7 Chưa tính đến hai bản Hiến pháp năm 1956 và 1967 được ban hành bởi chính quyền miền Nam trong thời gian chiến tranh chống Mỹ.

8 Lê Son, 5 bàn Hiến pháp của nước ta là những nấc thang lớn vươn tới Nhà nước pháp quyền XHCN, https://baophapluat.vn/5-ban-hien-phap-cua-nuoc-ta- la-nhung-nac-thang-lon-vuon-toi-nha-nuoc-phap-quy en-xhcn-post395967.html, truy cập ngày 28/5/2021.

Theo một số nhà nghiên cửu, sự phát triển của Hiển pháp trong khuôn khổ bảo đảm bản sắc của Hiến pháp diễn ra theo hai cách:

Thứ nhất, giải thích, cụ thể hóa Hiến pháp. Cách này làm thay đổi nội dung của quy phạmHiếnpháp mà không làm thay đổi lời văn của Hiến pháp. Sự giải thích, cụ thể hóa Hiến pháp thường chỉ áp dụng đối với các quy phạm Hiến pháp mở, có tính khái quát cao, có một phạm vi rộng cho phép hiểu theo những nghĩa khác nhau. Việc không thể làm thay đổi lời văn của quy phạm Hiến pháp chính là giới hạn cho sự phát triển Hiến pháp bằng cách thức này6.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.

Kết quả của cách này có thể là sửa đổi, bổ sung một sổ điều của Hiến pháp hoặc ban hành mộtbản Hiến pháp mới.

Tại Việt Nam, sự phát triển của Hiến pháp đã được thực hiện thông qua cả hai cách nêu trên với mức độ rộng hẹp khác nhau, trong đó có nội dung quyền con người, quyền công dân.

2. Tiếp tục phát triển Hiến pháp Việt Nam về quyền con người, quyền công dân: Nhu cầu và kiến nghị

Lịch sử lập hiến của Việt Nam đã có năm bàn Hiến pháp là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) vàHiến pháp năm 20137. Có thể thấy,

đây là năm nấc thang lớn vươntới dân chủ và Nhà nước phápquyền,đồng thời thehiện sự nhậnthức, tiếp cận ngày càng đầy đủ hơn học thuyết về Nhà nước pháp quyền hiện đại8 * * *. Trong đó, tuycách ghi nhận có ít nhiều khác nhau, nhưng tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam luôn có một chương liên quan đếnquyền con người, quyền công dân. Mặc dù có sự thay đổi qua các bản Hiển pháp, nhưng đến nay, chương quy định về quyền con người,quyền công dân đang được đặt ở chương II của Hiến pháp năm 2013 (ngay sau chương về chế độ chính trị). VỊ trí này tươngtự như Hiến pháp năm 1946. Điều đó cho thấy Hiến pháp hiện hành đã xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của chế định quyền con người, quyền công dân. Đối với các khía cạnh khác liên quan đến quyền con người, quyền công dân (chế độ dân chủ, tổ chức quyền lực nhà nước, cơ chế bảo vệ quyền con người...) cũng đã được thể hiện qua các bản Hiến pháp nước ta với những mức độkhác nhau.

2.1. Giải thích, cụ thể hóa Hiến pháp về quyền con người, quyền công dãn

Giảithích, cụ thể hóa Hiến pháp là điều cần thiết, bởi nhiều quyđịnh của Hiếnpháp có tính khái quát cao hoặc có những quy phạm Hiến pháp mở. Trong các bản Hiến pháp của nước ta, chỉ có Hiến pháp năm

1946 và Hiến pháp năm 1959 chưa có quy định vềthẩm quyền giải thíchvà cũng chưa quy định cơ quan có thẩm quyền giải thích Hiến pháp. Trong ba bản Hiến pháp còn lại, thẩm quyền này đều được giao cho Hội

(3)

TIẾP TỤC PHÁTTRIỀN...

đồng Nhà nước9 hoặc ủy ban Thường vụ Quốc hội10.

12 Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 - Quan điểm mới, cách tiếp cận mới và các quy định mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 27.

13 Văn phòng thường trực về nhân quyền và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam (sách chuyên khào), Hà Nội, 2015, tr. 207.

14 Trong nội dung này, các tác giả có tiếp thu một số kết quả nghiên cửu trước đây: Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nguyễn Văn Hiển, Trưomg Hồng Quang (đồng chủ biên), Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, sách chuyên khảo, tái bản lần thứ nhất, có sửa

Giải thích chính thức Hiến pháp (và cả luật, pháp lệnh) có vai trò rất quan trọng, nhưng tiếc rằng, chúng ta chưa thực sự coi trọng và đề cao đúng mức hoạt động này trong thực tế11. Cho đến nay, số lần ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện giải thích Hiến pháp là rất ít. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 2013 đã cho thấy giải thích Hiến pháplà nhu cầu cần thiết.

