KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 21 Quý 2/2022
55
1. Đặt vấn đề
Trí tuệ là một trong rất ít lĩnh vực được đề cập ngay từ những ngày đầu khai sinh của tâm lý học khoa học. Từ đó đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu bản chất các quy luật phát sinh, phát triển của nó trong đời sống và hoạt động tâm lý con người, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng trí tuệ vào thực tiễn dạy học và giáo dục trẻ em cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tạo hóa sinh ra con người ai cũng có trí thông minh (hay còn gọi là Trí tuệ) thiên bẩm của mình. Khi lớn lên, chịu sự tác động của các yếu tố tâm lý, của môi trường gia đình, nhà trường, xã hội mà hình thành và phát triển tài năng ở các lĩnh vực khác nhau. Trước đây, quan niệm của con người thường cho rằng: những người có tài năng về các lĩnh vực như toán học, ngôn ngữ, khoa học tự nhiên thì mới là những người có trí thông minh thực sự. Trí thông minh của con người chỉ được đánh giá qua chỉ số thông minh logic (IQ). Còn những người có năng lực về lĩnh vực âm nhạc hoặc một số lĩnh vực khác thì chỉ được coi là những người có năng khiếu, không được coi là người có trí tuệ âm nhạc.
Bài viết nghiên cứu về trí tuệ, đặc điểm Trí tuệ âm nhạc và đưa ra một số biện pháp để phát triển Trí tuệ âm nhạc
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Trí tuệ
Có rất nhiều khái niệm về trí tuệ, theo quan điểm mang tính phổ biến nhất thì “Trí tuệ là khả năng thích ứng của cá nhân; bất kỳ trí tuệ nào cũng đều là một sự thích ứng, là khả năng tổng thể để hoạt động một cách có suy nghĩ, tư duy hợp lý, chế ngự được môi trường xung quanh. Trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết vấn đề và nhanh chóng thích nghi với tình huống mới.”
Trí tuệ là yếu tố tâm lý có tính độc lập tương đối với các yếu tố tâm lý khác của cá nhân: Trí tuệ có chức năng đáp ứng mối quan hệ tác động qua lại của chủ thể với môi trường sống, tạo ra sự thích ứng, tích cực của cá nhân; Trí tuệ được hình thành và biểu hiện trong hoạt động của chủ thể; Sự phát triển của trí tuệ chịu ảnh hưởng của yếu tố sinh học, cơ thể và chịu sự chế ước của các yếu tố văn hóa – xã hội.
Tác giả Howard Gardner đã đề cập đến sự tồn tại của 8 dạng trí tuệ, bao gồm: Trí tuệ ngôn ngữ;
trí tuệ logic – toán học; trí tuệ không gian; trí tuệ hình thể - động năng; trí tuệ âm nhạc; trí tuệ giao tiếp; trí tuệ nội tâm; trí tuệ tự nhiên học. Trong 8 dạng trí tuệ này, tác giả đi vào tìm hiểu về dạng trí tuệ âm nhạc.
2.2. Đặc điểm kiểu trí tuệ âm nhạc
Trí tuệ âm nhạc là khả năng cảm nhận, phân biệt, biến đổi và thể hiện các hình thức âm nhạc.
Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm đối với nhịp điệu, âm sắc, âm tần của một bản nhạc. Một
TRÍ TUỆ - ĐẶC ĐIỂM VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ ÂM NHẠC
Phan Thị Thịnh*
ABSTRACT
The article analysed the characteristics of musical intelligence, the characteristics of people with musical intelligence, which parents and educators would detect children’s musical ability early. In the other hand, it provided several of strategies to develop musical skills for children aged 0-13 through the following forms: listening to music, learning musical theories, learning and practicing singing and performing musical instruments.
Keywords: Development, musical intelligent, perception, talent Received: 20/04/2022; Accepted: 15/05/2022; Published: 10/06/2022
ThS Khoa GDPT - Trường CĐSP TW Nha Trang.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 21 Quý 2/2022
56
người có thể nắm bắt âm nhạc một cách chung chung, tổng quát hoặc nắm bắt âm nhạc một cách chính quy, có bài bản. Trí tuệ âm nhạc còn có thể là một kết hợp của hai dạng thưởng thức vừa kể trên.
