• Tidak ada hasil yang ditemukan

PDF Những Vấn Đề Rủi Ro Trong Sở Hữu Chéo Của Ngân Hàng

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "PDF Những Vấn Đề Rủi Ro Trong Sở Hữu Chéo Của Ngân Hàng"

Copied!
4
0
0

Teks penuh

(1)

TẠP CHÍ CONG IMNC

NHỮNG VẤN ĐỀ RỦI RO

TRONG SỞ HỮU CHÉO CỦA NGÂN HÀNG

• NGUYỀN THÀNH TRUNG

TÓM TẮT:

Sở hữu chéo giữa các ngân hàng cho đến thời điểm này vẫn luôn là vấn đề nan giảikhiến nhiều tổ chức tín dụng chưa thể giải quyết ổn thỏa. Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, tình trạng sở hữu chéo giữa các ngân hàng đang tiềm ẩn những rủi ro, đặc biệt là vấn đề nợ xấu có thể gây ảnh hưởng tới quá trình tái câu trúc hệ thống ngân hàng. Trong bài viết này, tác giả bàn về những vấn đề rủi ro trong sở hữu chéo của ngân hàng, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực của sở hữu chéo.

Từ khóa: ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng, sở hữu chéo.

1. Đặt vấn đề

Sở hữu chéo luôn có tác động hai mặt đối với nền kinh tế và với bản thân chủ thể các ngân hàng, doanh nghiệp. Sở hữu chéo có thể góp phần cải thiện năng lực về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm, thúc đẩy quản trị kinh doanh tốt hơn, mở rộng quy mô thị trường. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sở hữu chéo lại gây ảnh hưởng tiêu cực, nhất là khi sở hữu chéo bị lạm dụng để phục vụ lợi ích nhóm hay để che giâu tình trạng khó khăn về tài chính của ngân hàng và doanh nghiệp có liên quan.

2. Rủi ro trong vân đề sở hữu chéo của ngân hàng thương mại (NHTM)

2.1. Thực trạngsở hữu chéo của các NHTM hiện nay

Theo Thông tư 36/2014/TT-NHNN do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hànhquy định, một NHTM chỉ được nắm giữ cổ phiếu tôi đa không quá 2 tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức tín dụng khác là công ty con của ngân hàng đó; NHTM nắm giữ tại tổ chức tín dụng khác phải

dưới 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết và không được cử người tham gia hội đồng quản trị (HĐQT) tổ chức tín dụng mà ngân hàng mua mua cổ phần, trừ trường hợp tổ chức tín dụng đó là công ty con của ngân hàng hoặc NHTM tham gia tái cơ cấu, xử lý tổ chức tín dụng yếu kém theo chỉ định của NHNN.

Các trường hợp ngoại lệ được thực hiện khi việc mua, nắm giữ cổ phiếu nhằm tái cơ cấu, hỗ trợ tài chính cho tổ chức tín dụng gặp khó khăn và được NHNN châp thuận, hoặc chỉ định theo quy định của pháp luật. Vì thế, theo lộ trình các NHTM đang nắm tỷ lệ sở hữu cổ phần tại hơn 2 tổ chức tín dụng khác phải tính đến việc thoái vốn trong 1 năm kể từ khi Thông tư36 có hiệu lực (ngày 01/2/2015).

Tuy nhiên sau hơn một năm, các NHTM vẫn gặp nhiều khó khăn khi thực hiện quy định tại Thông tư36/2014/TT-NHNN về giảm sở hữu chéo của các NHTM tại tổ chức tín dụng khác.

Maritime Bank đã chuyển nhượng 64,2 triệu cổ phiếu MBB đang sở hữu - tương đương 4% vốn -

2Ó4 SỐ 17 - Tháng 7/2021

(2)

TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG-BẢO HIỂM

cho nhóm các nhà đầu tư thuộc Dragon Capital.

Maritime Bank không công bố mức giá chuyên nhượng, tuy nhiên tính theo giá cổ phiếu của phiên 19'2 thì số tiền mà nhà băng này thu về xấp xỉ 1.000 tỷ đồng. Kết quả hiện tại Maritimebank chỉ

>n nắm dưới 5% tại MB từ mức 8,96% trước đó.