2.1.1. về khoản 2 Điều 14 và khoản 4 Điều 15Hiến pháp năm 2013

Giới hạn hay hạn chế quyền con người, quyền công dân không phải là vấn đề mới trong lịch sửlập hiến của nước ta. Việc giới hạn/hạn chế quyền đã được thể hiện trong các quyền cụ thể trong các bản Hiến pháp.

Tuy nhiên, phải đến Hiến pháp năm 2013 thì nguyên tắc chung về hạn chế quyền con người, quyền công dân mới được hiến định.

Theo đó, Hiến pháp năm 2013 quy định:

"Quyền con người, quyền công dân chỉ cỏ thế bị hạn chếtheo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng"

(khoản 2 Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: "Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dãn tộc, quyển và lợi ích họp pháp của người khác"

(khoản 4 Điều 15). Hai quy định này đã hợp thành các nguyên tắc chung về hạn chế quyền con người, quyền công dân và được

9 Khoản 5 Điều 100 Hiến pháp năm 1980.

10 Khoản 3 Điều 91 Hiến pháp năm 1992 (sủa đổi, bổ sung năm 2001), khoản 2 Điều 74 Hiến pháp năm 2013.

E

Trần Ngọc Đường, Thực trạng và nhu cầu giải ích Hiến pháp, luật, pháp lệnh ở Việt Nam, Tạp chí ghiên cứu lập pháp, 14/2016, tr. 3-7, 43.

xem là một điểm tiếnbộ của Hiếnpháp năm 2013. Đây cũng được xem là nguyên tắc hiến địnhcó ỷ nghĩa quan trọngđối với việc bảo vệ quyền conngười, quyền công dân.

Xét về bản chất, việc hạn chế thực hiện quyền con người, quyền công dân là giải quyết sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân, quyền lợi của người khác và quyền lợi của xã hội, bảo đảm tính hiện thực của các quyền conngười, quyền công dân12. Có thể nhận thấy, về cơ bản, quy định củakhoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khá tương thích với quyđịnh của pháp luật quốc tế và các bản Hiến pháp tiến bộ trên thế giới về nguyên tắc hạn chế quyền, bảo đảm việc hạn chế quyền chỉ được đặt ra khi có lý do khách quan, hợp pháp và hợp lý, trên cơ sờ nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận của chủ thể có thẩm quyền13. Như vậy, quy định về nguyên tắc hạn chế quyền đã góp phần bổ sung cho hệ thống cơchế bảo vệquyền con người tại Việt Nam.

Tuy nhiên, cũng cầnthấy rằng bản thân nguyên tắc về hạn chế quyền là vấn đề khá trừu tượng và đang được quy định chung trong Hiếnpháp năm 2013. Vì vậy, vẫn còn có một số vấn đề chưa được minh định dẫn đến việc thể chế hóa nguyên tắc này trong thực tiễn gặp nhiều khókhăn, vướng mắc14.

(4)

NHÀNƯỚC PHÁP LUẬT3/2022

Thứ nhẩt, theo quy định tại khoản 2 Điều 14 nêu trên, liệu có phải bất cứ quyền nào cũng có thể bị hạn chế trong những trường hợp cụ thể hay không? Theo pháp luật nhân quyền quốc tế (ví dụ: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 - ICCPR, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm

1966 - 1CESCR là hai công ước mà Việt Nam đà tham gia), có những quyền con người không thể bị hạn chế thực hiện vì bất cứ lí do gì,trong bất kì hoàn cảnh nào, kể cả trong những trường hợp cần thiết như quy định của Hiến pháp năm 201315. Vì vậy, nội dung này của Hiến pháp năm 2013 rat cần đượcgiải thích cụ thể.

đổi, bô sung, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2019; Trương Hồng Quang, Nhu cầu giãi thích quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dãn của Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2018, tr. 3-13; Nguyễn Minh Tuấn, Những vấn đề pháp lý còn bỏ ngỏ về giới hạn quyến con người, quyển công dân ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2019, tr. 3-8; Trương Hồng Quang, Thực tiễn thi hành nguyên tấc hạn chế quyền con người, quyền công dãn của Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Luật học, số 5/2021, tr. 49-62.

15 Ví dụ một số quyền theo ICCPR năm 1966 là quyền tuyệt đối và không thế bị hạn che bời bất cứ lí do nào: Điều 2 (khoản 1), Điều 6 (khoán 3), Điều 7, Điều 8 (khoản 1, 2), Điều 11, Điều 15 (khoản 1), Điều 16, Điều 18 (khoản 1, 2), Điều 26...; Xem thêm: https://www.parliament.vic.gov.au/images/sto ries/committees/sarc/charter_review/supplementary_

info/263Addendum .pdf.

16 Điều này được quy định cụ thể trong nội dung các quyền theo ICCPR và ICESCR năm 1966.

