VÀN HÓA
VÃN HÓA EẢN EỊA
ở CÁC NƯỚC DÔNG NAM Á LỤC DỊA
HÀ THỊ ĐAN*
* TS, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
Ván hóa Đông Nam A ngày nay là nén ván hóa thống nhất trong đa dạng, giàu bàn sác. Nó là tổnghòa, đan xen của nhiều sàc mau van hóa bao gồmcà ván hóa bàn địa lần văn hóa ngoại lai do ánh huúng từ cac cuộc giao lull,tiép biên văn hoa vói Án Độ, Trung Quốc, Ã Rập và phuong Tây.
Trong bài viết này, chúngtói tiép cậnvói một sờ đạc điểm cùa ván hóa hãn địa 0 các mroc Đòng Nam Á lục địa bao gồm:
Campuchia,Myanmar, Láo, Thái Lan.
1. Khái quát về văn hóa bảnđịa Đông Nam Á
Rất nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa khu vực đều khẳng định Đông Nam Á có một nền văn hóa bàn địa độc đáo. Văn hóabảnđịa“là văn hóa tại chồ, có nguồn gốc tại chồ, docưdân tại chồ sáng tạo ra”(1). Ở Đông Nam Á, lớp vănhóa bàn địa là lớp vănhóa cô nhấttính từ khi con người xuất hiện ở khu vực
này cho đến thế kỷ thứnhất trước công nguyên - lớp văn hóa thuần khiết docưdân Đông Nam Á tạo nên từ thời tiềnsừvà sơ sử trước khingười Đông Nam Á có tiếp xúc văn hóa với thế giới bên ngoài(2).
Không phải ngầu nhiên, trong công trình cổsử cácquốc giaÂn Độ hóa ở ViễnĐông, G.E. Coedes đà dànhhẳn một chươngsáchđểmô tả kháiquát cơ sở hình thànhvà nhừng nét chính cùa nền vãn hóa bản địa ĐôngNam Á.Theo tác giả, “...người ta có thể chỉ ra ở đây những nét đặc trưng cùa nền vãn minh này, thídụ như về mặt vật chất là canh tác ruộng nước, sự thuần dường trâu bò,việc sử dụng một cách thôsơ các kim loại, kỳ xảo đithuyền; vềmặt xà hội, vai ưòquantrọng của giới nừ và quan hệ nổidõi theo dòngmẹ, tổ chức xàhộixuất phát từnhừng nhu cầu thiếtyếu của việc canh tácruộng ngập nước; vềmặt đời sống tôn giáo: tínngường vật linh,tụcthờ cúng tổ tiên và thờthần đất... vềmặt thần thoại, cómột lường nguyên về vũ trụ, đối lập núi với biên...; về mặt ngôn ngừhọc, cách dùng nhừng tiếngnói đơn âm, có được một khả năng phongphúđểbiếntấunhư vào nhữngtiềntố, hậutố và trung tố” (3).
ơViệtNam, nhừng công trình nghiên cứu về văn hóa Đông Nam Á củacác họcgiàPhạmĐức Dương, Nguyền Tấn Đẳc,Mai Ngọc Chừ dựatrên nguôntư liệu khảo cố học, dântộc học, thư tịch cô đà gắng làm sáng tỏ nền vănhóa bản địa ấy. Nó nảy sinh trên cơ tầng văn minh nông nghiệp lúanước. Neu nhìn
Đông Nam Á (rộng hơn là phương Đông) từ góc độ vãn hóa học, có thể thấy: khác với người phương Tây (tồn tại trong môi trường giá lạnh, khí hậu khô, thực vật không thê phát triển, chì cónhừng đồng cỏ mênh mông - sống chủ yếu bàng nghề chăn nuôi), người Đông Nam Á sống trong môi trường nẳng nóng, mưa nhiều, độ âm cao, có nhừng con sông lớn cùng các đồng bằng trù phú, thích hợp chothực vật sinhtrưởng nênsống thiên về nghềtrồng trọt. Vì thế, loại hình văn hóa gốc của phương Tây là du mục, cònloại hình văn hóa gốc của ĐôngNam Á là nông nghiệp (4). Loạihình văn hóa gốc nông nghiệp ở Đông NamÁcó nhừngđặctrưng cơbản sau:
về cách ứng xứ với môi trường tựnhiên, cư dân Đông Nam Á phụ thuộc rất nhiều vào trời, đất, nước... Vậy nên, trong mối quan hệ với tự nhiên, người Đông Nam Á luônchúý và đề cao sự hòa hợp.