Trí tuệ âm nhạc mang một số đặc điểm về nhận thức, đánh giá và sáng tác. Các đặc điểm đó thể hiện qua các thành phần trung tâm là âm vực, âm sắc và nhịp. Các yếu tố mang tính trung tâm nói trên đã đặt ra câu hỏi về vai trò của thính giác trong định nghĩa âm nhạc Khả năng thính giác có vai rò cốt yếu cho mọi sự tham gia vào âm nhạc. Âm nhạc là một chuỗi kế tiếp nhau những âm thanh được tổ chức sao cho gây được một ấn tượng thú vị và có thể dùng trí năng để nhận ra được những ấn tượng do nó tạo ra. Một người có năng khiếu hay có trí tuệ âm nhạc thì sự nhận biết nhạy bén về nhịp, âm sắc, âm vực rất rõ. Người có trí tuệ âm nhạc đã có sẵn “nhịp trong người”, thể hiện tác phẩm vững vàng về nhịp; nghe một tác phẩm, cảm âm nhanh nhạy, có thể thực hiện lại một cách chính xác.
Đặc điểm của người có trí tuệ âm nhạc: Dễ dàng chơi lại một đoạn nhạc hoặc hát lại một bài hát khi nghe qua một vài lần; Cảm thấy có cảm xúc đặc biệt khi nghe âm nhạc; Dễ dàng nhận ra những nốt nhạc lạc điệu trong một dàn/ban nhạc;
Dễ dàng nhận biết được các loại nhạc cụ đang chơi trong một dàn nhạc giao hưởng; Dễ dàng sáng tác ra một đoạn nhạc; Có thể chơi một vài loại nhạc cụ; Thích tìm hiểu về âm nhạc và có một vốn kiến thức phong phú về các thể loại âm nhạc; Giai điệu âm nhạc thường vang trong đầu họ bất cứ lúc nào;
Nghe và phân biệt được các thể loại nhạc khác nhau; Làm việc hiệu quả hơn khi có âm nhạc.
Khả năng cảm nhận âm nhạc của người có trí tuệ âm nhạc cao, họ cảm nhận âm thanh qua thính giác, khơi dậy trong họ tư duy tưởng tượng. Bắt đầu quá trình “thai nghén”, từ đó họ tái tạo âm thanh theo cách riêng của mình. Giai đoạn này được gọi là “sáng tác âm nhạc”, từ ý tưởng ban đầu, người sáng tác phát triển thành một tác phẩm hoàn chỉnh theo một logic tự nhiên. Sự phát triển này dựa vào các kỹ thuật sẵn có cùng với khả năng tiếp cận các dạng cấu trúc. Nhà soạn nhạc
gắn những ý tưởng ban đầu, những đoạn nhạc khớp nối hoặc đặt cho cân đối những yếu tố của ý tưởng gốc dựa trên các quy luật về tiết tấu, nhịp điệu, hòa thanh…. Tất cả những điều đó tạo nên một tác phẩm âm nhạc hoàn chỉnh.
Cảm giác về âm thanh của con người đã có khi còn là thai nhi trong bụng mẹ; khi được sinh ra, qua những lời ru, câu hát của ông, bà, cha, mẹ, khả năng âm nhạc của trẻ dần dần phát triển, trẻ có thể cảm nhận một cách đơn giản về tính chất giai điệu (sôi nổi, trữ tình…), có những động tác vỗ tay, nhún nhảy theo nhịp điệu bài hát, nhắc lại các câu hát ngắn…và qua đó, dần hình thành ở trẻ thị hiếu âm nhạc – trẻ có những biểu hiện hưởng ứng hoặc không đồng tình với thể loại nhạc nào đó.
Chính vì khả năng âm nhạc được bộc lộ sớm như thế, nên cần chú ý phát triển khả năng âm nhạc cho trẻ những năm đầu đời. Cần thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với các thể loại âm nhạc phù hợp với độ tuổi, để khả năng âm nhạc được phát triển một cách tự nhiên.