17 Đặng Minh Tuấn, Những điểm còn bò ngó cùa dự thảo sửa đồi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2013, tr. 54.

18 Bùi Tiến Đạt, Hiến pháp hoá nguyên tắc giới hạn quyên con người: cần nhưng chưa đù, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6/2015, tr. 3 - 11.

Việc quy định các lí do để hạn chế quyền là đúng đắn. Tuy vậy, theo pháp luật nhân quyền quốc tế, một số quyền cần phải được hạnchếtrong mọi thời điểmmàkhông cần xuất hiện các trường hợp cần thiết vì lí do anninh quốc gia, trật tự, an toàn xãhội...

Chẳng hạn, quyền tự do hội họp luôn kèm theo điềukiện“hoà bình” (Điều 21 ICCPR), quyền tự do lập hội có thể bị hạn chế đối với những người làm việc trong lực lượng

vũ trang và cảnh sát (khoản 2 Điều 22 1CCPR). Cầnphải tiếp tục làm rõ quyền nào có thể bị hạn chế bởi lí do nào, bởi một quyền có thể bị hạn chế bởi một, một số hoặc tất cả lí do được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 201316.

Thứ hai, chưa thống nhất quan điểm về quy định “quyền con người, quyển công dân chicó the bị hạn chế theo quy định của luật”. Có quan điểm cho rằng, vấn đề hạn chế quyền chỉ nên được quy định trong luật do Quốc hội ban hành (nghĩa là không được ủy quyền lập pháp)17. Cũng có quan điểm cho rằng, việc quy định hạn chế quyền chỉ bằng quy định của luật là quá hẹp, đặt ra yêu cầuquá cao đối với việc hạn chế quyền con người18 *.

Thứba, chưa rõ thế nào là “trường hợp cân thiết”, “li do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng ”“xâm phạm lợi ích quốc gia, dàn tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của ngườikhác Bên cạnh đó, nhưđã

đề cập ởtrên, việc ápdụng các lí do hạn chế quyền chưa rõ vấn đề liệu một hạn chế quyềnđồng thời phải đáp ứngtoàn bộ các lí do hay chỉ cần một trong số các lí do đó.

Đây là những vấn đề quan trọng, nếu không làm rõ thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng (soạn thảo, thấm định), thi hành pháp luậtvềhạn chế quyền trong thực tế; bởi bản thân nguyêntắchạn chế quyền vốn đã mang tính trừu tượng, việc vận dụng trong thực tiễn hoàn toàn không đơn giàn. Hơn nữa,

(5)

TIẾP TỤC PHÁTTRIỂN...

việc làm rõ các vấn đề nàysẽ góp phần bảo đảm thực thi nguyên tắc hạn chế quyền phù hợp với tinh thần Hiến pháp cũng như pháp luật quốc tế.

Thứ tư, quy định tại khoản 4 Điều 15 Hiến pháp năm 2013 chưa thực sự rõ ràng và có thể dẫn đến các giải thích không phù hợp với tinh thần tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong thực tế. Pháp luật quốc tế và các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận mọi người được thực hiện các quyền conngười, quyền công dân theo quy định của pháp luật. Các quyền đó được quy định trong pháp luật, có thể bị hạn chế theoquy định của pháp luật. Khi đã được quy định trong pháp luật là các quyền con người, quyền công dân thì mọi cá nhân, công dân đều có quyền hưởng thụ đầy đủ các quyền đó. Các hành vi vượt khỏi hạn chế quyền con người, quyền công dân cẩn được quy định cụ thể/minh định rõ trong pháp luật và đặt trong bối cảnh nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân được Hiếnpháp quy định.

Từ đó, một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến việc thể chể hóa nguyên tắc chung về hạnchế quyền con người,quyền công dân cóthểthấynhưsau19:

Ị (i) Vấn đề hạn chế quyền con người, quyền công dânđược quyđịnhtrong nhiều loạivăn bản quy phạm pháp luật vàcả văn bản quản lí hành chính nhà nước; (ii) Cách thức quy định và chất lượng các quy định về hạn chế I quyền con người, quyền công dân còn khá nhiều bất cập (nhiều quy định về hạn chế quyền chủ yếu nhắc lại nội dung khoản 2 Điều 14vàkhoản 4Điều 15 Hiếnpháp năm 2013; mô thức chung để đặt điều kiện, hạn

20 Trong nội dung này, các tác giả có tiếp thu một số kết quả nghiên cứu trước đây: Trương Hông Quang, Sự cần thiết ghi nhận quan hệ sống chung cùng giới trong pháp luật Việt Nam, Tạp chi Nhà nước và Pháp luật, số 6/2019, tr. 12-23; Trương Hồng Quang, Giới F—-——“---- —~ _ -