Trong văn hóa nhận thức, do xuấtphát từ nền nông nghiệp lúa nước, phải “Trôngtrời, trông đất, ưông mây/ Trông mưa,ưông nắng, ưôngngày, trông đêm”... nên từ xa xưa, người Đông Nam Á đà hình thành lối tư duy tổng hợp, biện chứng. Những thứ mà ngườilàm nông nghiệp quan tâm không phải làsự tồn tạiriêng rẽ mà là quan hệqua lại giữa chúng. “Tổng hợp”baoquát được mọi yếu tố;còn“biện chứng” chú trọng tới quan hệgiừacácsự vật, hiện tượng.
về mặt tổ chức cộng đồng, người ĐôngNamÁ sống theo nguyên tắctrọng tình, cư xửbình đẳng và dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng, xà(văn hóa làng, xà rađời trước khicónền quàn chủ phong kiến và dân chủtư sản). Văn hóa làng, xà với cấu trúc của nó suốt hàng ngàn năm lịch sử góp phần hình thành bản sắc của vănhóa Đông Nam Á. Hàng xóm sổng lâu ngày với nhau phải tạo ra sự cô kêt, hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghía làm đầu... Lối
Số 530 Tháng 4-2023
28
u CÔ TRUYỀN
Sốngtrọng tình này tấtyếudầnđến thái độ trọng đạo đức,trọng vãn, đề cao người phụ nừ.
Trong ứng xử với môitrườngxã hội, tư duy biện chứng và tổng hợp quy địnhthái độ mềm dẻo, dung hợp trong tiếp nhận thế giới xungquanh của người Đông Nam Á. Vì thế,về sau,khitiếp xúcvới những nền văn hóa khác, các dân tộc Đông Nam Á đã linh hoạt tiếp biến tinh hoacủanhữngnền vănhóangoại lai để làm giàu chonền văn hóa dântộcminh, tạora động lực pháttriển văn hóa xứ sở. Rất nhiều sắc màu văn hóa vổncó gốc gác khác nhau đà cùng tồn tại trong mồi quốc gia và trong toàn khu vực là vì thế.
Thực tế trên đây cho thấy, khuvựcĐông Nam Á có mộtnền văn hóa bản địa ở cả phương diện vật chất lẫn tinh thần. Và khi đề cậpđến nền văn hóa này ở các nước Đông Nam Á lụcđịathìngoài những đặc trưng mang tính “mẫu sốchung”, mồi nước do vị trí địa lývànhừng đặc thù về lịch sử- văn hóalại có nhừngđặc điểmriêng.
2. Nền vănhóa bản địa ở cácnướcĐông Nam Á lục địa
Từ góc nhìn địa lý, khu vực Đông NamÁ ngày nay có haivùnglành thổ khác nhau: một phần làĐông Nam Á lụcđịa bao gồmlành thổ cácnước Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia,ViệtNam; phần cònlại là Đông NamÁ hải đảo bao gồm lành thổ các nước:
Malaysia, Indonesia, Philippines, Brunei, Singapore và Đông Timo.Do vậy,bên cạnh nhừngđặc điểm văn hóa chung của toàn khu vực thì các nước thuộc hai vùng lãnh thô trên cũng ít nhiều có những nét khác biệt. Trong khi cưdân ở cácnước ĐôngNam Á hải đảo có truyền thống đi biển thì cư dân ở cácnước Đông Nam Á lục địa lại thiên về làm nông nghiệp, nhấtlà nông nghiệplúa nước. Chính loạihình văn hóa gốc nông nghiệp đàsàn sinh ra nhừnggiá trị vãnhóa tinhthần của cưdân ĐôngNam Á lụcđịa trước khi họ có sự giaolưu, tiếp xúcvới các quốc gia bênngoài.
Đólàcáctínngườngnguyênthủy như: tín ngường đa thần giáo,tín ngưỡng thờ cúng tổtiên...
về tín ngưỡng đa thần giảo: người ĐôngNam Á lục địa xưa kia là những cư dân làmnông nghiệp lúa nước nên đờisống hằng ngày của họ cũng như các công việcsản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tựnhiên.
Với tính chất này, họ luôn sợ hài và sùng bái cáchiện tượng tự nhiên. Bởi họ tin rằng, tất cả mọi hiện tượng đó, nhất là hiện tượng tựnhiên cực đoan đều do thầnlinh sinhra, tổ tiên của họ cũng là con cháu của thần. Từ đó,mồi người dân cảm thấycó sự linh thiêng, huyềnbí trong trời đất, trong tổ tiên ôngbà của mình. Họ tự nguyện thờ cúng. Sựthờ cúng ấy lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dần dần
trởthànhtín ngường. Theo GS Mai Ngọc Chừ: “Ở Myanmar, Lào, Campuchia..., đồng thời với việc thờthần Nước, người ta còn thờ cảthần Sông - vị thần giừ vai tròchính trong việccung cấp nước cho đồng ruộng. Ngoài ra,liên quan đến nước làcác hiện tượng mây, mưa, sấm, chớp và các hiện tượng này cũng đóng mộtvai trò đáng kê trong đời sổng cư dân nôngnghiệp. Do đó, các vị thần Mưa,thần sấm,thần Chớp, thần Gió cũngđược tôn thờ ở mọinơi” (5).
về tin ngưỡng thờ củng tổtiên', xuất phát từquan niệm“vạn vậthừu linh” và nhớ ơn tổ tiên,mong nhận được sự hỗtrợ từ phía các thếlựcsiêu nhiên mà các cư dân Đông NamÁ lục địa duytrìtục thờcúng tô tiên.