2.3. Vai trò của âm nhạc trong quá trình hình thành nhân cách con người.
Âm nhạc phản ánh cuộc sống, tâm tư tình cảm của con người. Nó đánh thức mọi xúc cảm sâu xa, nội tâm trong mỗi con người. Âm nhạc không chỉ là niềm vui, sự giải trí như con người ngày nay nghĩ mà nó thực sự có tác dụng đánh thức những điều tốt đẹp nhất trong mỗi con người. Từ thời cổ đại người ta đã coi âm nhạc là thuốc, phương thuốc của tinh thần. Vì vậy, trong mọi hoạt động của xã hội nhân loại từ xưa đến nay đều không thể thiếu được âm nhạc. Âm thanh, nhịp điệu tạo thành giai điệu, âm nhạc thuần chính sẽ mang đến cho con người sự thanh thản, tinh thần lạc quan, nghị lực sống, giúp con người hướng thiện từ đó nâng cao sức sáng tạo.
Nội dung và hình thức trong âm nhạc cũng góp phần vào việc phát triển trí tuệ, ý thức tập thể và khả năng nhận thức cho con người. Do đó, ta có thể thấy, âm nhạc tác động tích cực và sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người, đặc biệt là với trẻ nhỏ, bao gồm phát triển trí tuệ và đạo đức. Sức mạnh cảm hoá của âm nhạc lành mạnh sẽ giúp con người vươn tới một nhân cách
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 21 Quý 2/2022
57
toàn vẹn.
Nhân cách là toàn thể những thuộc tính đặc biệt mà một cá thể có được trong hệ thống các quan hệ xã hội. Trên cơ sở hoạt động và giao lưu nhằm chiếm lĩnh các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần.
Các thuộc tính đó bao hàm các mặt về đức, trí, thể, mỹ.Phát triển nhân cách con người là quá trình tác động toàn diện lên các mặt trên bằng các phương tiện khác nhau, trong đó âm nhạc là một trong những phương tiện hết sức quan trọng. Sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ của âm nhạc vào tâm tư, tình cảm sẽ giúp cho người nghe tự điều chỉnh nhân cách của chính mình.
Bản thân trong mỗi con người đã có tính Chân, Thiện, Mỹ, chỉ cần dùng âm nhạc để khơi gợi, đánh thức những điều tốt đẹp đó trong mỗi con người thì sẽ đưa con người trở về những giá trị tốt đẹp vốn có.
2.4. Các biện pháp phát triển trí tuệ âm nhạc 2.4.1. Phát triển trí tuệ âm nhạc cho trẻ từ trong bào thai cho đến 2 tuổi
Theo các nhà khoa học, ngay từ tuần thứ 16 trở đi của thai kỳ, em bé trong bụng mẹ đã có thể phản ứng lại với những âm thanh bằng cách di chuyển.
Vì vậy, lúc này người mẹ đã có thể bắt đầu cho con nghe nhạc. Nghe âm nhạc từ trong bụng mẹ, có những lợi trực tiếp, rõ ràng cho sự phát triển trí tuệ âm nhạc như: Âm nhạc sẽ giúp thính giác của bé phát triển hoàn thiện và tốt hơn; trẻ có thể nhận biết, phân biệt được các loại âm thanh khác nhau;
phát triển trí nhớ âm nhạc nhớ cho bé khi chào đời;
giúp trẻ phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc; phát triển năng lực sáng tạo âm nhạc.
Người mẹ nên thường xuyên cho thai nhi nghe các loại nhạc có giai điệu nhẹ nhàng, êm dịu, du dương, với tính chất vui vẻ, trong sáng, thuần khiết.
Thể loại âm nhạc tốt nhất cho sự phát triển trí tuệ âm nhạc của thai nhi là Nhạc Cổ Điển, đặc biệt là các tác phẩm nhỏ của nhạc sĩ Mozart và Beethoven.
Sau khi chào đời, từ 0 – 2 tuổi, trẻ đã biết phân biệt âm thanh, đặc biệt là giọng nói của mẹ và những người thân xung quanh. Lúc này, bên cạnh
việc tiếp tục phát triển trí tuệ âm nhạc của trẻ bằng cách thường cho trẻ nghe nhạc cổ điển của Mozart, Beethoven, Bach thì cha mẹ (và ông bà) nên hát ru cho trẻ ngủ. Những âm điệu của hát ru thường nhẹ nhàng mà thấm đẫm tình thương của ông bà, cha mẹ sẽ tăng cường cho trẻ cảm xúc sâu sắc về âm nhạc với quê hương nơi trẻ sinh ra.