Ị9 Tham khảo thêm: Trương Hông Quang, Thực tiên thi hành nguyên tẳc hạn chế quyền con người, quyền eông dân của Hiến pháp năm 2013, tlđd.

chế một số quyềnhiện hành thiếu vắng hoàn toàn các quy định liên quan đến tráchnhiệm pháp lí của chủ thể công quyền, trong mối tưong quan với việc quy định, hiện thực hoá các điều kiện để thực hiện quyềncon người;

các điều kiện, thủ tục, quy trình thực hiện quyền còn nặng về quản lí nhànước; một số quy định lạm dụng việc hạn chế quyền...);

(iii) Một số công cụ phục vụ hoạt động soạn thảo, thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nói chung và liên quan đến nguyên tắc hạn chế quyền nói riêng còn có điểm hạn chế, chưa thực sự hiệu quả (ví dụ quy định về thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự án, dự thảo văn bảnquyphạm pháp luật)...

Như vậy, nguyên tắc chung về hạn chế quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013 cần được giải thích chính thức. Việc giải thích khoản 2 Điều 14 và khoản 4 Điều 15 Hiến pháp năm 2013 sẽ bảo đảm các quy định này được hiểu một cách nhất quán, khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn và nâng cao vai trò, giá trị của Hiến pháp trong việc bảo vệ quyền con người.

2.1.2. về khoản 1 Điều 36 Hiển pháp năm 2013

Khoản 1 Điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyên, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”.

Có thể thấy, thay vì định nghĩa hôn nhân, Hiếnpháp năm 2013 chỉ quy định về quyền kết hôn20. Vậy Hiến pháp năm 2013

(6)

NHÀNƯỚC VÀ PHÁP LUẬT3/2022

CÓ cấm hai ngườicùng giới tính kết hôn với nhau hay không? “Vợ” và “chồng” là hai thuật ngữ pháp lý để chỉ mối quan hệ gắn kết gia đình giữa hai cá thể người. Thực tế, người đồng tínhnam vẫn là nam giới, người đồng tính nữ vẫn là nữ giới. Hiến pháp năm 2013 không bắt buộc nam chỉ được kết hôn với nữ hay ngược lại. Điều đó có nghĩa họ cũng có quyền kết hôn theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc “một vợ một chồng” mà Hiến pháp năm 2013 nhắc tới cần được hiểu là“đơn hôn”, với nội hàm là không ai đượckết hôn với người khác khi đang ở trong tình trạng hôn nhân với một người. Nguyên tắc này cũngkhông có nghĩa rằng hôn nhân phải là giữamộtnam và một nữ. Điều nhấn mạnh ở đây là “một - một”

chứ không phải “vợ - chồng”. Do đó, nên hiểu quy định “nam, nữ có quyền kết hôn”

là quyđịnhđể công nhận quyềnkết hôncủa công dân hơn làmột quyđịnh để định nghĩa hôn nhân hay để giới hạn người thụ hưởng quyền này? Tuy nhiên, đây là những nhận địnhdưới góc độ nghiên cứu của các tác giả và chưa phải là giải thích chínhthức củacơ quan cóthẩm quyền.

Hiện nay, pháp luật hôn nhân và gia đình chỉ ghi nhận quyền kết hôn giữa hai người khác giới tính21. Điều này đặt ra khả năng vượt quá giới hạn quyền kết hôn đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013.

Như đãnêu, quy định tại Điều 36 Hiến pháp năm 2013 không cấm kết hôn cùng giới và không bắt buộc nam chỉ được kết hôn với nữ hay ngược lại. Thiết nghĩ, cơ quan có thẩm quyền cần có giải thích chính thức về tinh thần của Điều 36 Hiến pháp năm 2013

hạn cùa pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 8/2020, tr. 3-14, 28.

21 Điều này được thể hiện qua khoản 1, khoản 5 Điều 3 và khoản 2 Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

nêu trên để có thể giải quyết được những vấn đề, nhu cầu đặt ra trong thực tiễn liên quan đến quyền mưucầu hạnh phúc của các cặp đôi cùng giới. Neu giới hạn quyền kết hôn củacặp đôi cùng giớithì cần có những lí do chính đáng, hợp lí cho những giới hạn đó. Liệu việc ghi nhận quyền kết hôn bình đẳng cho tất cảmọi người (bao gồm cả cặp đôi cùng giới) có hại cho xã hội hay ảnh hưởng đến tự do của người khác trong xã hội hay không? Hơn nữa, bản thân quy định về nguyên tắc chung về hạn chế quyền của Hiến pháp năm 2013 (khoản 2 Điều 14) cũng chưa thực sự rõ ràng (các lí do hạn chế quyền...). Đâylà nhữngđiều mà Hiếnpháp năm 2013 cũng như pháp luật hôn nhân và gia đình chưa giải quyết được.