VC sở nt

p p

Bên cạnh đó, Vietcombank từng sở hữu trên 5%

n tại MBBank và Eximbank, nhưng đã giảm tỷ lệ hữu xuống dưới 5% kể từ cuối năm 2018 và đầu m 2019. Trước đó, Vietcombank đã thoái 3,97%

vốn tại OCB; 4,3% vốn tại Saigonbank và 10,91%

vốn tại Công ty Tài chính cổ phần Xi măng (CFC).

Tương tự, VietinBank cũng đã thoái 5,48% vốn tại Saigonbank, Eximbank thoái gần 8% vốn tại Sacombank,...

Thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo quyết liệt xử lý sờ hữu chéo trực tiếp, nhưng do việc thoái vốn còn ' rụ thuộc vào tìm đối tác và thời điểm thoái vốn I lù hợp để bảo toàn vốn nhà nước nên chưa theo kip lộ trình đưa ra.

Thực tế cho thấy, sở hữu chéo ngân hàng mặt ngoài tuy giảm, nhưng vẫn còn đâu đó bên trong sự lòng vòng, lắt léo của các mối quan hệ, “ẩn mình”

dưới nhiều tầng lớp do lợi ích nhóm điều phối. Điều rày có thể gây hệ lụy khôn lường cho hệ thống

gân hàng, cũng như nền kinh tế.

r

Quá trình xử lý sở hữu chéo đã và đang có những tín hiệu tích cực, song cũng cần thẳng thắn nhìn nhận, còn có nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong quá trình thoái vốn. Thực tế, vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo có ở hầu hết các hệ thống lài chính, hệ thống các tổ chức tín dụng trên thế giới với quy mô và độ phức tạp khác nhau. Việt Nam, sỏ hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống tổ Ễhức tín dụng gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực, làm ia tăng rủi ro hệ thông, tạo điều kiện cho các ành vi chuyển vốn lòng vòng, tăng vốn điều lệ không thực chát,...

2.2. Rủi ro từ sở hữuchéo của các NHTM 2.2.1. Rủi ro tăng vốn ảo

Trong một thời gian ngắn, để tăng được lượng vốn hàng nghìn tỷ đồng không phải là điều đơn giản. Để lách quy định này, thông qua sở hữu chéo, cổ đông của ngân hàng X có thể đi vay vôn của ngân hàng Y để đầu tư vào ngân hàng X và ngược

lại; Hoặc tổng công ty A sở hữu doanh nghiệp B, đồng thời sở hữu doanh nghiệp c, khi doanh nghiệp B và c cùng đầu tư vào ngân hàng X, thì A đương nhiên là chủ sở hữu của ngân hàng X (trong đó B và c là sở hữu trực tiếp, A là sở hữu gián tiếp). Nhiều ngân hàng có số vốn tăng nhanh bất thường, trong đó một phần là nhờ sở hữu chéo. Tuy nhiên, nguồn vốn của từng ngân hàng tăng, nhưng tổng thể nguồn vốn toàn hệ thống thì không hề thay đổi, bởi thông qua hoạt động đi vay để đầu tư hay góp vốn lẫn nhau thì dòng vốn chỉ chảy qua chảy lại giữa các ngân hàng với nhau, tăng lên trên giấy tờ sổ sách mà thôi. Điều này kéo theo hệ lụy làm sai lệch về quản trị ngân hàng cũng như việc đánh giá rủi ro, trích lập dự phòng hay giám sát đối với hoạt động tài chính nói chung.

2.2.2. Rủi ro thâu tóm đối với hoạt động ngân hàng

Theo quy định hiện nay, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu quá 5%, một tổ chức không được sở hữu quá 15%, cổ đông và những người liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng (trừ những trường hợp đặc biệt theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ) nhằm hạn chế việc thâu tóm ngân hàng trái pháp luật. Tuy nhiên, để lách các quy định trên, các cổ đông sở hữu số vốn nhỏ hơn 5% vốn điều lệ lại ủy quyền cho những cá nhân tổ chức không liên quan với mình để đầu tư vào một ngân hàng. Như vậy, khi sở hữu chéo diễn ra, quy định này dường như bị vô hiệu hóa.