2.4.2. Phát triển trí tuệ âm nhạc cho trẻ từ 2 – 6 tuổiTừ 2 tuổi hầu hết trẻ đã có thể giao tiếp được với cha mẹ bằng ngôn ngữ. Cơ quan phát âm của trẻ đang dần tiếp tục phát triển, trí nhớ âm nhạc đang hình thành và trẻ có khả năng tái hiện lại âm thanh ở mức đơn giản thông qua bộ máy phát âm.
Thời kỳ từ 2 – 6 tuổi, não bộ của trẻ đang phát triển với tốc độ rất nhanh. Vì vậy, phát triển trí tuệ âm nhạc cho trẻ giai đoạn này rất quan trọng.
Giai đoạn này, các thể loại âm nhạc cho trẻ nghe cũng cần đa dạng, phong phú hơn. Các tác phẩm âm nhạc cổ điển vẫn luôn cần cho trẻ cảm thụ, đặc biệt là tác phẩm của các nhạc sĩ Mozart, Beethoven, Bach, Mendelssohn, Chopin, Shubert, Tchaikovsky, Liszt, Vivaldi…;
Việc thường xuyên cảm thụ các tác phẩm âm nhạc cổ điển sẽ giúp trẻ hình thành thẩm mỹ âm nhạc, qua đó phát triển thính giác, mức độ thẩm thấu âm nhạc ngày càng được nâng cao. Thời kỳ này âm nhạc cổ điển cho trẻ nghe chủ yếu vẫn là các bản độc tấu piano, violon, hòa tấu, tam tấu, tứ tấu, ca khúc... và một số concerto, giao hưởng không quá lớn.
Đồng thời cho trẻ nghe các bài hát dân ca, các tác phẩm âm nhạc truyền thống cho nhạc cụ cổ truyền Việt Nam như đàn Nhị, đàn Bầu, đàn Nguyệt, đàn Tỳ bà, đàn Tranh, Sáo trúc…
Nghe âm nhạc cổ truyền với nhiều hình thức:
hát, diễn tấu các nhạc cụ cổ truyền sẽ giúp trẻ phát triển trí tuệ âm nhạc về mặt cảm xúc, sự gắn kết với quê hương, nguồn cội, phát triển khả năng thẩm thấu âm nhạc phương Đông. Bên cạnh đó cũng nên cho trẻ nghe các bài hát thiếu nhi phù hợp lứa tuổi, dễ hát, dễ thuộc để trẻ có thể bắt chước và hát theo một cách dễ dàng giúp phát triển khả năng ca hát cho trẻ
2.4.3. Phát triển trí tuệ âm nhạc cho trẻ từ 6
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 21 Quý 2/2022
58
– 13 tuổi
Giai đoạn từ 6 – 13 tuổi là thời kỳ mà các kỹ năng về âm nhạc của trẻ cần được phát triển mạnh mẽ nhất. Ở độ tuổi này, trẻ đã có một quá trình thẩm thấu âm nhạc bằng tai nghe cả âm nhạc phương Tây và âm nhạc phương Đông, trí tuệ âm nhạc của trẻ được hình thành ở một mức độ nhất định. Lúc này, thể chất của trẻ đã có thể đáp ứng được việc sử dụng các loại nhạc cụ. Vì vậy, trẻ không chỉ tiếp tục cảm thụ âm nhạc thông qua nghe các nghệ sỹ diễn tấu nữa mà chính trẻ phải là đối tượng thực hiện trình tấu các tác phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật.
Việc hướng cho trẻ nghe các tác phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật cao vẫn được thực hiện thường xuyên. Bên cạnh các tiểu phẩm âm nhạc cổ điển nhỏ của phương Tây, trẻ cần được nghe nghe những tác phẩm lớn như Giao hưởng (đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi 10 – 13). Các tác phẩm âm nhạc phương Đông cũng cần được chú trọng để bồi đắp trí tuệ âm nhạc cho trẻ.