2.2. Sửa đối, bố sung Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân

Trong lịch sử lập hiến của nước ta, với năm bản Hiến pháp thì đã có năm lần ban hành mới và ba lần sửa đổi, bổ sung. Đối với Hiến pháp năm2013, vị trí của chế định về quyền con người, quyền công dân ở chươngII đã tiếp tục khẳng định quanđiểm đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 đã có khá nhiều điểm mới liên quan đến quyền con người, quyền công dân(về kỳ thuật lập hiến, về nội dung quyền, bổ sung quyền mới...). Có thể thấy, Chương II của Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một chươngthay đổi căn bản vàtoàn diện nhất trong bản Hiến pháp này. Tuy vậy, qua thực tiễn hơn 7 năm triển khai thi hành cũng cho thấy một sốvấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung đểgóp phần phát triển Hiến pháp năm 2013 về

(7)

TIẾP TỤCPHẢT TRIỂN...

quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh hiện nay. Trong khuôn khổ của bài viết, các tác giả xin đề cập một số vấn đề được nêu dướiđây:

Thứ nhất, bổ sung nội dung quy định củanguyên tẳc chung về hạn chế quyền con người, quyền công dân (khoán 2 Điểu 14 Hiến pháp năm 2013). Mặc dù việc hiến định nguyên tắc hạn chế quyền trong Hiến pháp năm 2013 là tiến bộ, về cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia trên thế giới, nhưng vần còn thiếu vắng một số yếutố khá quan trọng:

- Hiến pháp năm 2013 chưa đề cập việc hạn chế quyền không được làm mất đi bản chất của quyền con người, quyền công dân như quy định của pháp luật quốc tế và Hiến pháp của một số quốc gia trên thế giới . Điều này có thể dần đến hệ quả trong một số trường hợp sẽ hạn chế quá mức quyền conngười, quyền công dân.

22

- Hiến pháp năm2013 chưa quy định về tạm đình chỉ quyền con người, quyền công

22 Ví dụ: Điều 4 ICESCR năm 1966 quy định:

“...mỗi quốc gia chi có thể đặt ra những hạn chế do luật định trong chừng mực những hạn chế ấy không trái với bán chất của các quyền...”; khoản 2 Điều 19 Luật Cơ bản của Cộng hòa Liên bang Đức năm 1949 quy định: “Trong mọi trường hợp, việc giới hạn một quyền cơ bản nào đó không được làm mất đi bàn chất cốt lõi của quyền đó” hay mặc dù trong Hiên Ị pháp của Liên bang Nga năm 1993 (sửa đổi, bổ sung Ị năm 2020) không quy định rõ nguyên tắc này, nhưng Ị lại thiết lập nguyên tắc tính tối thượng của con Ị người, quyền, tự do và phẩm giá cùa con người như là một bảo đảm khỏi sự xâm hại từ phía công quyên dù dưới bất kỳ lý do, điều kiện và hoàn cảnh nào

!(xem các điều 2, 15, 18, 21, 22). Yêu cầu này nhàm Ị bảo đảm những giới hạn đặt ra không làm tổn hại 'đến khả năng của các cá nhân có liên quan trong việc hưởng thụ các quyên đó. Xem thêm: Nguyên Minh Tuấn (chù biên), Giới hạn chính đáng đối với các tuyền con người, quyền công dân trong pháp luật uốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà lội, 2015, tr. 31,87, 99,100.

23 Thái Thị Tuyết Dung, Quyền riêng tư trong thời đại công nghệ thông tin, Tạp chi Nghiên cứu lập pháp, số 9/2012, tr. 14-21.

dân trong trường hợp tuyên bố tình trạng khẩn cấp; từđó, chưa tạora các ngoại lệcho việc tạm đình chỉ thực hiện quyền. Tình trạng khẩn cấp có thể được áp dụng trong khá nhiều trường hợp liên quan đến chiến tranh,thiêntai, dịch bệnh...

Thứ hai, ghi nhận đầy đủ nội hàm quyền riêng tư. Hiện nay, Điều 21 Hiến phápnăm2013 quy định:

“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bỉ mật cá nhãn

và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

Thông tin về đời song riêng tư, bỉ mật cá nhân, bi mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.

2. Mọi người có quyền bỉ mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đối thôngtin riêngtưkhác.

Không ai được bóc mở, kiêm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín các hình thức trao đổi thông tin riêng tư củangười khác ”.