ỞCampuchia, hằng nămvào tháng9 dương lịch có lễ ĐônTà (Prôchungbârì) với quan niệm đó là thời gian ông bà tổ tiên được lên thăm con cháu trong vòng 15 ngày (6). Đây là một trong những lề hội thường niên lớn nhất của người Campuchia.
Theo đó, các gia đình làmbánh dâng lên tổ tiên thể hiện sự thành kính của mìnhđổi với người đà khuất và mong muốn được tôtiên phù hộ độ trì trong cuộc sống cũng như côngviệc.
ơLào, người dân quanniệm mọivật đều có linh hồn, ai đó dẫu mất đi thì linh hồn vẫn tồn tại. Những linh hồn này nhậpvào một vật thê nào đó mang uy lực thì trở thành vậtthiêng. Con ma(phỉ) có thểgiúp đỡ hoặc cũng có thê gây hại cho con người nên đà hìnhthànhhai kháiniệm “phỉ đi” (malành)và “phỉ hại” (madừ) (7). “Phỉ đi” là mabản, manhà (ông bà, cha mẹ, người có công) thường trú quanh nhà, bản mườngđể che chở,bào vệ con cháu.
ơ Thái Lan, việc thờ cúng ông bàtổ tiên không tiếnhành trong từng gia đình màcà làng xóm. Đến ngày tế lề, mọi người sinh sốngtrong xómlàng đều quy tụ về một địa điểm chungnàođó để cùng tham dự. Lề vật chù yếu là gà, rượu,xôi, nước... Việc tế lề thường do một người cao tuổi, có đạo đức, đảm nhiệm vaitrò trunggianliên lạc giữaôngbà tổ tiên với ngườidân trong xóm làng tiến hành (8).
Bên cạnh các tín ngường nói trênthì hệ thống thần thoại, truyền thuyết bản địaphong phú cũng biểu hiện cho đời sống văn hóatinhthần của người Đông Nam Á thời tiền - sơsử dựa trênloại hình văn hóa gốc nông nghiệpgắnvới việc trồng cây lúa nước là chủ yếu.
Khi khảo sát thầnthoại các nước ĐôngNam Á, chúng tôi thấy nổi bậthơncả là các truyện giải thích nguồn gốcconngười vàcác nhân vật văn hóa.
về mảng thần thoạigiải thích nguồn gốc con người', hầu hết các dân tộc ĐôngNam Á lục địa đều giải thích nguồn gốc con người sinh ra từ cây cối.
Số 530 Tháng 4-2023
29
Thầnthoại Lào giảithích: Tất cả các tộc người trên đất Triệu Voi đều chui ratừ quả bầu mẹ (9). Người LàoThong sinh ra trước, rồi đến người Lào Lùm, chui rasau cùng là ngườiLàoXũng.
Ỏ cácnước Đông Nam Á lục địa, khi đề cập đến cây cối, khôngthể không nhắc tới vai trò của câylúa.
Không phải ngẫu nhiên màtrong đời sống văn hóa tinhthần của người dân ncũ đây, bên cạnh mảng thần thoại về nguồn gốctộc người (từ cây cốisinh ra) còn có mảng thầnthoại về nhânvật văn hóa liênquanđến quá trìnhcon người thuần dường cây lúa. Dưới đây là mộtcâu chuyệntrongsổ đó: “Có anh thanh niên dũng cảm muốn lên thiênđình xem trên đó ngườita làmgì.Anh ta cười lên một con ngựacó cánhvà bay vào một làng ở chín tầng mây. Anh nhìnthấymặtười đang làm khô thóc.Anh không biết đó làlúa nên mới hỏi một người dân trên thiên đình: Cái gì thế này?
Người ười ngạc nhiên vì sự ngờ nghệch của anh ta nên hỏi lại: “Anh từđâuđến? Anhkhôngphải là cư dân ở đây à?”. Anhthanh niên đáp: “Tôi từ hạ giới lên”. Người trời mách anh thanhniên đến gặp thần Pue Lamola. Thần tiếp niềm nở, mời anh ăn cơm.