Sở hữu chéo khiến cho một số người sở hữu đồng thời nhiều ngân hàng và doanh nghiệp khác nhau, từ đó chi phôi hoạt động kinh doanh ngân hàng. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua hoạt động cấp tín dụng của các NHTM, mặc dù có quy định các ngân hàng không được phép cho cổ đông của mình vay vốn, nhưng trên thực tế họ lại có thể cho vay đốì với các công ty, doanh nghiệp con của những cổ đông này. Một khi giám sát không chặt chẽ, các chủ sở hữu có thể chi phôi để dòng tiền chuyển sang cho vay các dự án sân sau của mình.

Nếu sở hữu chéo bị lạm dụng sẽ khiến hoạt động tài chính nội bộ bị méo mó, tiềm ẩn nguy cơ

SỐ 17-Tháng 7/2021 265

(3)

TẠP CHÍ CÔNG ĨHIÍ0NG

phá sản của ngân hàng, đồng thời đe dọa đổ vỡ lớn cho hệ thống chung.

2.2.3. Tiềm ẩn rủi ro hệ thống

Do mạng lưới phức tạp trong môi quan hệ sở hữu giữa các ngân hàng, khi xuất hiện rủi ro rất dễ xảy ra hiệu ứng domino không chỉ trong hoạt động ngân hàng. Ban đầu rủi ro xảy ra với một hoặc một vài tổ chức riêng lẻ, sau đó sẽ nhanh chóng lan ra các tổ chức khác bởi những mối liên quan về nguồn vốn kinh doanh. Tiếp đó, rủi ro sẽ lan ra hoạt động của các doanh nghiệp bởi quan hệ giữa dòng vôn đầu tư, cho vay, hoạt động sản xuất - kinh doanh của ngân hàng, bởi mâu thuẫn giữa dòng vốn ảo chỉ có trên sổ sách và hoạt động sản xuất - kinh doanh thực.

Các mối quan hệ sở hữu chéo càng phức tạp bao nhiêu thì rủi ro hệ thống càng tăng lên bấy nhiêu, đặc biệt khi bị cộng hưởng bởi các khoản đầu tư chéo đều thua lỗ và thị trường trầm lắng ngoài dự đoán ban đầu.

Việc cho phép một ngân hàng mua cổ phiếu ngân hàng khác, các cổ đông được sở hữu cổ phiếu nhiều ngân hàng khác nhau là cần thiết; nhưng cũng cần thiết phải bổ sung các quy định giới hạn nghiêm ngặt hơn về mức sở hữu cổ phần và quyền tham gia lãnh đạo của mỗi cá nhân, kiên quyết châm dứt tình trạng tồn tại những ngân hàng chỉ do 1 - 2 cổ đông hoặc một nhóm cổ đông chi phối, dư nợ ngân hàng có đến 70% - 90% phục vụ cho nhóm cổ đông đó.

2.2.4. Rủi ro từnỢxấu

Nguyên nhân đến từ việc câp tín dụng của các NHTM, khi hoạt động này không dựa vào quy định tín dụng chặt chẽ mà chủ yếu từ môi quan hệ thân thiết. Các chủ sở hữu có thể tác động gây áp lực để thực hiện cấp tín dụng cho các hoạt động kinh doanh theo mục đích riêng của mình. Việc nguồn lực phân bổ không được đánh giá, giám sát đầy đủ sẽ dễ gây ra nợ xâu. Khi đã xuất hiện nợ xâu, việc xử lý sẽ khó khăn hơn nhiều, do mối quan hệ lằng nhằng của sở hữu chéo.

3. Một số đề xuất nhằm hạn chế tác động tiêu cực của sở hữu chéo

Thứ nhất, các quy định về kế toán, hệ thông các quy định an toàn cần được liên tục nâng cao

tính minh bạch, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn, để loại trừ tính nhiễu của sở hữu chéo trong vốn tự có, khoản đầu tư của tổ chức tín dụng này vào tổ chức tín dụng khác phải được xác định rõ và loại trừ khỏi vốn cáp 1 của tổ chức được góp vốn khi tính hệ số an toàn vốn (CAR) của tổ chức này, tránh tình trạng vốn chảy lòng vòng trong hệ thống, dẫn tới việc tăng vốn không thực chát. Đặc biệt, các quy định về phòng chông rửa tiền cũng phải được thực thi một cách nghiêm túc. Ví dụ, các cổ đông đi vay tiền hoặc các nguồn tiền để góp vốn thành lập ngân hàng không minh bạch cần được phát hiện và xử lý nghiêm minh.