Có thể thấy quy định hiện hành chỉ đề cập đến một số vấn đề như đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật thư tín... Trongbối cảnh hiện nay, việc ghi nhận bằng cách liệt kê như vậy đã không cònphù hợp và chưa theo kịp với thực tiễn của đời sổng xã hội. Các nước trên thế giới đãghi nhận mộtquyền chunglà quyền riêng tư. về mặt khái niệm23, có thể hiểu quyền riêng tư là quyền của các cá nhân được phép giữkín những thông tin, tưliệu, dữ liệugắn liềnvới cuộc sống riêng tư của mình, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nơi ở, thư tín, điệnthoại, điện tín vàcác thông tin điện tử khác màkhôngmộtchủthểnào có quyền

(8)

NHÀ NƯỚC PHÁPLUẬT3/2022

tiếp cận, công khai, trừ trường họp được chính người này đồng ý hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, quyền riêng tư có nội hàm rộng hơn quy định tại Điều 21 cúa Hiến pháp năm 2013. Dưới góc độ pháp luật quốc tế, các vẫn bản như Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948 (Điều 12), ICCPR năm 1966 (Điều 17), Công ước Nhân quyền châu Âu năm 1950 (Điều 8), Tuyênbố châu Mỹ về Quyềnvà tráchnhiệm của con người năm 1965... đã khẳng định sự riêng tư, quyền riêng tư của công dân được bảo hộ, bảo đảm thực thi, không chỉ đề cập đến quyền bí mật đời tư hay riêng tư về nơi ở, thư tín... Trong hệ thống pháp luật các nước trên thế giới có nhiều mô hình xây dựng pháp luật về quyền riêng tư và đã khẳng định được đầy đủ nội dung của quyền này24.

Đây là nhữngkinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo.

24 Trương Hồng Quang, Hoàn thiện quy định về quyền con người, quyền công dãn trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2013, tr. 31-37.

25 Chi một người có tình cảm, yêu một người cùng giới tính hay khác giới tính với minh. Ví dụ như người dị tính (chiếm đa số trong xã hội) chỉ yêu người có giới tính khác giới tính cùa mình, người đồng tính chỉ yêu người cùng giới tính, người song tính có tinh cảm với cả hai giới.

26 Chì một người tự nhận mình mang giới tính nào, không phụ thuộc vào giới tính sinh học khi sinh ra cùa người đó là như thế nào, ví dụ như người chuyển giới.

27 Tham khảo thêm: Trương Hồng Quang, Hoàn thiện quy định về quyền con người, quyền công dân trong dự thảo sứa đổi Hiến pháp 1992, tlđd.

28 Võ Khánh Vinh, Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, tr. 18.

Việc ghi nhận đầy đủ nội hàm quyền riêng tư sẽ tạo cơ sở cho việc cụ thể hóa thành phápluật. Tôntrọng quyềnriêng tư là một yêu cầu tất yếu đặt ra cho tất cả mọi người, buộc mọi người phải tuân thủ, nhất là trongbối cảnh tác động mạnh mẽ của sự phát triển khoa học, công nghệ, mạng internet. Theo đó, Điều 21 của Hiến pháp năm 2013 có thể được sửa đổi theo hướng:

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm và quyền bảo vệ sự riêng tư về thông tin cá nhân, cơ thể, thôngtin liên lạc vànơi cư trú;

có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

Không ai được phép thu thập, lưu giữ, sử dụng và phổ biến thông tin về sự riêng tư của người khác nếu không được người đó

đồng ý. Việc tiếp cận, kiểm soát, thu giữ thông tin về sự riêng tư của cá nhân chỉ được cơ quan nhà nước thực hiện trongmột số trường hợp nhấtđịnhdo luật quy định.

Thứ ba, mở rộng quyền về bình đắng giới theo hướng tiếp nhận các yểu to về xu hưởngtính dục và bảndạnggiới

Tại Việt Nam, các khái niệm như xu hướng tính dục25 và bản dạng giới26 cònkhá xa lạ trong đời sống vàchưa xuấthiện trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Hai khái niệm này sẽ ảnh hưởng đến các vấnđề như:

Quan niệm về gia đình, về kết hôn, quan niệm về bình đẳng giới, tác động đến việc phân biệtđối xử, công bằngtrong xã hội27.

Bình đẳng là các nhu cầu và lợi ích cơ bản (vềtinh thầnvà vật chất) của loài người đều tồn tại ở mỗi người28. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử dựatrên các vấn đề về xu hướng tính dục và bản dạng giới. Các quy định về quyền này thường quy định chung cho các đối tượng trong xã hội. Điều 16 Hiển pháp năm 2013 quy định mọi người đều bình đẳng trước pháp luật,không aibị phân biệtđối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều 26 Hiến pháp năm 2013 cũng

(9)

TIẾP TỤC PHẢT TRIỂN...

quy định công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới. Như vậy, theo Hiến pháp hiện hành, quyền bình đẳng trước pháp luật, không bịphân biệtđổi xửđượcáp dụng cho tất cả mọingười.

Quan niệm về bình đẳng giới dường như đã được thống nhất ở nhiều góc độ và trongthựctế, các quốc gia, cơ quan, tổ chức chì còn xem xét vấn đề đấu tranh bìnhđẳng giới giữa nam và nữ được đến đâu, mức độ cao haythấp. Bởi vậy, sự thể hiện của quan niệm về bình đẳng giới tại Việt Nam cũng không nằm ngoài những xu hướng chung.