6 tuổi, trẻ bắt đầu đến trường học nên khả năng tiếp thu kiến thức về âm nhạc sẽ tốt hơn. Song song với việc nghe các tác phẩm âm nhạc thì trẻ cần có những hiểu biết về kiến thức âm nhạc như nhạc lý, hòa âm cũng như rèn luyện kỹ năng đọc nhạc, nhất là kỹ năng trình tấu âm nhạc. Vì vậy, cha mẹ cần tạo điều kiện thuận lợi để trẻ được học âm nhạc một cách bài bản, có hệ thống. Tùy theo khả năng về âm nhạc cũng như sở thích, thiên hướng tính cách để hướng cho trẻ học các loại nhạc cụ, học hát cho phù hợp. Chẳng hạn trẻ có giọng hát đẹp, trong trẻo và thích được ca hát thì cho trẻ rèn luyện kỹ năng ca hát; trẻ thích học đàn piano hoặc nhạc cụ dân tộc cổ truyền thì cho trẻ học một cách bài bản.Trẻ có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc mà muốn học cả 2, 3 nhạc cụ thì tùy vào mức độ tiếp thụ mà cho học. Tuy nhiên, việc cho trẻ học nhiều nhạc cụ không nên thực hiện cùng một thời điểm mà nên rải ra ở các năm, khi trẻ đã nắm vững tương đối những kỹ năng cơ bản của một nhạc cụ thì mới cho học tiếp nhạc cụ khác.
Ở độ tuổi 12 – 13, với những trẻ có khả năng sáng tạo cao, kỹ năng trình tấu nhạc cụ tương đối
tốt, trẻ có thể sáng tác ra những giai điệu hoặc những đoạn, bài nhạc nhỏ. Lúc này, trẻ đã hình thành thẩm mỹ âm nhạc, trí tuệ âm nhạc rõ rệt, cần tiếp tục được đào tạo, phát triển theo hướng chuyên sâu đúng với sở trường âm nhạc cTrong quá trình tiếp xúc âm nhạc ở gia đình, trường học, cha mẹ và các nhà giáo dục cần phát hiện sớm những trẻ có năng khiếu nổi trội để bồi dưỡng. Việc bồi dưỡng này cần được thực hiện từ từ, không nóng vội nhưng phải đi theo một quy trình bài bản, có hệ thống. Trẻ cần được bổ sung khả năng nhận thức trực giác bằng một sự nhận thức âm nhạc, nhưng cần động viên, khuyến khích, định hướng cho trẻ tri giác âm nhạc một cách tự nhiên, không gò ép.
Ở một số nước, trong đó có Việt Nam, việc phát triển khả năng âm nhạc cho trẻ được tiến hành từ lâu. Ở các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp (các Nhạc viện và các trường Văn hóa nghệ thuật) đã mở ra các lớp âm nhạc trình độ Sơ cấp, tuyển chọn trẻ từ 9 tuổi. Ở đó, trẻ phải qua vòng sơ tuyển về thẩm âm và tiết tấu (đây là hai vấn đề cơ bản của âm nhạc); những trẻ thật sự có khả năng được tuyển chọn vào và được đào tạo một cách chính quy theo mô hình.
3. Kết luận
Để có thể phát triển nhân cách con người một cách toàn diện thì những người cha, người mẹ, các nhà giáo dục trong quá trình giáo dục trẻ cần hiểu rõ đặc điểm của Trí tuệ âm nhạc để có những phương pháp phát triển Trí tuệ âm nhạc cho trẻ ngay từ khi còn là thai nhi cho đến 13 tuổi. Đây là giai đoạn vàng cho sự phát triển tư duy, thẩm mỹ cũng như các kỹ năng hoạt động âm nhạc.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Thị Hòa - Ngô Thị Nam (1995), Giáo dục âm nhạc, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. Howard Gardner (1983) Cơ cấu của trí khôn, NXB Tri thức, Hà Nội.
3. Lý Lợi (2014), Âm nhạc và thai giáo, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
4. Maynard Solomon (2020), Mozart, NXB Dân Trí, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Nhung (1988), Giảng nhạc, Nhạc viện Hà Nội.