Thứ hai, cần nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp trong nội bộ ngân hàng, yêu cầu ban kiểm soát phải thực sự độc lập với HĐQT và có quyền phủ quyết các quyết định có ảnh hưởng tiêu cực hoặc rủi ro cao đôi với quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ; phải can thiệp, ngăn chặn, phát hiện, báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp HĐQT có những quyết định trái pháp luật.

Bên cạnh đó, vai trò của thành viên độc lập trong HĐQT phải thực sự độc lập, có tiếng nói, ngăn chặn, thể hiện quan điểm của mình trong trường hợp quyết định của HĐQT gây bất lợi cho các cổ đông nhỏ lẻ hoặc phục vụ cho lợi ích nhóm.

Thứ ba, quy định câm tình trạng đầu tư "lòng vòng” giữa các ngân hàng với nhau (theo kiểu ngân hàng A đầu tư vào ngân hàng B, ngân hàng B đầu tư vào ngân hàng c và ngân hàng c lại quay lại đầu tư vào ngân hàng A). Nếu hiện tượng này bị phát hiện, cần có các chế tài theo hướng xử lý hình sự. Trong đó, để xử lý các mối quan hệ sở hữu chéo hiện tại, phần sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng có thể được nhượng lại cho các trung gian độc lập, trong đó ưu tiên đầu tư của các định chế tài chính, ngân hàng nước ngoài.

Thứ tư, hoàn thiện Luật thuế Thu nhập cá nhân, đặc biệt trong vấn đề kê khai thuế và tăng mạnh cũng như hình sự hóa chế tài phạt các vi phạm trôn thuế thu nhập cá nhân. Thực hiện được điều này sẽ giảm thiểu vấn đề các cá nhân sử dụng tên của người khác hoặc tổ chức khác để từ đó sở hữu và chi phôi nhiều ngân hàng ■

266 Số 17 - Tháng 7/2021

(4)

TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG-BẢO HIỂM

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Thực trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị, Tạp chí Ngân hàng, số 12/2013. Truy cập tại: https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/] 17/491

2. Mai Ngọc (2017). Khó giải quyết sở hữu chéo ngân hàng, vì đâu? Truy cập tại: https://cafef.vn/kho-giai-quyet- so-huu-cheo-ngan-hang-vi-dau-20170212122237416.chnCafef.vn

3. Phan Thị Nhã Trúc (2016). Sở hữu chéo giữa ngân hàng thương mại và công ty niêm yết trên TTCK. Truy cập tại:

http://www.baomoi.eom/so-huu-cheo-giua-ngan-hang-thuong-mai-va-cong-ty-niem-yet-tren-ttck/c/19164815.epi

Ngày nhận bài: 12/6/2021

Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 24/6/2021 Ngày châp nhận đăng bài: 9/7/2021

Thông tin tác giả:

ThS. NGUYỄN THÀNH TRUNG

Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật công nghiệp

RISKS POSED BY THE CROSS-OWNERSHIP ISSUE IN VIETNAMS BANKING SYSTEM

• Master. NGUYEN THANH TRUNG

University of Economics - Technology for Industries

ABSTRACT:

Cross-ownership in Vietnams banking system has been a persistente problem and many credit institutions in Vietnam have not yet solved this issue effectively. The cross-ownership poses many risks to Vietnamese banks, especially the problem of non-performing loans and it negatively affects the banking systems restructuring. This paper points out risks posed by the cross-ownership issue in the Vietnams banking system and proposes some solutions to mitigate this problems impacts.

Keywords: commercial banks, the State Bank of Vietnam, credit institutions, cross­

ownership.

So 17 - Tháng 7/2021 2Ó7

Referensi

Dokumen terkait