Tại Việt Nam hiện nay, bản chất cùa bình đẳng giới là sự tôn trọng, tạo điều kiện cho cả nam và nữ cùng phát triển, cùng nhau cốnghiến nhiều nhất choxãhội vàđáp ứng các nhu cầu của cá nhân. Theo các tác giả, ì quan niệm này đúng nhưngdường như chưa Ị đầy đủ, chưa đáp ứng được xu hướng phát Ị triển về giới hiện nay. Mặc dù thuật ngữ ị gender (giới tính) là khái niệm rộng, nhưng

hiện tại chỉ mới được hiểu ở mức độ I biological sex/gender (giới tính sinh học)

mà chưa có sự ghi nhận bình đẳng giữa những xu hưởng tính dục, bản dạng giới ị khácnhau.

,

Không thê phủ nhận quan niệm bình đẳng giới là bình đẳng giữa nam và nữ rất phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, ngay trong 'chính giới nam hoặc nữ lại có những bất bình đẳng nhất định màpháp luật Việt Nam còn đang bỏngỏ.Ví dụ, giữamột nam đồng tính và một nam dị tính hay giữa một nữ Ỉ ồng tính và mộtnữdị tínhcòn có nhữngsự

hân biệt đối xử nhất định. Hiến pháp và

pháp luật chưa ghi nhận nguyên tắc cấm sự kỳ thị, phân biệt đổi xử đối với các vấn đề về xu hướng tính dục hay bản dạng giới.

Như vậy, chưatínhđếncác quyền khác như quyền kếthôn, quyền thừa kế, cho nhận con nuôi... thìchỉ ở riêng khía cạnhkhông phân biệt đối xử ngay trong cùng một giới đã có sự khác nhau rõ rệt. Nếu không đề cập vấn đề cấmphân biệtđối xửtrongcùngmộtgiới liệu có công bằng? Liệu có cơ sởđểbảo vệ những đối tượng thiểu số trong xã hội vốn rất cần sự bảo hộ của Nhà nước? Cũng chính vì quan niệmbình đẳng giới bị bó hẹp như vậy nên trongthực tiễn hiện nay, người đồng tính, song tính và chuyển giới còn bị kỳ thị, phân biệtđối xử trong nhiều lĩnh vực (đời sống, việc làm...). Thiết nghĩ, nếu không ghi nhận việc cấm phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục, bản dạng giới thì pháp luật sẽ ít nhiều mất đi giá trị xã hội vốn có của nó. Bìnhđẳng giới cần mở rộng đến sự bình đẳng ngay trong một giới (giữa các bản dạnggiới, xu hướng tính dục).

Đã đến lúc cần có sựđôi mới quanniệm về bình đẳng giới, theo đó phải là sự bình đẳng giữa các xu hướng tính dục và bản dạng giới. Cũng có thể có ý kiến cho rằng, đề xuất này làkhông cần thiết vi Hiến pháp đã ghi nhận mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, trong bổi cảnh xã hội vànhận thứcngày càng phát triển, mở rộng, việc hoàn thiện quan niệm vềbình đẳng giới là hợp lý. Quy định củaHiếnpháp cũng cần được cụthể hoá, làm sâusắc vàphù hợp với đời sống hơn nữa. Dưới góc độ tâm lý xã hội, cũng có thể có ýkiến cho rằng, nếu đưa vấn đề bình đẳng trong cùng một giới thì dễ gây ra tâm lý bị tổn thương cho bản thân nhữngngười đồng tính, song tính và chuyển giới. Tuy vậy, điều đó chỉ xảy ra khi đồng tính, song tính hay chuyển giớilà những giới

(10)

NHÀNƯỚC PHẮPLUẬTSỐ3/2022

tính khác biệt, còn thực chất như đã nêu ở trên, họ chỉ khác nhau ởxu hướng tính dục hoặc bản dạng giới. Vì vậy, các tác giả cho rằng, Hiếnphápnăm2013 nên tiếp nhận, thế hiện rõ nét các yếu tố về xu hướng tính dục vàbản dạng giới trong các quyđịnh vềbình đẳng giới để bảo đảm tính công bằng của Hiến pháp đối với mọi công dân trong xã hội, không phân biệt nhóm đa số hay thiểu số. Theo đó, Điều 26 Hiến pháp hiện hành có thểđược sửa đổinhưsau:

“1. Công dân nam, nữ không phân biệt xu hưởng tinh dục và bản dạng giới bình đăng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.

2.Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện đê phụ nữphát trỉên toàn diện, phát huy vai trò củamình trong xãhội.