Món cơm làm anh thanh niên ăn thấy ngon miệng, thích thú. Anh ngỏýxin thần đem một ít lúa xuống mặt đất. Thần khôngcho. Khi anh đi qua đám thóc đang phơi thì một số hạt mắc vào chồ da nẻ ở gót chân anh. Anhđem nhừng hạtthóc ấyvề. Bấy giờ, lúađược gieo ưồngkhắp chốndưới trần gian” (10).
Từcâuchuyện ưên, chúng ta thấycả một quátrình tiến hóa:con ngườitừ chồ sốngbằngsăn bắt, hái lượm đã biếtcanhtáclúa, hình thành nền vãnhóa/ văn minh nông nghiệp. Kho tàngthần thoạiở các nước Đông NamÁlụcđịacòn có nhữngtruyện về sự tích cây lúa, giải thích tại sao ngày xưa hạt lúa to, tự đi về nhà khôngphải gặt hái màbây giờ hạt lúa lại nhỏ và cứở ngoài đồng, không tự độngđivề nhà. Nhiều vãn bản truyệnkhácthìnói về các tục lệ thờ cúng cây lúa cũng như nhừng nghi lề nông nghiệp liên quan trực tiếp đến quá trình sinhtrưởng và thu hoạch loại câylương thực chínhnày. Tiêu biểu và sốngđộng nhất có lẽ là nghi lễ vun thóc (Khun khảu nay lan),lễmừng cơm mới (Bun Khau chì) ở Lào... Nghilễvunthócđượctiến hành khi lúađã đập xong và vun thành đống ở ngoài sân. Nghi lề này bắt nguồn từ một truyện cổkểvề người anh không làm lễ chín lần ưong một vụlúa nênthất bát, còn người em làm đủ nênbộithu.Ngườiem sống sung túcnhưng vẫn khôngquên các nghilễthờ câylúa(11).
Có thể thấy, cưdân Đông Nam Á nói chung vàcư dân các nước ĐôngNam Á lục địa nói riêng đã sáng
tạo ra nền văn hóa/ vănminh nông nghiệpmà thành tựu rõ nhất là nền nông nghiệp lúa nước. Tại đây, người tađã trồng được các loạicâynhư: bầu, khoai, chuối, mít,cọ, ưe... Trongđó, lúa là cây lương thực quan trọng nhất. Sự xuất hiện của câylúakhông chỉ giải quyếtvấnđềlương thực cho con người lúc bấy giờ mà còn dẫn đến những biếnđổi sâu sắc trên các phương diệnkinh tế, văn hóa, xã hội Đông Nam Á.
3. Kết luận
Hiện nay, trong dòng chảycủa văn hóa, văn minh nhân loại thì các nước Đông Nam Á nói chung, Đông NamÁ lụcđịa nói riêng cómộtnềnvăn hóa thống nhất trong đa dạng, giàu bản sắc. Trên nhiều phương diện, có thể nói, những yếu tố thuộc đời sống vãn hóa tinh thần chính là nền tảng, truyền thống, tập quán của cư dân Đông Nam Á lục địa trước khi có sự giao lưu,tiếp xúc với thế giới bên ngoài,vềsau, khi tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, Ả Rập, phươngTây... các yếu tố vãn hóabản địa đó sè biết tíchhợp những giá trị phù hợp để tạo nên một bức khảm văn hóa Đông Nam Á đặc sắcnhư chúng tađã thấy! ■
H.T.Đ
1. Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Đông Nam Ả, Nxb Đại học Quốc gia Thành phổ Hồ Chỉ Minh, 2005.
2. Nguyễn Đức Ninh (chù biên), Xây dựng cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr.13.
3. George Coedes (Nguyễn Thừa Hỷ dịch), cổ sử các quốc gia Ân Độ hóa ở Viễn Đông, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2011, tr.40-41.
4. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giảo dục, Hà Nội, 2008, tr.21-22.
5. Mai Ngọc Chừ, Văn hóa Đông Nam Ả, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 124.
6. Lương Thị Thoa - Nguyền Thị Kiều Trang, Tìm hiếu tin ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở các quốc gia Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Ả, số 4, 2006, tr.41.
7. Tôn giáo tín ngưỡng Lào, ,
8-8-2014.
yeutienglao.blogspot.com
8, 10. Đức Ninh (chù biên), về một so vấn đề văn hóa dân gian Đông Nam A, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, ứ. 159-160, 66.
9. Nhiều tác giả, Văn học các nước Đông Nam Ả, Viện Đông Nam Á xuất bản, 1983, tr.65.
11. Quế Lai, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Đức Ninh, Nguyễn Hào Hùng, Tìm hiểu văn hóa Lào, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1995, tr.47.
Số 530 Tháng 4-2023