3. Nghiêm cẩm phân biệtđối xử về giới, xu hướng tính dục vàbản dạng giới ”.

Thứ tư, về kỹ thuật lập pháp. Trong nhiều điều khoản của Hiếnpháp năm 2013, những cụm từ “theo pháp luật”, “do pháp luật quy định” hoặc “theo quy định của pháp luật” vốn được sừ dụng rất phổ biến trong chương V Hiến pháp năm 1992 (sừa đổi, bổ sung năm 2001) đã được bỏ đi hoặc thay thế bằng “do luật định”. Tuy nhiên, vẫn còn một số điều hiện còn sử dụng những cụm từ này. Ví dụ Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định: “CÔMg dãn có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.

Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” hay khoản 2 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thân và phục hồi danh dự theo quy định của phápluật”.Việc sử dụng cụmtừ“theopháp

luật” hay “theo quy định của pháp luật” là cần thiết vì thực tế nhiều vấn đề nêu trên chưa kịp hoặc không cần thiết được cụ thể

hóa bằng luật. Tuy vậy, với nhữngquy định có mục đích cấm xâm hại quyền, việc sử dụng cụm từ “theo quyđịnh củapháp luật” đồng thời dẫn đến hai khả năng: Một là, mở rộng phạm vi bảo vệ quyền; hai là, tăng thêm nguycơtùy tiện rút bớthoặc giảm nhẹ những trách nhiệm xử lý của các cơ quan nhà nước. Trên thực tế, khả năng thứ hai thường có thể xảy rahơn khả năng thứnhất.

Dựa trên những phân tích này, có thể thấy rằng, cần tiếp tục điều chỉnh các cụm từ hiện còn “theo quy định của pháp luật”

thành “theo luật định” hoặc “do luật định” ươngHiến pháp năm 2013 nhằm giảmthiểu nguy cơ tùy tiện hạn chế và vi phạm các quyền hiếnđịnh của các cơ quan nhà nước.

Ở đây, việc cụ thể hóa bằng luật không có nghĩa làmọi vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền đó đều cầnđược quy định trong luật, mà chỉ cần quy định những vấn đề mang tính nguyêntắc, có thể trong một đạo luật riêng hoặc một đạo luậtcó liên quan29.

29 Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 - Quan điểm mới, cách tiếp cận mới và các quy định mới, tlđd, tr. 58-59.

Tựu trung lại, Hiến pháp là đạo luật cần có tính ổn định cao nhất trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, với sự phát triển của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội... thì Hiến pháp cũng cần được phát triển để ngày càng phát huy nhiều hơn vai trò, giá trị, trong đó có các vấn đề về quyền con người, quyền công dân. Phát triển Hiến pháp cần kết hợp giữa giải thích, cụ thể và sửa đổi, bổ sung Hiếnpháp. Chỉ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp khi thực sự cần thiết. Việc phát triển Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân nói riêng và tất cả các vấn đề của Hiến pháp nói chung ở nước ta cần đáp ứng yêu cầu của thựctiễn cũngnhư tiếp thu, học hỏi các bài học đã được ghi nhận trong lịchsửlậphiến nước nhà.

Referensi

Dokumen terkait

Để phát huy những kết quả đã đạt được và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế tự chủ tài chính hiện hành, thiết nghĩ Nhà nước và các Bộ, ngành hữu quan cần quan tâm thực hiện

Nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý các hoạt động KTS như vấn đề quản lý và thu thuế đối với các hoạt động thương mại trực tuyến, nhất là kinh doanh qua các mạng xã hội và cung cấp

Tận dụngcơ hội kháng kiện từ Quy tắc “Phúcthẩm bảo hộ” Trong vấn đề chuẩn bị kháng kiện, nếu như phía bị đơn Việt Nam muôn kháng kiện một vấn đề nào đó trong phán quyết nhưng lại

Hà Nội được xây dựng đảm bảo phù hợp, thống nhất với “Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam”, hướng dẫn xây dựng “Kiến trúc chính quyền điện tử cấp tỉnh” và “Định hướng về công

Để hỗ trợ trẻ em được tiếp cận một cách đầy đủ quyền được giáo dục, trách nhiệm của Nhà nước đã được xác định rõ ở Điều 44: Thứ nhất, chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được đi học,

Sự tương tác lẫn nhau giữa cá nhân và nhà nước cần phải được thiết lập như thế nào, bằng phương thức như thê nào; phải chăng Chiến lược phát triển pháp luật là phương thức pháp quyên,

Trong trường hợp đó, Nhà nước cũng có rất ít khả năng đểhỗ trợ công dân của mình thực hiện các quyền bảo vệ dữ liệu do bị giới hạn vềthẩm quyền tài phán.Thách thức thứ hailà vấn đề

Điều này cho thấy, nền kinh tế nước ta nói chung, đặc biệt ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng, phụ thuộc quá nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu, đồng nghĩa với việc biến